Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

04. Những Tích Bố Thí

30 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 10647)
04. Những Tích Bố Thí

TÌM HIỂU PHƯỚC BỐ THÍ

Soạn giả: Tỳ khưu Hộ Pháp


NHỮNG TÍCH BỐ THÍ

Những tích bố thí dưới đây, được trích dịch tóm tắt từ các bộ Apādāna, bộ Vimānavatthu, bộ Chú giải Dhammapadaṭṭhakathā, bộ Chú giải Aṅguttaranikāya, v.v...

Tích Bố Thí Những Vật Dụng

Vào thời kỳ Ðức Phật Padumuttara xuất hiện trên thế gian, tiền thân Ngài Ðại Ðức Pilindavaccha [Bộ chú giải Aṅguttaranikāya, phần Etadaggavagga] là một cận sự namđức tin trong sạch nơi Ðức Phật Padumuttara.

Một hôm, người cận sự nam này đến nghe thuyết pháp, nhìn thấy Ðức Phật tuyên dương một Tỳ khưu xuất sắc đệ nhất trong hàng Thanh Văn đệ tử về đức hạnh, làm cho chư thiên yêu mến. Người cận sự nam này có nguyện vọng mong muốn được địa vị như vị Tỳ khưu ấy, nên làm phước bố thí cúng dường Ðức Phật cùng chư Ðại Ðức Tăng những vật dụng như y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh; và được Ðức Phật Padumuttara thọ ký rằng: "Trong tương lai, còn 100 ngàn đại kiếp nữa, đến thời kỳ Ðức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, người cận sự nam này sẽ xuất gia trở thành Tỳ khưu, rồi sẽ được địa vị xuất sắc đệ nhất đức hạnh, làm cho chư thiên yêu mến, như vị Tỳ khưu đệ tử của Như Lai".

Người cận sự nam ấy, sau khi chết, do phước thiện bố thí những vật dụng cho quả, khi thì tái sanh làm chư thiên cõi trời dục giới hưởng đầy đủ mọi sự an lạc trên cõi trời ấy; khi thì tái sanh làm người trong gia đình giàu sang phú quý, đầy đủ những món vật dụng quý báu trong cõi người, kiếp nào cũng như vậy, suốt 100 ngàn đại kiếp trái đất không hề sa đọa trong 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh); chỉ tái sanh những cõi thiện giới: cõi người, cõi trời mà thôi.

Ðến kiếp chót, được tái sanh làm người trong gia đình Bà la môn dòng dõi cao quý, đặt tên Pilindavaccha. Vào thời kỳ Ðức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, Ngài đến nghe pháp rồi phát sanh đức tin trong sạch nơi Ðức Phật, xin xuất gia trở thành Tỳ khưu, tiến hành thiền địnhthiền tuệ, chứng đắc từ Nhập Lưu Thánh Ðạo – Nhập Lưu Thánh Quả cho đến A-ra-hán Thánh Ðạo – A-ra-hán Thánh Quả cùng với Tứ tuệ phân tích và Lục thông.

Ðức Phật tuyên dương Ngài Ðại Ðức Pilinda-vaccha rằng:

"Etadaggaṃ bhikkhave, mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ devatānaṃ piyamanāpānaṃ yadidaṃ Pilindavaccho".

"Này chư Tỳ khưu, trong hàng Tỳ khưu Thanh Văn đệ tử của Như Lai, Pilindavaccha là Tỳ khưu cao quý nhất về đức hạnh, làm cho chư thiên yêu mến".

Như vậy, sự việc đã thành tựu đúng theo nguyện vọng của Ngài và đúng theo lời thọ ký của Ðức Phật Padumuttara trong quá khứ.

Tích Bố Thí Thuốc

Tiền thân của Ngài Ðại Ðức Bākula được tóm lược như sau__

Thời kỳ Ðức Phật Anomadassī xuất hiện trên thế gian, tiền thân Ngài Bākula là một vị đạochứng đắc 8 bậc thiền, có ngũ thông, đến hầu Ðức Phật nghe pháp, xin thọ Tam quy nơi Ðức Phật.

[Bộ Chú giải Aṅguttaranikāya, phần Etadaggavagga; Thời kỳ Ðức Phật Anomadassī đến Ðức Phật Padumuttara cách 1 a tăng kỳ]

Một thời nọ, Ðức Phật Anomadassī bị lâm bệnh phong hàn, vị đạo(tiền thân Ngài Ðại Ðức Bākula) đi tìm thuốc đem về làm phước bố thí cúng dường đến Ðức Phật. Nhờ uống thuốc ấy, Ðức Phật khỏi bệnh.

Vị đạocầu nguyện rằng: do nhờ phước thiện bố thí thuốc, trị khỏi bệnh của Ðức Phật, kiếp nào con cũng có sắc thân không bệnh hoạn ốm đau.

Vị đạo sĩ ấy sau khi chết, do năng lực bậc thiền sở đắc của mình được tái sanh lên cõi trời phạm thiên, những kiếp kế tiếp suốt 1 a tăng kỳ tái sanh làm người hoặc chư thiên, phạm thiên.

Ðến thời kỳ Ðức Phật Padumuttara [*], tiền thân Ngài Bākula sanh trong gia đình quý tộc, thường đến nghe Ðức Phật thuyết pháp. Một hôm, Ngài nhìn thấy Ðức Phật tuyên dương một vị Tỳ khưu xuất sắc nhất về đức hạnh ít bệnh hoạn ốm đau. Ngài rất hoan hỉ có nguyện vọng muốn được địa vị xuất sắc nhất ấy, Ngài cố gắng tạo mọi phước thiện bố thí cúng dường đến Ðức Phật cùng chư Ðại Ðức Tăng, nhất là bố thí cúng dường thuốc trị bệnh. Ngài được Ðức Phật Padumuttara thọ ký, trong vị lai, vào thời kỳ Ðức Phật Gotama, Ngài sẽ là bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Ðức Phật Gotama xuất sắc nhất về đức hạnh ít bệnh hoạn ốm đau. Ngài vô cùng hoan hỉ tạo mọi phước thiện đến trọn kiếp, do thiện nghiệp ấy cho quả chỉ tái sanh làm người hoặc chư thiên nơi cõi trời mà thôi.

Ðến thời kỳ Ðức Phật Vipassī (Thời kỳ Ðức Phật Padumuttara cách trái đất của chúng ta 100 ngàn đại kiếp trái đất. Thời kỳ Ðức Phật Vipassī cách trái đất của chúng ta 91 đại kiếp trái đất) xuất hiện trên thế gian, tiền thân Ngài Ðại Ðức Bākula sanh trong dòng dõi Bà la môn cao quý. Khi trưởng thành Ngài xuất gia trở thành đạo sĩ chứng đắc các bậc thiền, thường đến hầu Ðức Phật nghe pháp, thọ Tam quy nơi Ðức Phật. Vị đạo sĩ thường đến hộ độ Ðức Phật.

Một lần nọ, có một số Tỳ khưu bị bệnh, vị đạo sĩ đi tìm thuốc về làm phước bố thí chữa trị cho những vị Tỳ khưu ấy đều khỏi bệnh. Ðến khi vị đạo sĩ hết tuổi thọ, do năng lực sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sanh lên cõi phạm thiên. Suốt 91 đại kiếp chỉ tái sanh làm người hoặc chư thiên nơi cõi trời mà thôi.

Ðến thời kỳ Ðức Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian, tiền kiếp Ngài Ðại Ðức Bākula sanh trong gia đình giàu sang phú quý; Ngài đã xây cất chánh điện, trai đường, nhà bếp, nhà vệ sinh, nhà thương dâng cúng đến chư Tăng, đặc biệt thích làm phước bố thí thuốc trị bệnh đến chư Tỳ khưu Tăng. Khi hết tuổi thọ, do phước thiện ấy cho quả được tái sanh cõi trờicõi người, không hề sa đọa trong 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh).

Kiếp hiện tại, cũng là kiếp chót, Ngài sanh trong gia đình phú hộ xứ Kosambī. Ngài sanh ra đời đến ngày thứ năm, theo tục lệ, những người vú nuôi bồng ẵm Ngài xuống dòng sông Yāmunā để tắm cho khỏi bệnh. Một con cá lớn nhìn thấy đứa trẻ tưởng là miếng mồi, bơi đến nuốt chửng Ngài vào bụng. Dầu Ngài nằm trong bụng con cá vẫn cảm thấy an lạc. Do năng lực phước thiện của Ngài, làm cho con cá cảm thấy nóng nảy bơi suốt 3 do tuần đến xứ Bārāṇasi thì bị mắc lưới của dân chài xứ ấy. Dân chài bắt con cá đem bán cho gia đình phú hộ Bārāṇasī không có con. Do năng lực phước thiện của Ngài, khiến cho bà phu nhân phú hộ tự tay mình mổ bụng con cá phát hiện một đứa trẻ nằm trong bụng con cá, bà vô cùng vui mừng, hạnh phúc được một đứa trẻ, bà reo lên "tôi được một đứa con trong bụng cá". Tiếng lành phi thường lan rộng, ông bà phú hộ Kosambī đến nhìn nhận là đứa con trai của chính mình cưu mang đủ 10 tháng sinh ra, đứa bé bị con cá nuốt vào bụng. Như vậy, đứa bé này đúng là con của họ, không phải con của gia đình ông bà phú hộ xứ Bārāṇasī. Hai gia đình phú hộ tranh chấp, không bên nào nhường bên nào. Họ đem sự việc trình Ðức vua phán xử. Ðức vua phán rằng: đứa bé này là con chung của hai gia đình phú hộ: phú hộ xứ Kosambī và phú hộ Bārāṇasī. Do đó, đặt tên Ngài là Bākulakumāra có nghĩa là đứa bé của hai gia đình. Ngài được hai gia đình nuôi dưỡng, mỗi gia đình 4 tháng. Ngài ở gia đình bên này suốt 4 tháng rồi đến gia đình bên kia 4 tháng, và cứ thế thay phiên như vậy.

Cuộc đời Ngài hưởng sự an lạc của hai gia đình phú hộ suốt 80 năm.

Trong thời kỳ Ðức Phật Gotama, một thuở nọ, Ðức Phật ngự đến xứ Kosambī, Ngài Bākula đến hầu Ðức Phật lắng nghe chánh pháp, nhàm chán đời sống tại gia, xin Ðức Phật cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu. Sau khi đã trở thành Tỳ khưu được 7 ngày, qua đến sáng ngày thứ 8 Ngài tiến hành thiền tuệ, chứng đắc từ Nhập Lưu Thánh Ðạo – Nhập Lưu Thánh Quả cho đến A-ra-hán Thánh Ðạo – A-ra-hán Thánh Quả cùng với Tứ tuệ phân tích, hoàn thành xong phận sự của bậc xuất gia.

Ðức Phật tán dương Ngài Ðại Ðức Bākula rằng:

"Etadaggaṃ bhikkhave, mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ appābādhānaṃ yadidaṃ Bākulo".

"Này chư Tỳ khưu, trong hàng Thanh Văn đệ tử của Như Lai, Bākula xuất sắc nhất về đức hạnh ít bệnh hoạn ốm đau".

Những quả báu đều bắt nguồn từ phước thiện bố thí thuốc trị bệnh đến Ðức Phật Anomadassī.

Ngài Ðại Ðức Bākula ít bệnh hoạn ốm đau nhất, xuất gia trở thành Tỳ khưu được 80 hạ. Ngài tịch diệt Niết Bàn lúc tròn 160 tuổi, là người có tuổi thọ, sống lâu nhất trong giáo pháp của Ðức Phật Gotama.

Tích Bố Thí Ðèn

Tiền thân của Ngài Ðại Ðức Pañcadīpaka là một cận sự nam trong thời kỳ Ðức Phật Padumuttara xuất hiện trên thế gian [Bộ Apādāna, tích Pañcadīpaka apādāna].

Người cận sự nam nhìn thấy những người Phật tửđức tin nơi Ðức Phật, thường đến lễ bái cúng dường tại đại cội Bồ Ðề của Ðức Phật Padumuttara. Một hôm, Ngài phát sanh đức tin trong sạch bố thí những ngọn đèn thắp sáng chung quanh cúng dường đại cội Bồ Ðề.

Do năng lực bố thí đèn cúng dường đại cội Bồ Ðề ấy, Ngài được tái sanh làm vua cõi Tam thập tam thiên hưởng sự an lạc trong cõi trời ấy; khi tái sanh làm người là Ðức Chuyển luân thánh vương, hoặc làm Vua một nước lớn hưởng sự an lạc trong cõi người, suốt 100 ngàn đại kiếp trái đất, chỉ tái sanh những cõi thiện giới: cõi ngườicõi trời, không hề bị sa đọa trong 4 cõi ác giới.

Ðến thời kỳ Ðức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, Ngài sanh trong gia đình quý tộc. Khi trưởng thành, một hôm đến nghe Ðức Phật thuyết pháp phát sanh tâm nhàm chán đời sống tại gia, xin Ðức Phật cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu. Sau khi trở thành Tỳ khưu, Ngài tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ chứng đắc từ Nhập Lưu Thánh Ðạo – Nhập Lưu Thánh Quả cho đến A-ra-hán Thánh Ðạo – A-ra-hán Thánh Quả với Tứ tuệ phân tích, Lục thông, hoàn thành xong phận sự của Sa môn.

Như vậy, tất cả quả báu đều bắt nguồn từ bố thí đèn thắp sáng chung quanh cúng dường đại cội Bồ Ðề của Ðức Phật Padumuttara.

Tích Bố Thí Vật Thực

Trong bộ Vimāvatthu, tích Bhikkhādāyakavi-māna được tóm lược như sau:

Người cận sự nam ở trong nhà, rửa tay sửa soạn dùng vật thực, đang xới cơm ra đĩa để ăn, nhìn thấy một vị Tỳ khưu đi khất thực đang đứng trước cửa nhà. Người cận sự nam đem đĩa cơm, có một món đồ ăn ra để vào bát vị Tỳ khưu. Vị Tỳ khưu cầu nguyện an lành xong rồi đi. Người cận sự nam vô cùng hoan hỉ nghĩ rằng: "Hôm nay, ta nhịn ăn, dành vật thực làm phước bố thí cúng dường đến vị Tỳ khưu ấy".

Về sau người thí chủ ấy chết, do năng lực phước thiện bố thí vật thực ấy cho quả, được tái sanh làm vị thiên nam ở cõi Tam thập tam thiên có lâu đài bằng vàng cao 12 do tuần, xung quanh lâu đài có 700 phòng lớn, những cây cột bằng ngọc quý, những đồ trang trí toàn bằng những vật quý giá.

Vị thiên nam có nhiều oai lực, có hào quang sáng ngời mọi phương hướng, có nhiều thiên nữ hầu hạ ngày đêm....

Tất cả mọi quả báu phát sanh do phước thiện bố thí vật thực đến vị Tỳ khưu.

Tích Bố Thí Dép

Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna bay lên cõi Tam thập tam thiên, nhìn thấy một lâu đài nguy nga tráng lệ, có nhiều thiên nữ hầu hạ, bèn hỏi rằng:

- Này thiên nữ, tiền kiếp cô đã tạo phước thiện gì, kiếp này cô hưởng sự an lạc như vậy?

Thiên nữ Upāhanadāyikā trả lời Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna:

- Kính bạch Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna, con là thiên nữ Upāhanadāyikā. Kiếp trước, khi ở cõi người vào thời Ðức Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian, con nhìn thấy vị Tỳ khưu đang đi bát, con có dâng một đôi dép đến vị Tỳ khưu. Do năng lực phước thiện bố thí dép ấy, cho quả được tái sanh lên cõi Tam thập tam thiên, trong lâu đài xinh đẹp, có thiên nữ hầu hạ, hưởng sự an lạc như thế này.

Tích Bố Thí Hoa

Thời kỳ Ðức Phật Sikhi xuất hiện trên thế gian, một người bán hoa lài, đem hoa từ rừng ra, giữa đường gặp Ðức Phật Sikhi ngự đi khất thực, người ấy phát sanh đức tin trong sạch, để giỏ hoa xuống đảnh lễ Ðức Phật rồi cúng dường Ðức Phật một nắm hoa lài. [Thời kỳ Ðức Phật Sikhi cách trái đất chúng ta 31 đại kiếp trái đất.]

Ðức Phật muốn làm cho người bán hoa phát sanh đức tin, nên hóa phép thần thông ghép những đóa hoa thành lọng che trên đầu Ngài, cho đến khi ngự trở về chùa mới biến mất. Người bán hoa nhìn thấy vô cùng ngạc nhiên, vô cùng hoan hỉ. Ðến khi hết tuổi thọ, do phước thiện bố thí cho quả được tái sanh lên cõi Tam thập tam thiên. Do năng lực phước thiện bố thí hoa ấy, chỉ cho quả tái sanh cõi trời, cõi người suốt 31 đại kiếp trái đất, không hề bị sa đọa trong 4 cõi ác giới.

Thời kỳ Ðức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu thân của người bán hoa, cũng do năng lực phước thiện bố thí hoa ấy cho quả tái sanh làm người, gặp Ðức Phật Gotama xin phép xuất gia trở thành Tỳ khưu, hành thiền tuệ chứng đắc đến A-ra-hán Thánh Quả.

Tích Bố Thí 4 Quả Xoài

Trong bộ Vimānavatthu, tích Phaladāyaka-vimāna được tóm lược như sau:

Một người làm vườn xoài của Ðức vua Bimbisāra, một hôm, Ðức vua truyền gọi người làm vườn xoài đến và phán rằng:

- Này ngươi, Trẫm muốn thưởng thức xoài; ngươi có thể làm cách nào để có xoài, đem đến dâng Trẫm được hay không?

- Tâu bệ hạ! Lúc này không phải mùa xoài, xin bệ hạ ráng đợi một thời gian ngắn, hạ thần sẽ cố gắng làm cho cây xoài ra quả sớm.

Ðức vua ưng thuận, người làm vườn xoài chọn một cây xoài rồi chăm sóc đặc biệt, làm cho cây xoài ra bông, kết trái chín được 4 quả. Người ấy đem đến dâng Ðức vua, trên đường đi, nhìn thấy Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna đang đi khất thực, liền nghĩ rằng: "Những quả xoài này trái mùa rất ngon, ta nên làm phước bố thí để bát đến Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna, dầu Ðức vua có giết ta hoặc đuổi ta ra khỏi nước, ta cũng chấp nhận. Nếu ta đem 4 quả xoài này đến dâng cho Ðức vua, thì ta chỉ được bỗng lộc trong kiếp hiện tại mà thôi; còn như ta làm phước thiện bố thí dâng 4 quả xoài này đến Ngài Ðại Ðức, thì ta không những được quả báu ở kiếp hiện tại mà còn vô lượng kiếp vị lai nữa".

Nghĩ vậy, người ấy đem 4 quả xoài đến cung kính làm phước để bát dâng đến Ngài Ðại Ðức. Khi dâng xong, tâm cảm thấy vô cùng hoan hỉ, đi đến hầu Ðức vua tâu rõ mọi việc rồi xin chịu tội.

Nghe tâu xong, Ðức vua truyền lệnh cho một vị quan điều tra xem chuyện này thực hư như thế nào, rồi về trình Ðức vua.

Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna đem 4 quả xoài kính dâng đến Ðức Phật, Ðức Phật độ 1 quả, còn 3 quả, Ngài ban phát cho Ngài Ðại Ðức Sāriputta, Ngài Mahāmoggallāna, Ngài Mahākassapa mỗi Ngài 1 quả.

Vị quan trở về tâu Ðức vua biết sự việc ấy, nghe vậy, Ðức vua vô cùng hoan hỉ nghĩ rằng: người làm vườn là bậc Thiện trí, dám hy sinh sanh mạng để mưu cầu phước thiện thanh cao.

Ðức vua ban thưởng cho người làm vườn một làng để thu thuế, vàng, bạc, vải, đồ đạc... và Ðức vua yêu cầu rằng: "Nhà ngươi có cơ hội tốt làm phước thiện bố thí 4 quả xoài đến Ngài Ðại Ðức, vậy nhà ngươi hãy chia phần phước thiện ấy đến cho Trẫm với".

Người làm vườn xoài tâu rằng:

- Tâu bệ hạ! Kính xin bệ hạ hoan hỉ phần phước thiện ấy.

Về sau, người làm vườn xoài ấy chết, do năng lực phước thiện bố thí ấy cho quả tái sanh làm thiên nam cõi Tam thập tam thiên trong lâu đài bằng vàng cao 16 do tuần, có 700 phòng lớn, cột bằng ngọc quý, những đồ trang trí quý giàu; là một thiên nam có nhiều oai lực, có hào quang sáng ngời khắp mọi phương, có rất nhiều thiên nữ hầu hạ, hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời.

Ðó là quả báu của phước thiện bố thí 4 quả xoài đến Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna.

Tích Bố Thí Cơm Cháy

Trong bộ Vimānavatthu, tích Ācāmadāyikā-vimāna được tóm lược như sau:

Một bà già nghèo khổ ăn mày, sống nhờ đằng sau hiên nhà người khác, người ta nhìn thấy bà đáng thương nên thường cho cơm, cháo và miếng cơm cháy... để bà sống qua ngày.

Một hôm, Ngài Ðại Ðức Mahākassapa vừa xả diệt thọ tưởng định, quán xét nên đi khất thực để tế độ người nào. Ngài nhìn thấy một bà già nghèo khổ, gần chết, nếu bà chết có thể sa đọa địa ngục. Ngài nghĩ nên đi khất thực tế độ bà, để cứu vớt bà tránh khỏi bị sa đọa địa ngục, do nhờ phước thiện bố thí miếng cơm cháy, còn cho quả tái sanh lên cõi Hóa lạc thiên.

Xét thấy như vậy, vào buổi sáng, Ngài mặc y mang bát đi đến chỗ ở của bà. Trong khi đó vua trời Sakka biến hóa thành người già đem vật thực đến để bát dâng cho Ngài, Ngài biết người già đó là vua trời Sakka, nên bảo rằng:

- Này Ðức vua trời, ông không nên giành phước báu của người nghèo khổ.

Ngài không chịu dỡ bát, vẫn đứng yên trước bà già nghèo khổ kia. Bà nghĩ rằng: Ngài Ðại Ðức là bậc có giới đức lớn, được phần đông tôn kính, phận ta nghèo khổ không có gì quý giá để làm phước thiện bố thí đến Ngài, ta chỉ có nước cơm và miếng cơm cháy không ngon lành gì cả. Vã lại, còn đựng trong một đồ dùng không sạch sẽ, ta nào dám làm phước bố thí để bát đến Ngài được. Nên bà bạch rằng:

- Kính xin Ngài đi nơi khác. Bạch Ngài.

Ngài vẫn đứng yên không đi nơi khác, những người khác đem vật thực đến để bát dâng cúng, Ngài vẫn không dỡ nắp bát để nhận. Bà già nghĩ rằng: chắc chắn Ngài Ðại Ðức đứng đây để tế độ ta. Bà phát sanh đức tin trong sạch muốn làm phước thiện bố thí. Bà đem miếng cơm cháy đến, Ngài liền dỡ nắp bát, bà để vào trong bát cúng dường Ngài một cách tôn kính.

Ngài Ðại Ðức tỏ vẻ muốn thọ thực, để cho bà thấy, càng phát sanh đức tin trong sạch, hoan hỉ trong việc phước thiện bố thí của bà. Mọi người hiểu ý, trải chỗ ngồi, Ngài ngồi thọ thực miếng cơm cháy ấy. Uống nước xong, Ngài thuyết pháp, làm cho bà già hoan hỉ trong phước thiện bố thí của mình và cho bà biết được rằng; bà đã từng là thân mẫu của Ngài trong tiền kiếp. Bà càng có đức tin trong sạch nơi Ngài Ðại Ðức và vô cùng hoan hỉ phước thiện bố thí đã làm. Về sau, bà chết, do năng lực phước thiện bố thí cho quả, được tái sanh làm thiên nam cõi Hóa lạc thiên (cõi thứ năm trong 6 cõi trời dục giới) có nhiều oai lực, hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời ấy.

Tích Dâng Vật Thực Ðến Ðức Phật

Trong bộ Vimānavatthu, tích Bhikkhadāyikā-vimāna được tóm lược như sau:

Vào canh chót đêm, Ðức Phật nhập đại bi định, khi xả định quán xét chúng sinh nên tế độ, Ngài nhìn thấy một người đàn bà sắp hết tuổi thọ, sau khi chết, do ác nghiệp của bà đã tạo sẽ bị sa vào địa ngục. Ðức Phật muốn tế độtránh khỏi cảnh địa ngục, được tái sanh cõi trời.

Sáng hôm ấy, Ðức Phật một mình mặc y mang bát ngự đến kinh thành Uttaramadhura để tế độ người đàn bà ấy. Người đàn bà nấu cơm xong, lấy hũ đi lấy nước, trên đường về nhà gặp Ðức Phật, bạch rằng:

- Kính bạch Ðức Thế Tôn, Ngài đã thọ nhận vật thực được hay chưa? Bạch Ngài.

- Chắc sẽ được. – Ðức Phật đáp.

Người đàn bà biết Ðức Phật chưa được vật thực, nên kính thỉnh Ðức Phật đến nhà bà để dâng cúng, Ðức Phật làm thinh nhận lời thỉnh mời của bà. Bà vô cùng hoan hỉ đi về nhà trước, sửa soạn trải chỗ ngồi chờ tiếp đón Ðức Phật vào nhà, ngồi chỗ cao quý, chính tự tay bà dâng cúng những vật thực. Ðức Phật thọ thực xong, thuyết pháp để cho bà hoan hỉ phước thiện bố thí của mình.

Sau đó 2 – 3 ngày bà chết, do năng lực phước thiện bố thí vật thực cho quả, được tái sanh làm thiên nữ trong lâu đài xinh đẹp, có ngàn thiên nữ hầu hạ, hưởng sự an lạc trong cõi trời.

Tích Bố Thí Bánh

Trong bộ Vimānavatthu, tích Uḷāravimāna được tóm lược như sau:

Cô gái sanh trưởng trong gia đình thường hộ độ Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna, cô có đức tin nơi Tam bảo, hoan hỉ trong việc bố thí, khi lớn lên cô có chồng, làm dâu trong gia đình ngoại đạo tà kiến.

Một hôm, Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna đi khất thực trong thành Rājagaha, đang đứng trước cửa nhà chồng, cô nhìn thấy liền thỉnh vào nhà, đảnh lễ Ngài xong, khi ấy mẹ chồng không có ở nhà, cô tự xem là con dâu trong nhà, cô mới dám lấy cái bánh mà mẹ chồng để trong tủ đồ ăn, đem làm phước thiện bố thí để bát đến Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna. Cô nghĩ rằng, khi mẹ chồng trở về, cô sẽ thưa lại, chắc mẹ chồng hoan hỉ lắm.

Ngài Ðại Ðức thuyết pháp, làm cho cô hoan hỉ phước thiện bố thí rồi đi ra.

Khi mẹ chồng trở về, cô thưa lại với bà rằng:

- Thưa mẹ, con đã lấy cái bánh mẹ để trong tủ đem làm phước để bát đến Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna rồi, xin mẹ hoan hỉ phần phước thiện bố thí này.

Mẹ chồng nghe như vậy, không hoan hỉ, lại còn tức giận mắng chửi nàng dâu thậm tệ rằng: Tại sao đem bánh cho Sa môn!

Vì tức giận quá, không còn biết tội lỗi nữa, bà mẹ chồng cầm cái chầy đâm tiêu đánh nàng dâu trọng thương, 2 – 3 ngày sau cô chết. Cô dâu vốn là người có đức tin nơi Tam bảo, có thiện tâm hoan hỉ trong sự bố thí, nhất là phước thiện bố thí để bát cái bánh cúng dường đến Ngài Ðại Ðức Mahāmoggallāna hiện rõ trong khi sắp chết. Cho nên, sau khi chết, do năng lực phước thiện ấy cho quả, được tái sanh làm một thiên nữ có nhiều oai lực cõi Tam thập tam thiên, trong lâu đài bằng vàng nguy nga tráng lệ, có nhiều thiên nữ hầu hạ đờn ca múa hát, hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời.

Tích Một Lần Ðể Bát

Trong bộ Therī-apādāna, tích Ekapiṇṇapāti-katherī được tóm lược như sau:

Tiền thân của Ðại Ðức Tỳ khưu ni Ekapiṇṇapā-tikatherī là Hoàng hậu của Ðức vua Bandhumā vào thời Ðức Phật Vipassī xuất hiện trên thế gian, trong thời đại con người có tuổi thọ khoảng 80.000 năm, cách kiếp trái đất này 91 đại kiếp trái đất. Một hôm, có nguyện vọng muốn để bát, bà hoàng hậu đến tâu lên Ðức vua rằng:

- Tâu hoàng thượng! Thần thiếp có nguyện vọng muốn để bát một vị Tỳ khưu, kính xin hoàng thượng cho phép thỉnh một vị Tỳ khưu về cung để thần thiếp làm phước bố thí cúng dường vật thực.

Ðức vua chuẩn tấu xong, truyền vị quan thỉnh một vị Tỳ khưu vào cung.

Hoàng hậu có đức tin trong sạch nơi Tam bảo, vô cùng hoan hỉ cung kính lễ bái vị Tỳ khưu xong, tự tay mình để những vật thực vào bát cúng dường vị Tỳ khưu. Vị Tỳ khưu nhận vật thực xong, phúc chúc hoàng hậu rồi đi ra.

Với tác ý thiện tâm hoan hỉ đầy đủ 3 giai đoạn: trước khi làm phước thiện bố thí, đang khi làm phước thiện bố thí và sau khi đã làm xong phước thiện bố thí; dầu chỉ một lần để bát cúng dường đến vị Tỳ khưu ấy, nhưng hoàng hậu vô cùng hoan hỉ phước thiện bố thí, thường niệm tưởng đến phước thiện bố thí (cāgānussati). Hoàng hậu đến khi hết tuổi thọ (chết), do năng lực phước thiện bố thí để bát cúng dường một lần đến vị Tỳ khưu ấy, cho quả tái sanh làm thiên nữ cõi Tam thập tam thiên; suốt 30 kiếp làm Hoàng hậu của Ðức vua trời Sakka cõi Tam thập tam thiên; khi tái sanh cõi người, làm chánh cung Hoàng hậu của Ðức Chuyển luân thánh vương 20 kiếp; suốt 91 đại kiếp trái đất không hề sa đọa 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh) chỉ tái sanh cõi thiện giới: cõi trờicõi người mà thôi.

Ðến thời kỳ Ðức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, do thiện nghiệp ấy cho quả được tái sanh làm công chúa Mittā dòng Sakya, ở kinh thành Kapilavatthu. Khi Ðức Phật ngự trở về thuyết pháp tế độ hoàng tộc Sakya, công chúa nghe pháp, thọ Tam quythọ trì bát giới, đến khi bà Gotamī từ bỏ cung điện đi xuất gia trở thành Tỳ khưu ni cùng với 500 cô gái dòng Sakya, trong đó có công chúa Mittā. Sau khi trở thành Tỳ khưu ni, tinh tấn tiến hành thiền tuệ, chứng đắc từ Nhập Lưu Thánh Ðạo – Nhập Lưu Thánh Quả cho đến A-ra-hán Thánh Ðạo – A-ra-hán Thánh Quả trở thành bậc Thánh A-ra-hán, đến khi tịch diệt Niết Bàn chấm dứt khổ tử sanh luân hồi trong tam giới.

Những quả phước thiện bắt nguồn từ phước thiện bố thí để bát cúng dường một lần đến một vị Tỳ khưu, do đó, có tên là Ekapiṇṇapātikatherī: vị Ðại Ðức Tỳ khưu ni một lần để bát.

Tích Bố Thí Nước

Trong bộ Apādāna tích Ngài Ðại Ðức Tỳ khưu ni Udakadāyikātherī tóm lược như sau:

Thời kỳ Ðức Phật Vipassī xuất hiện trên thế gian, tiền thân Ngài Ðại Ðức Tỳ khưu ni Udaka-dāyikātherī, là người đàn bà nghèo, sống bằng nghề đội nước dùng đến các nhà phú hộ, nhà các vị quan, nhà giàu có... khi nhìn thấy những người giàu có làm phước thiện bố thí đến chư Tỳ khưu Tăng, bà suy xét rằng: "người ta có nhiều của cải, họ muốn làm mọi phước thiện bố thí thật dễ dàng, còn ta nghèo khổ thiếu thốn, không có vật gì đáng để làm phước thiện bố thí được cả; kiếp này ta đã nghèo khổ, ta không bố thí, kiếp sau ta lại càng nghèo khổ hơn nữa; tốt hơn, ta nên đội nước để làm phước thiện bố thí vậy".

suy xét như vậy, từ đó về sau, hằng ngày bà làm phước thiện bố thí nước đến chư Tỳ khưu Tăng để uống, để dùng. Trong chùa, chỗ nào có đồ đựng nước uống, bà đổ đầy nước uống, chỗ nào đựng nước dùng, bà đổ đầy nước dùng, vì thế chư Tỳ khưu Tăng được đầy đủ nước uống, nước dùng. Sau khi bà chết, do phước thiện bố thí nước cho quả tái sanh cõi thiện giới: cõi trờicõi người hưởng được mọi sự an lạc

Ðến thời kỳ Ðức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu thân người đàn bà ấy, do phước thiện cho quả tái sanh làm người, đến hầu Ðức Phật nghe pháp, xin Ðức Phật cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu ni. Sau khi trở thành Tỳ khưu ni không lâu, bà tiến hành thiền tuệ, chứng đắc từ Nhập Lưu Thánh Ðạo – Nhập Lưu Thánh Quả cho đến A-ra-hán Thánh Ðạo – A-ra-hán Thánh Quả trở thành bậc Thánh A-ra-hán, khi hết tuổi thọ tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt khổ tử sanh luân hồi trong tam giới.

Bố thí nước có 7 quả báu

1- Ðược nhiều kiếp làm vua trời.
2- Ðược nhiều kiếp làm Ðức chuyển luân thánh vương.
3- Tránh khỏi sa vào 4 cõi ác giới: địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh.
4- Ở nơi nào, nơi ấy có nước đầy đủ.
5- Ít bệnh hoạn ốm đau, có sắc thân xinh đẹp.
6- Dầu mùa nắng hoặc mùa lạnh, khi cầu mưa, thì có mưa ngay.
7- Diệt được phiền não ô nhiễm.

Ðó là 7 quả báu của phước thiện bố thí nước.

Nhân Và Quả Tương Xứng

Quả tuỳ thuộc vào nhân. Nhân thế nào, quả thế ấy; nghĩa là nhân tốt thì cho quả tốt, nhân xấu thì cho quả xấu, lâu hay mau tùy theo năng lực của nghiệp ấy.

Như trong bài kinh Manāpadāyīsutta [1] tóm lược như sau:

Một thuở nọ, Ðức Thế Tôn ngự tại giảng đường Kutāgāra trong khu rừng lớn gần xứ Vesāli. Vào buổi sáng, Ðức Thế Tôn mặc y, mang bát ngự đi khất thực, vào biệt thự của ông cư sĩ Ugga, người dân thành Vesāli, ngồi trên toạ cụ cao quý. Khi ấy ông cư sĩ Ugga đảnh lễ Ðức Thế Tôn rồi ngồi nơi hợp lẽ, bèn bạch với Ðức Thế Tôn rằng:

- Kính bạch Ðức Thế Tôn, con đã từng nghe từ kim ngôn của Ngài rằng: "Người nào bố thí vật hài lòng, thường được vật hài lòng".

Như vậy, món ăn tên Sālapupphaka [2] thơm ngon như hoa sāla làm rất công phu, là món ăn mà con rất hài lòng ưa thích nhất; con đã kính dâng cúng đến Ðức Thế Tôn, Ngài đã có lòng từ bi tế độ thọ nhận món ăn ấy của con rồi.

- Kính bạch Ðức Thế Tôn, con đã từng nghe từ kim ngôn của Ngài rằng: "Người nào bố thí vật hài lòng, thường được vật hài lòng"

Như vậy, món thịt heo loại ngon [3] (sampanna-varasukaramaṃsa) nấu rất công phu thật ngon lành, mà con rất hài lòng ưa thích nhất; con đã kính dâng cúng đến Ðức Thế Tôn, Ngài đã có lòng từ bi tế độ thọ nhận món ăn ấy của con rồi.

Kính bạch Ðức Thế Tôn, con đã từng nghe...: "Người nào bố thí vật hài lòng, thường được vật hài lòng".

Như vậy, món ăn Nāḷiyāsāka [4] là món rau trộn với bột gạo sāli chiên bơ rất thơm ngon, là món ăn mà con rất hài lòng ưa thích nhất, con đã kính dâng cúng đến Ðức Thế Tôn, Ngài đã có lòng từ bi tế độ thọ nhận món ăn ấy của con rồi.

- Kính bạch Ðức Thế Tôn, con đã từng nghe...: "Người nào bố thí vật hài lòng, thường được vật hài lòng".

Như vậy, cơm nấu bằng gạo Sāli thượng hạng, cùng với các món đồ ăn ngon lành, là món ăn rất hài lòng nhất đối với con, con đã kính dâng cúng đến Ðức Thế Tôn, Ngài đã có lòng từ bi tế độ thọ lãnh món vật thực ấy của con rồi.

- Kính bạch Ðức Thế Tôn, con đã từng nghe...: "Người nào bố thí vật hài lòng, thường được vật hài lòng".

Như vậy, một chiếc giường làm bằng gỗ quý có 4 chân chạm trổ hình thú dữ với nghệ thuật tuyệt vời, lót trải tấm vải làm bằng lông cừu màu trắng, phủ một lớp vải có thêu những đoá hoa rất xinh đẹp, có gối đầu, gối hai bên... là chiếc giường mà con rất hài lòng ưa thích nhất. Nhưng con biết rằng chiếc giường ấy không thích hợp với Ðức Thế Tôn. Con có chiếc giường khác làm bằng gỗ trầm hương [5], giá 100 ngàn kahāpana [6] cũng là một chiếc giường mà con rất hài lòng ưa thích nhất, con đã dâng cúng đến Ðức Thế Tôn, Ngài đã có lòng từ bi tế độ thọ nhận chiếc giường ấy của con rồi.

Sau khi ông cư sĩ Ugga bạch xong, Ðức Phật thuyết bài kệ rằng:

Người có đức tin tốt, bố thí vật hài lòng,
Thường được vật hài lòng. Người bố thí y phục,
Vật thực, nước, chỗ ở, thuốc men, vật dụng khác,
Với tâm rất hoan hỉ, đến bậc có giới đức.
Những vật bố thí rồi, là vật đã xả ly,
Không nghĩ lấy trở lại. Người ấy có trí tuệ,
Hiểu biết rõ ràng rằng, bậc Thánh A-ra-hán
Như phước điền cao thượng. Bố thí vật khó thí,
Gọi là vật hài lòng, thường được vật hài lòng.

Thuyết bài kệ tế độ làm cho ông cư sĩ Ugga xứ Vesāli vô cùng hoan hỉ xong, Ðức Phật rời khỏi tư thất của ông trở về chùa.

Sau đó thời gian không lâu, ông cư sĩ Ugga xứ Vesāli qua đời, do phước thiện ấy cho quả tái sanh lên cõi trời bậc cao trong nhóm chư thiên có tên Manomaya (thành tựu do tâm).

Ðức Thế Tôn ngự tại chùa Jetavana gần thành Sāvatthi, khi ấy, vào canh giữa đêm, vị thiên nam Ugga có hào quang sáng ngời hiện xuống ngôi chùa Jetavana, làm cho toàn ngôi chùa sáng ngời, đến hầu đảnh lễ Ðức Thế Tôn xong, đứng một nơi hợp lẽ.

Ðức Thế Tôn bèn hỏi rằng:

- Này Ugga, những điều mong ước của con đã thành tựu rồi hay chưa?

- Kính bạch Ðức Thế Tôn, những điều mong ước của con đã được thành tựu rồi, bạch Ngài.

Khi ấy Ðức Thế Tôn thuyết bài kệ rằng:

Người thí vật hài lòng, với thiện tâm hoan hỉ,
Thường được vật hài lòng. Người thí vật quý báu,
Thường được vật quý báu. Người thí vật tốt lành,
Thường được vật tốt lành. Người thí vật quý nhất,
Thường được vật quý nhất. Người thí vật quý báu,
Tốt lành và quý nhất, tái sanh cảnh giới nào,
Thường được sự sống lâu, sự hiển vinh, quyền lực.

Chú thích

[1] Aṅguttaranikāya, Pañcakanipāta, kinh Manāpadāyīsutta.

[2] Sālapupphaka: một món ăn làm bằng bột gạo sàli trộn với các đồ gia vị ngon lành, chiên bơ... là món ăn làm rất công phu, rất ngon có mùi thơm như hoa sàla.

[3] Chiếc giường bằng gỗ trầm hương, Ðức Phật cho cưa từng mảnh nhỏ, ban cho tất cả chư Tỳ khưu tán thành bột làm thuốc nhỏ mắt.

[4] Kahāpana: là thứ tiền vàng xứ Ấn thời xưa.

[5] Sampannavarasukaramaṃsa: món thịt heo ngon nấu với các đồ gia vị ngon lành, để cất kỷ một năm sau mới dùng.

[6] Nāḷiyāsāka: món rau làm rất công phu, rất ngon lành.

Ưu Thế Ðặc Biệt Của Thí Chủ

trong đời này, người có phước thiện bố thí luôn luôn có ưu thế hơn người không bố thí.

Tìm hiểu bài kinh Sumanāsutta [Aṅguttaranikāya, Phần Pañcakanipāta, kinh Sumanāsutta] tóm lược như sau:

Sumanā là công chúa của Ðức vua Paseṇadi xứ Kosala. Cô công chúa có một đoàn nữ tuỳ tùng 500 người đến hầu đảnh lễ Ðức Thế Tôn xong bạch rằng:

Kính bạch Ðức Thế Tôn, hàng Thanh Văn đệ tử của Ðức Thế Tôn có 2 vị có đức tin,giới, có trí tuệ đồng đều nhau. Song, một vị này có phước bố thí và một vị kia không có phước bố thí; cả hai vị ấy khi từ bỏ cõi đời này, do thiện nghiệp cho quả tái sanh làm chư thiên cùng một cõi trời dục giới giống nhau. Vậy, có gì đặc biệt khác nhau giữa hai chư thiên ấy hay không? Bạch Ngài.

Ðức Phật dạy rằng:

- Này Sumanā, hai vị thiên nam ấy có sự khác biệt nhau là:

Vị thiên nam vốn có phước bố thíưu thế hơn hẳn vị thiên nam vốn không có phước bố thí bởi 5 điều trong cõi trời là:

- Tuổi thọ sống lâu.
- Sắc đẹp tuyệt vời.
- An lạc tuyệt vời.
- Danh tiếng, tuỳ tùng đông.
- Quyền lực lớn trong cõi trời ấy.

Này Sumanā, vị thiên nam có phước bố thí đặc biệt hơn hẳn vị thiên nam không có phước bố thí bởi 5 điều trong cõi trời ấy như vậy.

- Kính bạch Ðức Thế Tôn, nếu hai vị thiên nam ấy sau khi chết từ cõi trời, đều tái sanh làm người. Cả hai người này cũng là loài người giống nhau. Vậy có gì đặc biệt khác nhau giữa hai người ấy hay không? Bạch Ngài.

- Này Sumanā, hai người này có sự khác biệt nhau là: người có phước bố thíưu thế hơn người không có phước bố thí bởi 5 pháp: sống lâu, sắc đẹp, an lạc, danh tiếng, tuỳ tùng đông và quyền lực lớn trong cõi người.

Này Sumanā, người có phước bố thí ưu thế hơn người không có phước bố thí bởi 5 pháp như vậy.

- Kính bạch Ðức Thế Tôn, nếu cả hai người đều xuất gia trở thành Tỳ khưu giống nhau. Vậy, có gì đặc biệt khác nhau giữa hai vị Tỳ khưu ấy hay không? Bạch Ngài!

- Này Sumanā, hai vị Tỳ khưu này có sự khác biệt nhau, vị Tỳ khưu có phước bố thí ưu thế hơn vị Tỳ khưu không có phước bố thí bởi 5 pháp là:

Tỳ khưu có phước bố thí,

- Nếu cần y, thì có được nhiều y; không cần y cũng có được ít y.

- Nếu cần vật thực, thì có được nhiều vật thực; không cần vật thực cũng có được ít vật thực.

- Nếu cần chỗ ở, thì có được chỗ ở to lớn; không cần chỗ ở cũng có được chỗ ở vừa.

- Nếu cần thuốc trị bệnh, thì có được nhiều thuốc trị bệnh; không cần thuốc trị bệnh cũng có được ít thuốc trị bệnh.

- Khi sống chung với những bạn đồng phạm hạnh nào, những người bạn ấy thường có thân, khẩu, ý đối xử tốt, đáng hài lòng nhiều hơn là đối xử xấu, không hài lòng; thường đem lại điều hài lòng nhiều hơn là điều không hài lòng.

Này Sumanā, vị Tỳ khưu có phước bố thí ưu thế hơn vị Tỳ khưu không có phước bố thí bằng năm pháp như vậy.

- Kính bạch Ðức Thế Tôn, nếu hai vị đều chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán giống nhau. Vậy, có gì đặc biệt khác nhau giữa hai vị thánh A-ra-hán hay không? Bạch Ngài.

- Này Sumanā, Như Lai không nói đến có sự khác biệt giữa sự giải thoát (A-ra-hán Thánh Ðạo) của người này, với sự giải thoát (A-ra-hán Thánh Ðạo) của người kia.

- Kính bạch Ðức Thế Tôn, thật là điều phi thường!

Kính bạch Ðức Thế Tôn, thật là điều chưa từng được nghe như vậy bao giờ!

Kính bạch Ðức Thế Tôn, như vậy, nên làm phước thiện bố thí, nên làm mọi phước thiện, bởi vì phước thiện này làm duyên hỗ trợ sau khi tái sanh cõi trời, cõi người, hay ngay sau khi xuất gia trở thành Tỳ khưu.

Ðúng như vậy Sumanā! Nên làm phước thiện bố thí, nên làm mọi phước thiện, bởi vì phước thiện này làm duyên hỗ trợ sau khi tái sanh cõi trời, cõi người, hay ngay sau khi xuất gia trở thành Tỳ khưu.

Bố ThíQuả Báu Vô Lượng

Bố thí để có được quả báu vô lượng, sự bố thí ấy phải hợp đủ 6 pháp. Thí chủ hợp đủ 3 pháp và người thọ thí hợp đủ 3 pháp, gồm đủ 6 pháp, chắc chắn quả báu vô lượng, đáng hài lòng hoan hỉ.

A- Ðối với người thí chủ hợp đủ 3 pháp là:

1- Trước khi bố thí, thí chủtác ý thiện tâm trong sạchhoan hỉ.

2- Ðang khi bố thí, thí chủtác ý thiện tâm, có đức tin trong sạch, tin nghiệp và quả của nghiệp, có trí tuệ hiểu biết rõ nghiệp là của riêng mình.

3- Sau khi bố thí xong, thí chủtác ý thiện tâm trong sạch, có thiện tâm hoan hỉ phước thiện bố thí đã tạo xong; mỗi khi nghĩ đến phước bố thí ấy, thí chủ phát sanh thiện tâm trong sạchhoan hỉ, không để ác tâm nào phát sanh xen lẫn làm cho tâm ô nhiễm.

B- Ðối với người thọ thí hợp đủ 3 pháp là: c

1- Người thọ thí là bậc Thánh không còn tham ái (hoặc hành giả tiến hành thiền tuệ cốt để diệt tận tâm tham ái).

2- Người thọ thí là bậc Thánh không còn sân hận (hoặc hành giả đang tiến hành thiền tuệ cốt để diệt tận tâm sân hận).

3- Người thọ thí là bậc Thánh không còn tâm si mê (hoặc hành giả đang tiến hành thiền tuệ cốt để diệt tận tâm si mê).

Phước bố thí hợp đầy đủ 6 chi pháp như vậy, thì chắc chắn quả báu của phước bố thí vô lượng, sự an lạc vô lượng, tái sanh cảnh giới nào cũng được sự sống lâu, sắc đẹp, an lạc, sức mạnh, trí tuệ tuyệt vời trong cảnh giới ấy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11483)
Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng...
(Xem: 12653)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12267)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11049)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10922)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13375)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11797)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13679)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11917)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11185)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12214)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12415)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20609)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12442)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12468)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11731)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11606)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22445)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13587)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29711)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11553)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16767)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12019)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16858)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12085)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17939)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12656)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13185)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14775)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22644)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10596)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14069)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13882)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13735)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13881)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13952)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14844)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13867)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18429)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22816)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15409)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17337)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22426)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14278)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12596)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11181)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17778)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13221)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13117)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18812)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17196)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13533)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12933)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14710)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14668)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15887)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13531)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27451)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13257)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16739)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant