Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tập nghĩ tốt cho người

26 Tháng Mười 201200:00(Xem: 12557)
Tập nghĩ tốt cho người
TẬP NGHĨ TỐT CHO NGƯỜI
Thích Thông Phương

tapnghitotchonguoi-thichthongphuongBuổi sinh hoạt đạo tràng hôm nay quý thầy sẽ cho quý Phật tử một bài tập để tu học, bài tập này có tựa là “Tập nghĩ tốt cho người”. Đây là một bài tập phải trui luyện suốt năm.

Tại sao chúng ta phải tập nghĩ tốt cho người? Vì người ta thường có thói quen thấy cái xấu mà ít thấy cái tốt của người. Nhất là khi đã có thành kiến với ai thì lại càng cố nhìn những cái xấu của người nhiều hơn, và khi đã ghét ai thì đến cái cửa, cái cổng cũng ghét luôn, nên người biết tu rồi thì phải tập nghĩ đến cái tốt của người khác.

 I/ AI CŨNG CÓ TÁNH GIÁC

Đối với nhà Phật cho là con người ai cũng có Phật tánh, mà có Phật tánh tức là có tánh tốt. Chính cái tánh tốt, hay tánh giác đó là cái chân thật, là cái gốc của con người, còn cái xấu chỉ là cái tạm, nên chúng ta phải nhìn cái gốc chứ đâu thể nhìn cái tạm. Tức cái xấu là cái mê, mới huân vào sau này nên không phải là cái thật của con người.

Trong kinh, đức Phật nói rằng: “Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh”, tức là tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều có tánh giác. Và đó là lẽ thật mà chính Đức Phật, bậc giác ngộ thấy được rồi chỉ dạy lại cho chúng sanh. Như vậy, ai cũng đều có tánh giác hay là tánh Phật, và đó là tánh tốt, thì tại sao chúng ta lại không nhìn tánh tốt đó, không phát huy nó mà chỉ nhìn cái xấu?

Chính tánh Phật này là cái sẵn có trong tất cả chúng sanh, là chân lý bình đẳng thật sự. Nhưng chúng ta thì nhìn theo kiểu thông thường của thế gian, tuy cũng nói bình đẳng nhưng chưa thấy hết ý nghĩa bình đẳng. Còn chân lý bình đẳng này dù nam, dù nữ đều có Phật tánh như nhau, tức là Phật tánh không có tướng nam - nữ, cũng không có trẻ - già, lớn - nhỏ, ngu - trí v.v…

Người ngu, người trí cũng đều có Phật tánh như nhau; người đẹp, người xấu Phật tánh cũng như nhau; cho đến màu da chủng tộc v.v…, hay dù là người xứ này, người xứ kia, người văn minh, người thiếu văn minh, hoặc là người ở trong vùng sâu, vùng xa v.v… cũng đều có Phật tánh như nhau hết. Đó đúng là một chân lý bình đẳng thật sự, nhưng chỉ vì tập khí mê lầm của con người chúng ta nên Phật tánh bị che mờ không phát hiện được, nên chúng ta chỉ thấy tánh chúng sanh của nhau thôi.

Tánh Phật là cái gốc, cái sẵn nhưng chúng ta lại không thấy, không biết mà chỉ thấy tánh chúng sanh nên con người chúng ta thường sống với tánh chúng sanh, nhận tánh chúng sanh này là mình là ta, bởi vậy khi nghe nói đến tánh Phật thì thấy lạ. Khi học trong kinh điển hoặc nghe quý thầy giảng nói về Phật tánh thì chúng ta cũng tin, cũng biết là ai cũng có Phật tánh, nhưng thực tế thì thấy dường như xa lạ, đó gọi là mê. Và Phật nói cái mê này cũng không có thực, chỉ giống như chiêm bao.

Do chúng ta mệt mỏi rồi ngủ quên thành chiêm bao, tỉnh dậy liền mất nên nó không có thực. Thì cái mê này cũng vậy, nếu người giác ngộ thì cái mê này đi đâu? Nào biết nó đi đâu, vì nó tan mất, không có thực.

Trong kinh Kim Cang, đức Phật dạy: “Chúng sanh ấy, Như Lai nói là không phải chúng sanh, ấy gọi là chúng sanh”. Mọi người nói là chúng sanh nhưng Như Lai thì nói chúng sanh tức chẳng phải chúng sanh, vì chúng sanh vốn không có thực. Chúng sanh vốn không cố định mãi mãichúng sanh, chỉ là cái tạm thời khi còn mê, nên gọi chúng sanh mà tức chẳng phải chúng sanh.

Thế nên, chúng sanh này có thể tiêu mất không còn, chính tánh Phật mới là cái không mất, không có gì phá hoại được. Mặc dù bị bao bọc bởi cái chúng sanh này nhưng không bị nó phá hoại; ngược lại cái chúng sanh này thì bị Phật tánh phá hoại, tức là giác ngộ Phật tánh rồi thì chúng sanh này tiêu mất. Chính cái hy hữu như vậy mà chúng ta lại bỏ quên, lo sống với cái tạm thời, nên mỗi người cần phải nhìn ngược trở lại để chuyển cái thấy chúng sanh và thấy rằng nơi tất cả chúng sanh đều có cái nguồn Phật tánh chân thật, sáng suốt tức là cái tánh tốt lành.

Ngày xưa ông Ương-quật-ma-la, là một tên giết người rồi lấy ngón tay xâu thành chuỗi, thì tội ác lớn đến chừng nào? Tạo nghiệp ác như thế nào? Nhưng khi được Phật hóa độ thì ông tu chứng quả A-la-hán ngay trong hiện đời.

Trước kia ông là tên cướp giết người, sau khi giác ngộ xuất gia tu theo Phật chứng thành A-la-hán cũng ngay trong đời này. Như vậy, chúng ta thấy rõ ràng tánh chúng sanh đâu có thực, nếu thực thì ông Ương-quật-ma-la không thể thành A-la-hán. Mới đó là tên sát nhân, nhưng khi thành bậc A-la-hán rồi thì gọi là thánh nhân. Phàm Thánh ngay đó thôi!

Như bà Liên Hoa Sắc là một kỹ nữ mang nhiều nghiệp xấu, khi được Tôn giả Mục-kiền-liên giáo hóa đưa đến diện kiến Phật, bà thức tỉnh rồi xuất giatu chứng A-la-hán cũng ngay trong hiện đời. Như vậy cái tên của người đàn bà làm nghề kỹ nữ xấu xa đó còn không? Đã thành bậc thánh nhân rồi.

Sơ Tổ Trúc Lâm nói trong bài kệ Cư Trần Lạc Đạo Phú, có câu: “Trong nhà có báu thôi tìm kiếm”. Tức Ngài nhắc là mỗi người đều có của báu quý trong nhà. Nhà đó là nhà gì? Tức là nhà ngũ uẩn hay con người này, nơi đó mỗi người đều có một hòn ngọc báu quý vô giá tức là tánh Phật, khỏi phải tìm đâu xa, ngay trong nhà của mỗi người đều có đủ. Người biết khai thác lấy ra dùng thì chuyển nghèo thành giàu, hết đời chúng sanh lang thang.

Thiền Sư Bàn Khuê dạy chúng rằng: “Từ khởi thủy, lúc mới sinh ra tất cả quý vị không ai có một thứ si mê nào, nhưng vì giáo dục xấu nên quý vị đã chuyển cái tâm Phật gọi là bẩm sinh thành ra một chúng sanh mê muội thượng hạng, bắt chước và thâu nhận vào đủ loại si mê xung quanh mình, tập tành những thói hư tật xấu đến nỗi cuối cùng trở thành một cây vô minh”. Tức là đang sẵn có cái tâm Phật bẩm sinh mà không xài, không dùng lại chuyển nó thành một chúng sanh mê muội thượng hạng, lại còn bắt chước, thâu nhận vào đủ thứ si mê xung quanh.

Thử nghĩ từ nhỏ đến lớn quý vị đã thâu vào những thứ gì? Nhờ có học Phật nên chúng ta mới bớt ra nếu không biết tu thì còn thâu thêm nữa. Chúng ta đã thâu vào những thứ si mê, tập theo những thói hư, tật xấu đến nỗi cuối cùng trở thành một cây vô minh. Mà hễ cây vô minh thì nó nở trái gì? Nở trái vô minh, nhưng vẫn không hay không biết.

Ngài bảo tiếp: “Chính vì tâm Phật nó có công năng kỳ diệu đang vận hành nên quý vị mới thâu thập được đủ thứ hành vi mê muội, rồi khiến chúng trở thành cái bản chất thứ hai của mình”. Tức là thấy nó là mình, của mình cho nên gọi thành bản chất của mình. Khi quý vị sân thì nói tôi sân. Tham nói tôi tham v.v…, gọi thành bản chất của mình. Nhưng tôi là những thứ đó hay sao?

Ngài bảo: “Tuy nhiên khi nghe được những giáo lý quý báu về tâm Phật này thì quý vị phát khởi niềm tinquyết định không còn si mê nữa, liền khi ấy quý vị đã an trú trong tâm Phật bất sinh như nguyên ủy”. Tức là an trú trở lại tâm Phật sẵn có, không nhận cái vô minh kia thì mình sống trở về lẽ thật sáng suốt xưa nay.

“Như thế, chính vì tâm Phật chiếu sáng kỳ diệu mà quý vị đã bị mê mờ, và cũng vì tâm Phật chiếu sáng kỳ diệu mà quý vị được giác ngộ”. Chính vì nó có công năng kỳ diệu tức là nó có biết nhưng tự bỏ quên thành mê, biết cho nên mới mê (tức biết theo duyên theo cảnh mà quên chính nó). Thí dụ cái cây đâu có biết mê, hòn đá đâu có biết mê, nhưng vì có tâm, có biết cho nên nó mới thành mê.

Nhưng nhờ cũng có biết cho nên mới giác, nên cái tính biết là cái chúng ta phải khéo hiểu để nhận ra.

“Chính vì quý vị không nhận ra sự quý báu của tâm Phật nên quý vị xem những thứ si mê đang làm hại mình là vô cùng quý giá”. Xem những thứ si mê đang hại mình lại là thứ quý giá trong đời mình. Quý vị thấy có điên đảo không? Như bây giờ bảo chúng ta dẹp cái tánh sân thì chịu dẹp không? Nó thành cái bản chất thứ hai của mình rồi, dẹp nó rồi mình thành cây đá sao, nên không dám dẹp nó.

Ngài nói tiếp: “Xem nó thành ra là vô cùng quý giá, và quý vị xem trọng cái mê lầm này đến nỗi quý vị thành một cây vô minh, vứt bỏ cuộc đời của mình thì có phải là điên rồ hay không?”. Đức Phật nói si mêđiên đảo thật sự đúng nghĩa. Những thứ không phải mình cứ đem vào, nhận nó là mình, thành bản chất của mình, rồi không dám bỏ mà xem nó là quý báu. Chính nhờ học Phật, nhờ đức Phật chỉ cho chúng ta thấy những lẽ thật, những chân lý để chúng ta bớt mê lầm, sống trở về với cái sáng suốt.

Ở đây, Ngài muốn nhấn mạnh bản tánh chân thật của tất cả chúng ta vốn là thanh tịnh, là tốt đẹp, tức là tâm Phật; tức không phải là những thứ xấu xa này. Nếu người biết khai thác bản tánh chân thật tốt đẹp này, thì sẽ chuyển hóa những cái xấu xa đó trở về cái gốc chân thật. Đó chính là tu, tu Phật là như vậy. Cho nên, bản hoài ra đời của Phật là để khai thị cho tất cả chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật, để thành Phật. Thành Phật là chuyển cái chúng sanh này không còn là chúng sanh nữa. Nếu được như vậy thì chúng ta ít có mặc cảm, bớt bi quan và thấy chúng sanh này, thế giới này rất lạc quan, vui vẻ, đó là do biết nhìn cái tốt; ngược lại nếu nhìn cái xấu thì sẽ thấy thế giới này đáng chán.

Kinh Pháp Hoa, Đức Phật đã nhấn mạnh, nhắc đi nhắc lại nhiều lần để đánh thức mọi người nhận ra lẽ thật đó. Vì thế, Bồ-tát Thường Bất Khinh gặp ai cũng lễ bái, rồi nói to: “Tôi không dám khinh quý ngài, quý ngài đều sẽ thành Phật”. Bởi quý ngài đều có tánh Phật thì quý ngài đều sẽ thành Phật, tức là đánh thức tánh Phật nơi mỗi người. Các vị Bồ-tát thấy rõ lẽ thật đó nên luôn thức tỉnh giúp tất cả mọi người chuyển tánh chúng sanh thành tánh Phật.

Quý vị nhớ kỹ, nhờ thức tỉnhcon người sẽ chuyển được tánh chúng sanh thành tánh Phật, như vậy chúng ta sẽ nhận rõ thêm một điều nữa, tánh Phật và tánh chúng sanh là sao?

Đều là không tánh, tức là tánh không, không cố định. Tánh Phật cũng không ngoài chúng sanh mà có; cũng vậy, chúng sanh không không cố định mãi là chúng sanh. Nên chúng ta có thể chuyển chúng sanh thành Phật, vì cả hai đều là tánh không. Đó là điểm mà tất cả đều phải ghi nhận rõ để chúng ta chỉ nhìn chỗ tốt của mọi người, rồi mới có thể nghĩ tốt, thấy tốt về người.

II/ NHÌN CÁI TỐT CỦA NGƯỜI, QUÊN CÁI XẤU

Đây muốn nhắc tất cả rằng khi đã biết nhìn cái tốt thì sẽ quên cái xấu của người, nhưng thông thường thì chúng ta hay nhìn cái xấu. Bây giờ phải chuyển lại là thường nhìn cái tốt thì sẽ luôn nghĩ điều tốt cho người, tức là nhắm vào cái tốt của người để nhìn, như vậy sẽ khiến cho người phát triển cái tốt, mà phát triển cái tốt thì những người ấy sẽ chuyển bớt cái xấu, cái tốt càng phát triển thì làm mờ đi cái xấu, cái xấu càng bớt.

Như đã giải thích thì quý vị thấy rõ ai cũng đều có cái tốt để chúng ta nhìn, nhưng tại sao lại không nhìn? Đôi khi chúng ta nghĩ người đó đâu có tánh nào tốt mà chỉ thấy tánh xấu, là bởi vì chúng ta chỉ nhìn cái xấu của người.

Con người ai cũng đều có cái tốt, cho đến tên ăn trộm cũng có cái tốt nên không thể nói là hoàn toàn xấu. Thí dụ tại sao người đó phải đi lén lút ăn trộm tài vật của người? Họ vẫn biết ăn trộm là điều xấu, vì xấu cho nên phải lén lút, đã biết điều xấu tức là còn có chủng tử tốt. Nhưng vì nghiệp nặng che mờ, mất tự chủ, khiến dẫn đi trộm đồ vật của người. Giống như người uống rượu say mất sáng suốt, mất tự chủ nên dễ tạo tội ác.

Nếu nhìn theo tính tốt đó thì chúng ta cũng bớt ghét tên ăn trộm, nên chúng ta phải khơi dậy cái tính tốt để sớm phát huy thì sẽ bớt tính xấu, nhờ vậy những người ăn trộm mới có thể đi tu được.

Chúng ta đọc trong kinh thấy đức Phật độ người trộm cướp rất nhiều, và các đệ tử Phật cũng vậy. Sách Nho có câu: “Ẩn ác, dương thiện”. Tức là ẩn điều ác mà phô bày điều thiện. Nhưng chúng ta thì thích ẩn thiện dương ác. Những điều thiện của người thì che, những điều ác của người thì vạch bày ra, nhất là khi đã có thành kiến thì cứ tìm điều xấu của người đưa ra. Sách Nho dạy kỹ là phải ẩn ác dương thiện để phát huy điều thiện, càng phát huy điều thiện thì điều ác càng lui.

câu chuyện một anh trẻ tuổi nhưng làm ăn bị phá sản, sống nghèo thiếu lang thang. Một hôm, trên đường đi anh khát nước mới tìm chỗ xin nước uống. Anh vào nhà ông lão mù ở bên đường. Sau khi xin nước uống xong thì anh phát hiện một số tiền dưới gối của ông lão. Anh nghĩ ông lão mù sẽ không thấy rõ nên liền nhanh tay lấy bỏ vào túi. Khi vừa định đi thì nghe ông lão nói: “Ở trong cái ngăn kéo của tôi có mấy quả táo, anh hãy cầm lấy đi đường ăn đỡ khát”. Nghe vậy anh mới ngạc nhiên hỏi: “Lão tín nhiệm tôi như thế à? Lão không sợ tôi là người xấu hay sao?”.

Anh nghĩ vừa mới lấy túi tiền của ông mà ông còn mời và chỉ mấy quả táo ở trong tủ để ăn nữa, nên anh mới nói: “Lão tín nhiệm tôi như thế à? Không sợ lỡ tôi là người xấu hay sao?”.

Ông lão mù cười thoải mái nói: “Này anh bạn trẻ ơi, đối với sự tốt xấu của người khác ta không nên vội vàng phán đoán một cách tùy tiện. Giả sử cho họ là một người xấu đi nữa thì dù xấu thế nào cũng không đến nỗi không có thuốc chữa”. Ông lão này cũng là đặc biệt. Ông nói con người không nên tùy tiện phán đoán điều tốt xấu của ai cả, mà dù cho người ta có xấu cách mấy đi nữa cũng có thuốc chữa, ông có niềm tin như vậy.

Với tâm chân thành, trong sáng của ông lão giống như ngọn đèn soi thấu tận cõi lòng, chấn động trong nội tâm của anh này nên anh cảm động. Đây là điều không bao giờ anh nghĩ đến vì có người tin anh là người tốt. Tận thâm tâm anh nghĩ rằng nếu người khác đã tin ta là người tốt thì tại sao ta lại đi làm chuyện xấu!

Anh liền hối hận, nhẹ nhàng trả túi tiền lại chỗ cũ rồi chào ông lão đi ra, và cũng từ đó anh bắt đầu làm lại cuộc đời, nhờ học được bài học và ứng dụng nghĩ tốt cho người. Đối với bạn bè, đồng nghiệp, người hợp tác v.v… anh đều có tâm tín nhiệm, nên tạo thành một mối quan hệ tốt đẹp rộng rãi, anh được cảm tình rất nhiều người và không bao lâu anh tạo được sự nghiệp lớn trở lại.

Đây là bài thực tập “Tập nghĩ tốt cho người” của ông lão dạy cho chúng ta. Ông nghĩ không nên tùy tiện phán đoán một ai về điều tốt, điều xấu vì đó là hời hợt, mà phải nhìn sâu xa vì ông tin tưởng mọi người không có ai hoàn toàn xấu, và dù có xấu cách mấy cũng còn có thuốc chữa, tức là cũng còn có tốt; mà nhìn vậy là có lạc quan, có niềm tin, chính như vậy có khi làm cảm động cho người đối diện, giúp họ chuyển hóa theo. Thế nên, người thanh niên kia khi nghe đến đó thì thấy chấn động trong tâm, cảm được sự chân thành từ nội tâm của ông lão.

Đây là điểm quan trọng, là bài học cần thiết để chúng ta luôn nghĩ tốt cho người, để đánh thức hạt giống tốt trong mỗi người. Nghĩ tốt về người nào đó là đánh thức những hạt giống tốt trong con người đó, giúp họ phát triển những điều tốt, vẫn hay hơn là nghĩ xấu cho người. Khi bị người nghĩ xấu, theo tâm lý thì người ta càng bất cần rồi làm cho xấu thêm; còn nghĩ tốt là đánh thức những hạt giống tốt bên trong của người đó, giúp họ có niềm tin tiến lên.

Hòa thượng Tinh Vân (Phật Quang Sơn) có kể một giai thoại: Vào dịp tết, dân làng gồm già, trẻ, bé, lớn v.v… cùng dắt nhau lên núi để nhận quà từ chùa, đến mùa đông dịp cứu tế người nghèo, họ cũng dắt dìu gia quyến đến để lãnh nhận phần giúp đỡ. Nhận rồi là quay lưng về liền không nói được một lời cám ơn.

Một số nhân viên của Ngài thấy như thế cho là không hay nên thường kháng nghị lên Hòa thượng: “Những hạng người này không có lương tâm đâu Hòa thượng, họ chỉ biết là đến lấy bao bì lì xì, lấy quà tặng, họ được phần rồi thì coi như là xong, không nói được một câu tử tế mà còn đòi hỏi quá đáng, đúng là qua cầu rồi chặt cầu”.

Hòa thượng Tinh Vân khuyên: “Chúng ta không nên quơ đũa cả nắm, trong số những người ấy cũng có người tốt, huống nữa là những người hành Bồ-tát đạo thì không nên nhớ cái xấu cũ của người, bố thí thì đừng mong đền đáp. Nhìn họ vui vẻ, hỉ hả về núi là đã có kết duyên lành cùng với Phật, Bồ-tát thì chúng ta nên chúc phúc cho họ mới đúng”.

Ý Hòa thượng nói là người hành Bồ-tát đạo thì không nên nhớ cái xấu cũ của người, và bố thí đừng mong đền đáp. Như vậy là họ kết duyên lành với Phật cũng quý rồi, chúng ta phải giúp cho họ kết duyên sâu thêm chứ không nên nghĩ xấu rồi trở thành ngăn cách.

Quý vị phải nhớ điều đó, tinh thần của Bồ-tát là lòng rộng mở, khi thấy chúng sanh biết lên chùa gặp Phật là cũng có hạt giống tốt nên phải tạo thêm duyên để họ kết càng sâu. Đó gọi là nghĩ tốt mà quên cái xấu của người. Chính là điểm mà mỗi người phải luôn nhớ học, để cuộc sống chúng ta mỗi ngày càng tốt hơn, nội tâm càng chuyển hóa cao hơn. Những người kháng nghị kia do tâm họ còn so tính nên thấy việc lợi hại, và nếu chỉ nhìn theo cách ấy thì hết muốn làm việc bố thí.

Còn với Hòa thượng Tinh Vân thì không phải vậy. Tâm Ngài luôn cởi mở, rộng rãi nên dặn “không nên nhớ cái xấu cũ của người”. Điều này trong kinh Bát Đại Nhân Giác Phật có dạy là người học và tu theo Phật không nên nhớ những cái xấu đã qua của người v.v…, mà Phật dạy phải hằng nhớ lý vô thường và thương sự mê lầm của họ.

Thứ sáu giác rõ như sau:

 Là người nghèo khổ càng sâu oán hờn.
Ác duyên ngang kết khó lường,
Đâu như Bồ-tát sẵn sàng thí cho.
Oán thân đồng chẳng so đo,
Cũng không nhớ đến ác xưa người làm.
Người dù tạo ác gây hờn,
Cũng không ghét bỏ chỉ thương mê lầm.

Đức Phật dạy chúng ta tu phải quán chiếu từ hoàn cảnh bên ngoài đến thân tâm bên trong đều là vô thường, nếu người chỉ lo nhớ đến cái xấu của người, cho ai xấu thì phải xấu hoài thì trái với ý nghĩa vô thường. Ngày xưa, cách 20 năm trước họ đối xử với chúng ta xấu tệ nhưng bây giờ không hẳn là họ còn đối xử như vậy. Có khi họ đã học đạochuyển hóa rất tốt nên bớt xấu rồi nhưng chúng ta cứ nhớ lỗi xưa của người thành ra ngăn cách.

Cho nên, người tu Phật không thể cứ nhớ cái xấu cũ của người mà phải biết nó cũng là vô thường, tâm của người cũng vô thường. Trước kia vì họ không hiểu họ làm chuyện xấu, nhưng qua một thời gian họ đã có chuyển biến, đã hiểu được đó là điều dở, điều xấu nên chuyển hóa bớt rồi mà chúng ta không hay biết.

Còn đối với việc bố thí thì đừng mong đền đáp, khi thấy người khổ thì ta giúp đó là tốt, đừng mong trả lại. Nếu đã giúp người lỡ mai mốt gặp lại mình mà họ không chào hỏi thì buồn tức, cho là người vô ơn bạc nghĩa v.v… Chẳng lẽ chúng ta giúp người là vì muốn họ chào mình hay sao? Như vậy cũng còn có qua lại, giống như buôn bán rồi.

Ở đây đúng với tinh thần Bồ-tát là thấy họ khổ thì giúp họ bớt khổ, đó là trách nhiệm của người tu. Thứ hai, khi thấy họ vui là mình vui rồi. Thứ ba quan trọng hơn là chúng ta giúp người không điều kiệnhoàn toàn buông xả. Vì khi trao tặng người tài vật rồi thì tùy ý người nhận sử dụng mà không đòi hỏi phải theo ý mình. Đừng nhớ món đồ đó là của tôi hoài, tuy có xả nhưng chưa thiệt xả. Nếu biết buông xả thì lòng chúng ta càng rộng rãi vui vẻ, cởi mở nhẹ nhàng là đã hành đúng ý nghĩabố thí. Đó là những điểm mà chúng ta cần phải nhớ.

III/ LỢI ÍCH CỦA SỰ NGHĨ TỐT CHO NGƯỜI

Nghĩ tốt cho người có lợi ích gì? Thường nghĩ tốt cho người thì tâm chúng ta sẽ luôn luôn nghĩ về điều tốt cho người này, người kia, tâm tâm sẽ nhẹ nhàng thanh thoát. Vì chỉ nghĩ những điều tốt nên tâm hồn mình cao thượng và ít bị những bóng tối che mờ, nhờ vậy lòng của mình sẽ rộng mở rồi những cái tâm hẹp hòi ích kỷ sẽ bớt, chính đó cũng là làm cho tâm Bồ-đề của chúng ta phát triển, lớn mạnh thêm. Thì khi ấy, cuộc sống sẽ được vui hơn, mọi người càng sống gần nhau hơn, đến gần với nhau hơn, là thêm nhiều bạn hơn, mà nhiều bạn thì bớt kẻ thù. Vậy thì nghĩ tốt cho người đâu có thiệt thòi gì!

Có nhiều người nói rằng: “Nó gạt tôi sao lại bắt tôi nghĩ tốt cho nó?”. Đúng vậy, cho dù người có gạt mình thì mình vẫn nghĩ tốt cho họ. Người ta có nghĩ xấu cho mình, nhưng mình vẫn nghĩ tốt mãi, khi đó lòng chúng ta được nhẹ nhàng, thanh thản, không hề buồn khổ thì đâu có thiệt thòi. Vì nếu mãi lo nghĩ là nó gạt tôi thế đó thì tâm bực bội nóng nảy, ngủ không được cứ trằn trọc v.v… thì chính đó là thiệt thòi, là khổ và đang bị họ làm khổ.

Nên đây là một ý nghĩa chân thật, chúng ta phải thường tập nghĩ tốt cho người để luôn luôn có lợi ích, thường có cuộc sống vui tươi, lạc quan v.v…, tạo thêm niềm tin cho mình và cho người. Giống như ông lão mù cảm hóa được người thanh niên kia. Họ nghĩ: ‘Mình xấu gây khó khăn ngăn trở người mà sao người cũng nghĩ tốt cho mình, không lẽ mình cứ xấu với người hoài sao?’. Nên có khi là chuyển hóa được họ, cũng không có thiệt thòi gì hết. Được vậy là chúng ta đã càng tạo cơ hội để cho người chuyển hóa, cũng là rất có ý nghĩa.

câu chuyện về Hòa thượng Quảng KhâmĐài Loan tu hành rất đắc lực. Có lần đệ tử Ngài đi nghe thuyết pháp ở chùa khác, nhận thấy lời thuyết pháp của vị giảng sư này có ẩn ý phê bình thầy mình. Họ bất bình nên sau đó lên núi thưa lại với Ngài. Tưởng thưa vậy rồi Ngài cũng đồng tình, nhưng không ngờ Ngài không những không có ý gì khó chịu mà còn bảo các vị đệ tử phải đi sám hối vì có lỗi là đã hiểu lầm lời giảng của pháp sư kia.

Đồng thời Ngài còn giải thích những hàm ý Phật pháp trong lời giảng đó cho đệ tử nghe là tốt, đúng Phật pháp. Rồi khuyên răn các đệ tử: “Giả sử có người nào họ nêu danh tánh của mình ra mắng thì mình còn phải thành tâm biết ơn họ nữa, huống hồ là người ta không nêu tên của mình”. Tức là họ nêu ngay tên ra mắng thì mình còn biết ơn nữa, còn đây không có nêu tên thì có gì đâu, không có dính dáng gì hết.

Như nhà thiền thường dạy: “Việc đến chẳng nhận, tất cả chỗ không tâm”, tức là dù họ có đem đến tận nhà mình, mình còn không nhận, huống là còn ở ngoài cửa cổng không quan trọng. Nếu như chưa gì, chuyện còn ở đâu ngoài hẻm, ngoài xa mà đã đem vô rồi thì thành khổ thôi. Chúng ta thấy tâm hồn của các ngài rỗng rang, thanh tịnh nên lúc nào cũng thoải mái hết.

Sau đó, Hòa thượng mới nghiêm túc dạy đệ tử: “Muốn cho Phật pháp được hưng thịnh thì tăng phải biểu dương tăng”, tức là tăng phải khen ngợi tăng thì Phật pháp mới hưng vượng, đừng để cho tăng hạ thấp tăng, làm vậy là khiến cho Phật pháp dần suy. Ngài còn tán dương vị pháp sư kia rằng: “Ở trong thế giới phù hoa huyễn hóa này mà thuyết pháp độ được chúng sanh như vậy thì thật là một vị Bồ-tát”. Ngài lại nói khiêm tốn: “Còn tôi thì không dám đi thuyết pháp như vậy”. Từ đó, đệ tử của Ngài cũng hết dám chê ai. Đúng là tâm hồn Bồ-tát.

Như vậy, quý vị Thấy Ngài có thiệt thòi không? Thật là một tâm hồn thoải mái, nhẹ nhàng thanh thoát, đâu có gì để khổ. Trái lại, chưa có gì mà vội thu vào thì khổ liền, thiệt thòi liền ngay đó. Đó là những cái bài học lợi ích thiết thực để chúng ta học.

Rồi chính như Hòa thượng Tinh Vân cũng vậy, Ngài có kể lại những cái năm về trước lúc tình hình kinh tế còn khó khăn. Một hôm, đệ tử Ngài coi về việc thủ quỷ trong chùa cầm một xấp hóa đơn đến thưa với Hòa thượng là: “ Sư Phụ! Gần đây trong chùa chúng bị đau răng rất nhiều, thường trụ đã hết lòng cấp cho họ phương tiện để đi chữa răng, số tiền chữa rất cao. Bọn họ nhận ân huệ của thường trụ rồi lại thường hổn ẩu với người, không nói được một lời tử tế. Theo con là chẳng nên xuất tiền cho họ rất uổng phí”.

Hòa thượng nói rằng: “Nhưng mà tôi vẫn kiên trì cho họ được đổi hàm răng tốt. Vì tôi thà để cho họ nói lời không tử tế chứ không thể không cho họ một bộ răng tốt để họ được tiện dụng khi mở miệng thuyết pháp có thể khiến đồ chúng vui vẻ, được pháp bảo, có giá trị vô thượng”.

Ý Ngài nói là tuy những người đó có nói năng với chúng trong nhà hơi thô tháo chút đỉnh không sao, để cho họ có bộ răng tốt lên pháp đường họ thuyết pháp, khiến mọi người thấy vui vẻ, cũng có giá trị chứ không có thiệt thòi.

Quý vị thấy đây cũng là nghĩ tốt cho người, và người được như vậy là tâm hồn nhẹ nhàng. Nếu những vị kia nghe được lời này thì chắc chắn trong lòng cũng hơi xấu hổ. Nghĩa là dù bị lợi dụng nhưng mà Ngài vẫn không so đo tính toán gì hết.

Ngài kể có nhiều trường hợp bị lợi dụng cái danh, tiếng tăm của Ngài. Vì nghe Phật Quang Sơn nổi danh nên họ cũng để hiệu nhà hàng của họ là “Phật Quang Sơn”. Đồ chúng đến thưa, Ngài cũng nói không sao coi như là bố thí sự lợi dụng cho họ. Ngài nói là: “Nếu Phật Quang Sơn không có danh tiếng gì thì họ không lợi dụng, nên chúng ta chẳng cần so đo tính toán ai lợi dụng ai. Nhân vì tất cả sự tướng thế gian đều có sự liên hệä lẫn nhau nên nguyện cho mọi người đồng hưởng được thành quả của sự hỗ tương lợi dụng - tức là lợi dụng lẫn nhau - để có thể phát huy giá trị tối cao của lợi dụng vậy”.

Lòng Ngài thoải mái, rộng rãi không bực bội, khó chịu, bị lợi dụng mà vẫn vui vẻ, tâm như vậy thì đâu có khổ, mà cũng đâu có bị thiệt thòi. Những tâm hồn như vậy sẽ sống rất thoải mái, lạc quan, tin tưởng. Đây là điều chúng ta cần phải học suốt cuộc đời.

IV/ TÓM KẾT

Con người ai cũng có tâm, có tâm tức là có tính biết, mà có tính biết tức là có bản chất giác ngộ. Có tính biết nên chúng ta nhận biết điều này là quấy, biết điều này là mê, là điên đảo mà có giác ngộ, còn cây đá đâu biết giác ngộ. Nên chúng ta phải có niềm tin để vươn lên chứ không thể mất lòng tin và ai cũng đều có thể vươn lên hết. Phải khéo đánh thức chỗ sâu kín ấy để thức tỉnh bản thân đồng thời cũng giúp cho người thức tỉnh mà phát huy điểm tốt của mình rồi chuyển hóa thì đó cũng là giúp cho chính mình. Nhờ vậy, chúng ta không bi quan bởi vì đức Phật cũng từ chúng sanh mà thành, và là con người thì ai cũng đều có bản chất giác ngộ sáng suốt đó nên nói là hạt giống Bồ-đề được nuôi lớn lên từ phiền não của chúng sanh chớ không phải bỗng dưng mà có. Quý vị nên nhớ kỹ điều này.
Trong kinh Duy Ma, ngài Duy-ma-cật hỏi Bồ-tát Văn-thù: “Các hạt giống Như Laihạt giống nào?” Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp: “Có thân là hạt giống Như Lai; vô minh, hữu áihạt giống Như Lai; tham sân sihạt giống Như Lai; bốn điều điên đảohạt giống Như Lai”.

Hạt giống Như Lai là như thế chứ không phải là ngoài chúng sanh này. Tức Như Lai cũng từ trong đây mà thành, Bồ-đề cũng từ trong đây mà phát khởi. Chúng taphiền não nên mới có Bồ-đề nếu khôngphiền não thì đâu có Bồ-đề. Nói tóm lại, sáu mươi hai tà kiến và cả thảy phiền não đều là hạt giống Như Lai hết.

Chúng ta luôn nhớ chính từ trong chỗ bùn lầy phiền não mới có chúng sanh phát tâm theo Phật pháp. Tức do có phiền não mới phát tâm đi tu, nếu khôngphiền não thì đi tu làm gì? Nên trong bùn lầy phiền não mới có người phát tâm tiến lên giác ngộ. Nếu hiểu như vậy là chúng tatâm lạc quan rồi có đủ niềm tin để vươn lên và thấy rằng là con người không có ai là hoàn toàn xấu, ai cũng đều có khả năng để tiến lên, nên đâu có buồn.

Thế nên, tất cả chúng ta cần xây dựng niềm tin cho mình, cho mọi người để vươn lên, tức là khơi dậy để phát triển cái tính tốt trong mỗi người, mà càng khơi dậy càng phát triển tính tốt thì sẽ giảm bớt điều xấu, đó là lẽ thật. Ngược lại nếu lo phát huy điều xấu, phô bày điều xấu thì điều tốt bị che, hai cái đối nghịch với nhau.

Để nhấn mạnh lại nội dung bài giảng hôm nay, tất cả người tu học Phật là phải nên thường tập nghĩ tốt cho người. Nếu hai bên đều thực tập như vậy thì bên này cũng nghĩ tốt cho bên kia, bên kia cũng nghĩ tốt cho bên này, thì quá vui! Cuộc đời sẽ tươi đẹp, bảo đảm thế gian này sẽ bớt thù hằn. Mà cả thế gian đều tập như vậy hết thì bảo đảm trên thế gian này không còn kẻ thù. Mình nghĩ tốt cho người này, người này nghĩ tốt cho người kia thì còn có ai để thù, không còn ai ngăn ngại nhau hết thì cuộc sống hẳn là tươi vui, mát mẻ thêm lên, tâm hồn của mình cũng trong sáng, cởi mở.

Cho nên, mong tất cả quý vị thường luôn phát triển và càng ngày càng mở rộng tâm tốt này thêm nhiều, càng thêm nhiều càng tốt, bảo đảm là không có thiệt hại: Mình nghĩ tốt thì giúp cho người kia cũng nghĩ tốt rồi nhân ra càng rộng, mà càng rộng thì thế gian càng tốt đẹp thêm lên. Đây là bài tập cho tất cả để sống trở về với chánh pháp.


Thích Thông Phương
(Thiền Viện Thường Chiếu)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3496)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
(Xem: 7355)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4522)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4576)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7350)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2968)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12220)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 4000)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3809)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4227)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3687)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5068)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6693)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4013)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4128)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5344)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3790)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4537)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3553)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3935)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4395)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5396)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3847)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3942)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3878)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4832)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4529)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4271)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3841)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4645)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4213)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6116)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4611)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4956)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4197)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4829)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5672)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3655)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4043)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4592)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5289)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3150)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4767)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4559)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4301)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4743)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4498)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4608)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7226)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5215)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 5010)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4600)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5619)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5282)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4164)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6024)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4722)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4883)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5493)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5623)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant