Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

B. Ngài Đạo XướcTư Tưởng Tịnh Độ

16 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 11737)
B. Ngài Đạo Xước và Tư Tưởng Tịnh Độ
TƯ TƯỞNG TỊNH ĐỘ TÔNG

HT Thích Như Điển biên soạn


III. TỊNH ĐỘ TÔNG CỦA TRUNG HOA

B.- Ngài Đạo XướcTư Tưởng Tịnh Độ

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế, Ngài chia giáo pháp của Ngài ra làm 3 thời kỳ. Đó là thời Chánh Pháp gồm 500 năm; thời Tượng Pháp gồm 1.000 năm và thời kỳ Mạt Pháp gồm 10.000 năm.

Thời Chánh Pháp có nghĩa là: Các hành giả có tu, có hành và có chứng. Thời kỳ nầy là thời kỳ của Đức Phật, các vị Bồ Tát và các vị A La Hán xuất thế. Khi nghe giáo pháp từ bi, trí tuệ của Phật dạy đều hoan hỷ tín thọthành tựu quả vị Bồ Đề. Ngay cả độc ác sinh tâm hại Phật như: Đề Bà Đạt Đa, Vô Não hay bất hiếu như A Xà Thế, ác độc như bạo chúa A Dục trước khi quy y Tam Bảo v.v… nhưng khi những vị nầy nghe, hiểu và thực hành giáo lý giải thoát ấy thành tựu; tức là điểm đến của tâm có kết quả. Thời nầy gọi là thời kỳ có tu, có hành và có chứng; nhưng tiếc thay chỉ có 500 năm ngắn ngủi.

Thời kỳ Tượng Pháp 1.000 năm, sau thời Chánh Phápthời kỳ: Có tu, có hành nhưng không chứng. Thời kỳ nầy giáo pháp của Đức Phật vẫn còn tại quê hương Ấn Độ và lần đầu tiên di chuyển về phía Tích Lan cũng như Trung Âu, châu Phi và miền Bắc Ấn Độ, để từ đó tư tưởng Đại Thừa được phát triển qua sự xiển dương lý Vô Ngã, tánh không, trung đạo của các vị Đại Luận Sư như Vô Trước, Thế Thân, Mã MinhLong Thọ.

Nếu kể thời của Ngài Long Thọthời gian 300 năm đầu của Tượng Pháp (Ngài sinh ra sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn độ 800 năm). Thế mà Ngài đã biết rằng: Trong tương lai việc tu chứng không phải dễ dàng. Do vậy mà Ngài đã xiển dương pháp môn Tịnh Độ qua việc Niệm Phật và cầu vào tha lực của Đức Phật A Di Đà và qua bổn nguyện lực ấy, các chúng sanhthế giới Ta Bà sanh về Tây Phương một cách dễ dàng hơn. Rồi từ đó Ngài Thế Thân (người Ấn Độ) bắt cầu qua Ngài Đàm Loan (người Trung Hoa) cho tha lực ấy có cơ hội phát triển tại lục địa Á Châu rộng lớn nầy.

Nếu bảo rằng thời kỳ Mạt Phápthời kỳchúng sanh chỉ có tu, không hành và không chứng thì thời gian nầy chính thức bắt đầu vào cuối thế kỷ thứ 9 và đầu thế kỷ thứ 10 sau Tây lịch. Hay nói đúng hơn là cuối thời thịnh Đường của Trung Quốc. Thời nầy có các vị Tổ Thiền nhưng vẫn tu Tịnh Độ như Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ chẳng hạn. Đây là dấu mốc của lịch sử truyền thừa của Phật Giáo và là tư tưởng tối thượng thừa của những ai muốn nương vào câu Phật hiệu để giải thoát sanh tử luân hồi.

“Ngài Đạo Xước sinh năm 562 và tịch năm 645, là vị Tăng thuộc Tông Tịnh Độ đời nhà Đường, người Vấn Thủy, Tinh Châu (huyện Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây) có thuyết nói Ngài là người Tấn Dương, Tinh Châu, họ Vệ. Cũng gọi là Tây Hà Thiền Sư. Là Tổ thứ 2 của Tông Tịnh Độ, vị thứ 4 trong 7 vị Cao Tăng của Chân Ngôn Tông Nhật Bản.

Năm 14 tuổi, Sư xuất gia, học khắp các kinh luận, đặc biệt tinh thông kinh Niết Bàn và từng giảng dạy kinh nầy tất cả 24 lần. Sau, Sư ở tại chùa Huyền Trung do Ngài Đàm Loan sáng lập, nhân đọc Văn bia của Ngài Đàm Loan mà chuyển sang tín ngưỡng Tịnh Độ. Lúc ấy Sư được 48 tuổi, từ đó mỗi ngày Sư đều niệm Phật 7 vạn biến.

Suốt một đời, Sư giảng kinh Quán Vô Lượng Thọ tới hơn 200 lần; chủ trương bất luận là người xuất gia hay tại gia đều nên lấy việc niệm Phật làm cốt yếu. Trong lúc niệm Phật phải đếm những hạt đậu nhỏ gọi là “Tiểu đậu niệm Phật”, đây là khởi đầu của việc lần tràng hạt niệm PhậtTrung Quốc.

Năm Trinh Quán thứ 3 (629), Sư biết trước ngày tịch; nên họp chúng lại để từ biệt. Khi bốn chúng đông đủ, bỗng thấy Ngài Đàm Loan hiện thân bảo cho biết là dư báo chưa hết, nên Sư lại tiếp tục sinh hoạt như thường. Vua Thái Tông từng đến Thái Nguyên thăm Sư và ban cho nhiều báu vật. Đến năm 80 tuổi, sắc diện Sư vẫn hồng hào, thần khí sảng khoái, giảng giải về Tịnh nghiệp, lý nghĩa thông suốt.

Tháng tư năm Trinh Quán thứ 19 (645) Sư tịch, thọ 84 tuổi. Sư có các vị Đệ tử như: Thiện Đạo, Đạo Phủ, Tăng Diễn, Đạo Ngân.

Trứ tác: Luận Tịnh Độ 2 quyển, An Lạc tập 2 quyển”.

(Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 16752-1653). (Xem Tịnh Độ Vãng Sanh truyện quyển Trung; Phật Tổ thống kỷ quyển 28; Tục Cao Tăng truyện quyển 20, Luận Tịnh Độ quyển hạ).

Nếu niệm thong thả một tràng hạt 108 câu Phật hiệu đầy đủ sáu chữ Hồng Danh “Nam Mô A Di Đà Phật” thì phải cần ít nhất là 5 phút. Một giờ đồng hồ có 60 phút. Trung bình có 1.296 câu được niệm. Nếu niệm liên tục trong 24 giờ đồng hồ thì tổng số là 31.064 lần; nhưng nếu chỉ niệm A Di Đà Phật hoặc giả Di Đà Phật; nghĩa là không cần dùng chữ Nam Mô và chữ A phía trước niệm lướt nhanh trong đầu thì số lượng 70.000 lần có thể niệm trong một ngày một đêm được. Điều ấy có nghĩa là lúc đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, uống, đại, tiểu tiện, lúc làm việc, giảng kinh, ngủ nghỉ v.v… lúc nào trong đầu cũng phải có câu Phật hiệu, thì mới được như vậy. Ở đây nói Ngài Đạo Xước mỗi ngày niệm 7 vạn câu Phật hiệu; tức là 70.000 lần. Quả là một công phu tu tập quá miên mật. Ngày xưa chưa có tràng hạt, mà phải dùng hạt đậu để tính số; cứ mỗi một câu Phật hiệu đã được niệm thì bỏ vào hay bỏ ra khỏi rổ một hạt đậu. Công phu hành trì của các vị Tổ Sư ngày xưa, bây giờ hầu như chẳng có ai theo chân nổi.

Lại trong Tiểu Sử của Ngài được cho biết rằng: Ngài đã giảng kinh Đại Bát Niết Bàn 24 lần. Điều nầy cũng thật là hy hữu. Bộ kinh nầy Đức Phật nói tại núi Linh Thứu, trước lúc thị tịch Niết Bàn cho các vị Bồ Tát, A La Hán, chư Thiênloài người nghe. Kinh nầy đã được dịch ra tiếng Việt; có 2 quyển. Mỗi quyển độ 700 trang. Riêng bản thân chúng tôi và Tăng, Ni chúng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, phát nguyện lạy kinh mỗi chữ mỗi lạy trong mỗi mùa An Cư Kiết Hạ từ sau rằm tháng tư đến rằm tháng bảy. Thường thường mỗi đêm lạy từ 250 đến 350 lạy như thế. Lạy ròng rã trong gần 10 năm qua; nhưng mới qua gần một nửa quyển thứ 2. Có lẽ còn đến 5 hay 6 mùa hạ nữa sau năm 2011 mới lạy xong bộ kinh nầy. Ở vào thời điểm năm 2011 mới lạy đến phẩm “Sư Tử Hống”. Lạy xong bộ kinh nầy có lẽ trên dưới 500.000 lạy. Thế mà Ngài Đạo Xước đã lặp đi lặp lại 24 lần bộ kinh quan trọng nầy. Vậy trong kim ngôn, ngọc ngữ của Ngài không biết bao nhiêu là triệu chữ kinh văn. Quả thật ngôn ngữ, lời văn, sự linh hoạt của các vị Pháp Sư Phật Giáo không biết dùng bao nhiêu lời mới có thể tán dương hết được công đức này!

Năm Trinh Quán thứ 3 (629) lúc ấy Ngài muốn thị tịch Niết Bàn; nhưng vẫn còn ở lại với đời để độ sanh, vì thấy hình ảnh của Đệ Nhất Tổ Tịnh Độ Tông là Ngài Đàm Loan hiện ra, có ý muốn Ngài Đạo Xước ở lại với đời thêm nhiều năm nữa để Phật Đạo được nhờ. Thế là Ngài đã kéo dài mạng sống của mình thêm 16 năm nữa. Mãi cho đến năm 645 thì Ngài đã vãng sanh Tịnh Độ.

Năm 629 cũng là năm Ngài Huyền Trang đúng 30 tuổi. Năm ấy Ngài Huyền Trang sang Ấn Độ để thỉnh kinh và suốt 17 năm trường đi về như vậy, Ngài Huyền Trang đã về lại Trung Quốc vào năm 646. Lúc ấy Ngài Đạo Xước đã viên tịch trước đó một năm rồi. Đây là thời thịnh Đường, Phật Giáo phát triển thật mạnh và Tịnh Độ lúc ấy cũng đã đơm hoa kết trái tại xứ sở Trung Quốc nầy.

“Ngài Đạo Xước (562-645) có trứ tác quyển An Lạc Tập gồm 2 quyển. Vào đời nhà Đường và đã thu vào Đại Chánh tạng tập 47. Cứ theo luận Tịnh Độ của Ngài Ca Tài nói, thì Ngài Đạo Xước tin theo Tịnh Độ giáo vào năm Đại Nghiệp thứ 5 (608) đời Tùy; lúc ấy đã 48 tuổi. Như vậy bộ kinh nầy có thể đã được viết vào khoảng năm 609 đến năm 645 Tây lịch. Về mục đích của bộ sách, có nhiều thuyết khác nhau, có thuyết bảo sách nầy là từ trong toàn bộ giáo nghĩa Phật Giáo mà rút tỉa ra những nghĩa chủ yếu của Tịnh Độ giáo, chứ không liên quan đến bộ kinh điển đặc biệt nào; có thuyết bảo sách nầy là trình bày ý nghĩa chủ yếu của ba bộ kinh Tịnh Độ, là sách khuyên người vãng sanh; cũng có thuyết bảo là giải thích yếu nghĩa của kinh “Quán Vô Lượng Thọ”, nhằm tuyên dương thực nghĩa của việc vãng sanh Tịnh Độ. Nội dung bộ sách do 12 môn lớn cấu thành. Trong sách, giáo pháp một đời của Đức Phật được chia làm 2 môn Thánh ĐạoTịnh Độ và cho rằng môn Tịnh Độ thích hợp với chúng sanh độn căn ở đời mạt pháp; cho nên đề xướng pháp môn niệm Phật, khuyên người ta niệm Phật cầu vãng sanh thế giới Cực Lạc. Đời sau, Nhật Bản chia Phật Giáo thành Thánh Độ Môn và Tịnh Độ Môn, chính đã bắt nguồn từ sách nầy.

Thời đại Ngài Đạo Xước đang chứng kiến sự kiện Vũ Đế nhà Bắc Chu bài xích Phật Giáo, tư tưởng Mạt Pháp trong Phật Giáo Trung Quốc lúc đó rất là phổ biến. Vấn đề tồn tại của Phật Giáo bị đe dọa thật sự. Lúc bấy giờ lại có các nhà thuộc tông Tam Luận cho rằng thuyết vãng sanh Tịnh Độkiến chấp hữu tướng, các nhà chú thích Luận Nhiếp Đại Thừa thì cho rằng Niệm Phật là “biệt thời ý”, rồi phần nhiều bài bác pháp môn Tịnh Độ. Bởi thế, trong sách nầy, Ngài Đạo Xước cũng đã biện luận rất nhiều về ý kiến đó.

Sách nầy còn căn cứ vào thuyết năm cái năm trăm năm nói trong kinh Đại Tập, mà chủ trương Phật Giáo Trung Quốc lúc bấy giờ đang ở vào năm trăm năm thứ tư, chúng sanh cần phải nương tựa vào Pháp Môn Niệm Phật mới có thể được cứu vớt, do đó mới cực lực đề xướng Pháp môn niệm Phật. Tư tưởng nầy, sau được học trò của Ngài là Sư Thiện Đạo tập đại thành. Tư tưởng nầy, sau khi được truyền vào Nhật Bản, ở thời đại Liêm Thương (Kamakura), đã trở thành cốt tủy trong Tịnh Độ giáo của các vị Pháp NhiênThân Loan. (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 130).

Giáo lý chính của Đạo Phậtpháp duyên khởi; nghĩa là cái nầy sanh, nên cái kia sanh. Cái nầy có nên cái kia có; cái nầy diệt nên cái kia cũng diệt theo. Không có một vật nào độc lập cả, mà phải duyên vào nhau để tồn tại. Từ đó phải trải qua 4 giai đoạn là: thành, trụ, hoại, diệt (không) và tất cả mọi hiện tượng trên thế gian nầy xảy ra phải được nhìn nhận dưới sự nhận thức của Tứ Pháp Ấn. Đó là: Vô thường, khổ, không và vô ngã. Chỉ có Niết Bàn mới là tịch tịnh, an vui giải thoát. Do vậy An Lạc tập của Ngài Đạo Xước hình thành cũng không qua khỏi nhận định nầy. Ngoài ra, Ngài còn căn cứ theo Kinh Vô Lượng Thọ để giải thích, cũng như nhìn hình ảnh văn bia của Thầy mình (Đàm Loan) mà tỏ ngộ lý mầu, thì quả Phật Pháp môn trì danh niệm Phật đối với Ngài có một công năng vô tận.

Sau khi Phật Giáo được du nhập vào Trung Quốc thời Hậu Hán Minh Đế, Phật Giáo đã phát triển cực thịnh cho đến đời Vua Lương Vũ Đế (464-549). Thời kỳ nầy phải nói là thời của Thành và Trụ. Đến đời Vũ Đế nhà Bắc Chu, chính Ngài Đạo Xước đã chứng kiến, nhà Vua và triều thần phế Phật. Đây là thời kỳ hoại cũng như sắp đi đến chỗ diệt vong. Nếu không có Ngài Huyền Trang xuất hiện vào đầu nhà Đường thì Phật Giáo cũng sẽ bị lãng quên với lịch sử mấy ngàn năm của Trung Quốc. Do vậy thịnh rồi suy, suy rồi thịnh. Đó là chuyện bình thường của vũ trụvạn vật.

Trong “Luận A Tỳ Đàm về việc thành lập thế giới” Đức Phật không bảo rằng: Quả đất nầy tồn tại đến bao giờ, mà Đức Phật đã quy kết vào những điều sau đây:

- Nếu con người còn kính tin Tam Bảo

- Nếu con người còn tôn kính cha mẹ

- Nếu con người còn hòa hảo với anh chị em

- Nếu con người còn có tâm thương xót chúng sanh

thì lúc ấy quả đất nầy vẫn còn tồn tại. Bằng ngược lại, thì tuổi thọ của quả đất nầy sẽ mau giảm và lúc ấy sự hủy diệt con người cũng như muôn vật đang sinh sống trên hành tinh nầy sẽ có cơ nguy. Tuy nhiên mất rồi còn; còn rồi mất. Đó là định luật thiên thu của vũ trụ nầy.

Thật sự ra thì pháp không mạt, chỉ do con người làm cho pháp không phát triển mà thôi. Thời chánh pháp, tượng phápmạt pháp vẫn nội dung của giáo lý ấy, không có gì thay đổi; nhưng có thời có người tu chứng và có thời con người tu không chứng. Ấy là do con người, chứ không phải do pháp. Do vậy cho nên tùy theo từng thời gianhoàn cảnh khác nhau của mỗi một thời mà các vị Tổ Sư ra đời để dẫn dắt quần sanh đi về nẻo thiện. Có như thế Phật Pháp mới mãi mãi được truyền lưu.

Qua lịch sử mấy ngàn năm đã chứng minh được điều ấy. Đã có biết bao nhiêu triều đại vẻ vang cũng đã bước ngang qua lịch sử. Đâu có triều đại nào vững chãi mãi mãi với năm tháng trên ngai vàng? và hung ác, tàn bạo, trù dập Phật Giáo v.v… rồi các triều đại ấy cũng đâu có luôn vững bền với nhân tâmthế đạo. Chỉ có Đạo giáo mới là con đường đạo đức chính thống để mọi người có thể nương theo; nhằm củng cố đời sống tâm linh của mình. Từ đó vựt dậy một niềm tin và đứng vững một thời với đất trời và vạn vật; rồi lại biến đổi thăng hoa, rồi lại trầm luân khốn khổ; nhưng dầu cho bất cứ thời điểm nào, Phật Giáo vẫn có được những bậc Thiền gia Thạch Trụ, làm chỗ tựa vững chắc cho người Phật Tử nương tựa. Từ đó, Phật Giáo được mọi tầng lớp của thế gian nầy chấp nhận một cách dễ dàng như hơi thở của con người một cách tự nhiên hay như khí trời cùng vạn vật.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7537)
Này các tì kheo, người thường tục, không có kiến thức tinh tế, quy phục thế giới hàng ngày của danh, và thấy các sự vật với con mắt, trung thành với các sự vật mà ...
(Xem: 7598)
Thưa đồng bào Tây Tạng của tôi, cả ở trong và ngoài Tây Tạng, cùng tất cả những người thực hành theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, và hết thảy những ai có...
(Xem: 6123)
Một thời Thế Tôn ngự tại tịnh xá Kỳ Viên. Bấy giờ Thiên tử Rohitassa, biệt danh Xích Mã, dung sắc tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi kể rằng:
(Xem: 9992)
Khi nói một tâm thức trống không, thì nó trống không về cái gì? Tánh Không (Emptiness /Vacuité/sự Trống Không) phải chăng có nghĩa là...
(Xem: 7101)
Kinh điển của Ta nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói, hiện nói, sẽ nói… mà ở trong đó Pháp Hoa rất là khó tin, khó hiểu. Xa kín nhiệm sâu.
(Xem: 7334)
"Có bốn loại an lạc, nầy gia chủ, người gia chủ thọ hưởng các dục thâu hoạch được, tùy thời gian, tùy thời cơ khởi lên cho vị ấy. Thế nào là bốn ?
(Xem: 6995)
Trong bài viết này sẽ giới thiệu bảy loại vợ khác theo tinh thần Abidharma và các văn bản hệ Luật tạng hiện có trong Đại Tạng Kinh, đối chiếu với mười loại vợ theo Luật Tạng Bí-sô của văn điển Pāli và...
(Xem: 9364)
Ngài Huệ Năng (638-713) là một bậc cao Tăng của thiền lâm Đông Độ. Cuộc đời cũng như tư tưởng của ngài là nguồn chất liệu và xúc cảm thiêng liêng để hình thành nên...
(Xem: 5847)
Cái thái dương hệ, tinh hà vũ trụ kia, hợp rồi tan, tan rồi hợp. Tất cả cái này tạo thành quy luật của tồn tại, ảnh hưởng đến đời sống và địa cầu này.
(Xem: 7110)
Nói đến tái sinh, thường chúng ta nghĩ đến một thọ sinh mới. Một con người vừa chết và được tái sinh lại dưới các hình thức Trời, Ngườ,i Atula hay Súc sinhNgạ quỷ.
(Xem: 6533)
Mặc mũ giáp là tu hành Ba Thân: Pháp thân tánh Không, Báo thân ánh sáng các pháp, và Hóa thân như huyễn. Tu hành là dùng Chỉ Quán để...
(Xem: 6114)
Bát Chánh Đạo chính là con đường giúp ta thanh lọc tư tưởng, chuyển hóa tâm phiền muộn, khổ đau thành an lạc, hạnh phúc.
(Xem: 7172)
Trong cuộc sống, con người luôn chuẩn bị tâm thế để đối mặt với khổ đau. Khi khổ đau đến, hoặc chúng ta phải chịu đựng và quỵ ngã, hoặc...
(Xem: 14399)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20459)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 9477)
Ngày nay nếu chúng ta có dịp đọc lại trong kinh tạng, sẽ thấy có rất nhiều tư liệu nói về Bồ-tát Quán Thế Âm.
(Xem: 7886)
Luận Hiển dương Thánh giáo 顯揚聖教論, tiếng Phạn là Ārya-śāsana-prakaraṇa-śāstra hay Prakaranaryavaca-sastra (Acclamation of the Scriptural Teaching/ Treatise of Acclamation of the Sagely Teaching),,,
(Xem: 8198)
Bát chánh đạo’ hay Tám con đường cao quý (八正道 - āryāstāngika-mārga/còn được gọi là "Trung Đạo") là một trong những nền tảng của toàn bộ lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 7458)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, và mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 9380)
Khái niệm về Niết bàn (Nirvana) đã xuất hiện hơn 2500 năm. Xuyên qua nhiều thế kỷ, biết bao học giảtriết gia đã cố gắng để...
(Xem: 7470)
Nếu mỗi sự-vật là chẳng có tự tính, không cái gì có thể sinh hoặc diệt, vậy thì từ hoàn toàn đoạn trừ hoặc diệt tận cái gì mà kết quả là niết bàn?
(Xem: 7491)
Hai pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể hiểu biết phải được tận diệt: vô minhái dục; hai pháp có thể ...
(Xem: 7684)
Giải thoát hay tánh Không thì không chỗ nào không có, nên bất cứ ở đâu chúng ta cũng có thể gặp nó.
(Xem: 9488)
Đức Phật dạy: “Tất cả đều do “tâm” tạo”, “Trong các pháp, “tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả,,,
(Xem: 8795)
Hôm nay chúng tôi nói "vào cửa Không" tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: "Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm".
(Xem: 7395)
Niết bàn được Đức Thế Tôn miêu tả là hai phương diện cho những người sống một đời sống đức hạnh trong sáng, thực hành giới hạnh dẫn tới ...
(Xem: 7977)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiênloài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập
(Xem: 7041)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ...
(Xem: 7685)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm.
(Xem: 9872)
Một trong những nhà lãnh đạo chính của phong trào Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là đạo sư- tăng sĩ Long Thọ.
(Xem: 8291)
Trong tín niệm vãng sanh của một số truyền thống Phật giáo Bắc truyền, ở quá khứ cũng như hiện tại, đã căn cứ vào tình trạng nóng, lạnh từ thân thể...
(Xem: 8840)
Khi một người sắp chết, người ấy bắt đầu đánh mất sự kiểm soát ý thức của tiến trình tinh thần. Rồi đến lúc hành động và thói quen của người ấy bị ngăn trở với ký ức xảy ra.
(Xem: 7692)
Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thểtrường tồn,...
(Xem: 8845)
Muốn tâm an vui và có chánh kiến thì bình thường, ngoài việc làm phước chúng ta cần có thời gian học hỏi tu tập để có trí tuệ nhìn thấu lẻ vô thường và định tĩnh trước những cảnh bất như ý.
(Xem: 8665)
Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này.
(Xem: 8009)
Lăng-già, Thập Nhị Môn Luận cũng như trong luận Thành Duy Thức có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp. Nhân duyên. Thứ đệ duyên. Duyên duyên.
(Xem: 9024)
Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru,
(Xem: 9437)
Đọc lịch sử Đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, khi sao Mai vừa mọc thì ...
(Xem: 8760)
Nếu chúng ta bước vào Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) [1] sau khi qua Lăng già (Laṅkāvatāra) Kim cang (Vajracchedika), Niết-bàn (Parinirvāṇa), hay ...
(Xem: 8892)
Tôn giả Angulimala[1] trước khi gặp Phật, là một kẻ sát nhân. Sau khi xuất gia, tôn giả tinh tấn tu tập, lấy phép quán từ bi làm tâm điểm trong việc tu tập của mình.
(Xem: 7231)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông...
(Xem: 9196)
Giáo lýđức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đềduyên khởiduyên khởi là nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do...
(Xem: 8609)
Khi một Bồ tát tu tập một đạo lộ với các mantras, phát bồ đề tâm theo phương diện tương đốibản chất của đại nguyện, Bồ tát phải ...
(Xem: 7899)
“Nói kinh Đại thừa vô lượng nghĩa xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập trong định ‘Vô lượng nghĩa xứ’, thân tâm chẳng động.
(Xem: 9652)
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Sắc tức là không, không tức là sắc) là câu kinh đơn giảnnổi tiếng nhất trong hệ Bát-nhã Ba-la-mật của Phật pháp.
(Xem: 10201)
Nguyên đề của sách là The Essentials of Buddhist Philosophy dịch theo tiếng Việt là Tinh hoa Triết học Phật giáo. Nguyên tác: Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ dịch
(Xem: 8789)
Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên...
(Xem: 8405)
Con đường đưa đến giác ngộ, giải thoátNiết Bàn chính là Bát Thánh Đạo, Tứ Diệu Đế; và phần quan trọng nhất trong con đường này là Thiền định.
(Xem: 7651)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là...
(Xem: 9349)
Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-nan-đà tập họp các đệ tử để...
(Xem: 7499)
Thế giới Pháp Hoa hay nhà cha vốn như vậy (Mười Như thị, phẩm Phương tiện, thứ 2), nghĩa là vốn có sẵn, cho nên sự trở về nhà nhanh hay chậm là tùy nơi chúng ta.
(Xem: 15379)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua kể từ khi bậc Đạo Sư từ bi của chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giảng dạy ở Ấn độ.
(Xem: 7325)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Sīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể...
(Xem: 8512)
Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối...
(Xem: 12267)
Đối với người tu tập thuần thành thì cái CHẾT thực sự không phải là chết Mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn.
(Xem: 7335)
Thiền sư Bạch Ẩn ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại ...
(Xem: 11524)
Ở bài này, chỉ dựa trên cơ sở Kinh Nikaya để xác minh ý nghĩa lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật Giáo.
(Xem: 8323)
Thời Thế Tôn tại thế, các đệ tử tại gia cũng như xuất gia đa phần đều tu tập tinh tấn, dễ dàng chứng đắc các Thánh vị.
(Xem: 8048)
Đức Phật nói rằng khi Ngài nhìn ra thế giới ngay sau khi Giác ngộ, Ngài thấy rằng chúng sanh cũng giống như...
(Xem: 7920)
Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant