Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

10. Đức Bồ Tát chứng đắc Tam Minh

01 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 14030)
10. Đức Bồ Tát chứng đắc Tam Minh

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

Quyển I:
Tam Bảo

CHƯƠNG I: BA NGÔI CAO CẢ (TIYAGGA)


Đức Bồ Tát chứng đắc Tam Minh, trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác

Sau khi Đức Bồ Tát đã toàn thắng Ác Ma Thiên, vào canh đầu đêm rằm tháng tư âm lịch, Ngài tiến hành thiền định (samathabhāvanā) với đề mục niệm hơi thở vô - hơi thở ra (anāpānassati) tuần tự chứng đắc 4 bậc thiền hữu sắc như sau:

- Đệ nhất thiền hữu sắc: Có 5 chi thiền (hướng tâm, quan sát, hỷ, lạc, định), do chế ngự được 5 pháp chướng ngại (tham dục, sân hận, buồn chán-buồn ngủ, phóng tâm-hối hận, hoài nghi).

- Đệ nhị thiền hữu sắc: Có 3 chi thiền (hỷ, lạc, định), do chế ngự được 2 chi thiền (hướng tâm, quan sát).

- Đệ tam thiền hữu sắc: Có 2 chi thiền (lạc, định), do chế ngự được 1 chi thiền (hỷ).

- Đệ tứ thiền hữu sắc: Có 2 chi thiền (xả, định), do chế ngự được 1 chi thiền (lạc, thay bằng chi thiền xả).

Đó là 4 bậc thiền hữu sắc làm nền tảng để chứng đắc Tam Minh.

TAM MINH (TEVIJJA)

1- Túc mạng minh (Pubbenivāsānussatināna)

Đức Bồ Tátđệ tứ thiền hữu sắc, định tâm trong sáng thanh tịnh, thiền tâm không lay động, làm nền tảng để Ngài hướng tâm đến chứng đắc túc mạng minh: Trí tuệ nhớ rõ lại tiền kiếp, từ 1 kiếp đến hàng trăm kiếp, hàng ngàn kiếp, hàng vạn kiếp, hàng triệu kiếp, hàng triệu triệu kiếp... cho đến vô lượng kiếp không giới hạn (đối với Đức Phật Độc Giác, bậc Thánh Thanh Văn Giác thì Túc mạng minhgiới hạn).

Túc mạng minhtrí tuệ nhớ rõ tiền kiếp thuộc loại chúng sinh nào, tên gì, thuộc dòng dõi nào, tạo thiện nghiệp, bất thiện nghiệp, ba-la-mật, thọ lạc, thọ khổ, tuổi thọ... đều ghi nhớ rõ ràng mọi chi tiết.

Túc mạng minhminh thứ nhất mà Đức Bồ Tát đã chứng đắc vào canh đầu đêm rằm tháng tư (âm lịch).

2- Thiên nhãn minh (Dibbacakkhunāna)

Đức Bồ Tátđệ tứ thiền hữu sắc, định tâm trong sáng thanh tịnh, thiền tâm không lay động, làm nền tảng để Ngài hướng tâm đến chứng đắc thiên nhãn minh: Trí tuệ thấy rõ, biết rõ kiếp quá khứ, kiếp vị lai của tất cả chúng sinh như mắt của chư thiên, phạm thiên.

Thiên nhãn minh có 2 loại:

- Tử sanh minh: Trí tuệ thấy rõ biết rõ sự tử, sự tái sinh của tất cả chúng sinh sau khi chết, do nghiệp nào cho quả tái sinh cảnh giới nào, thọ khổ, thọ lạc như thế nào...

- Vị lai kiến minh: Trí tuệ thấy rõ những kiếp vị lai của tất cả chúng sinh.

Chư Phật dùng vị lai kiến minh này để thọ ký chúng sinh trong những kiếp vị lai xa xăm, còn thời gian bao nhiêu đại kiếp trái đất này sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, hoặc Đức Phật Độc Giác, hoặc bậc Thánh Thanh Văn Giác...

Thiên nhãn minhminh thứ nhì mà Đức Bồ Tát đã chứng đắc vào lúc canh giữa đêm rằm tháng tư (âm lịch).

3- Lậu tận minh (Āsavakkhayanāna)

Đức Bồ Tát dùng đệ tứ thiền hữu sắc làm nền tảng, để tiến hành thiền tuệ, quán xét Thập Nhị Duyên Sanh (Paticcasamuppāda) là đối tượng thiền tuệ của chư Bồ Tát. Ngài quán xét để chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.

Đức Bồ Tát quán xét Thập Nhị Duyên Sanh theo chiều thuận như sau:

Do vô minh làm duyên, nên hành sanh.
(Avijjāpaccayā saṅkhārā)

Do hành làm duyên, nên thức sanh.
(Saṅkhārapaccayā vinnānam)

Do thức làm duyên, nên danh sắc sanh.
(Vinnānapaccayā nāmarūpam)

Do danh sắc làm duyên, nên lục nhập sanh.
(Nāmarūpapaccayā salāyatanam)

Do lục nhập làm duyên, nên lục xúc sanh.
(Salāyatanapaccayā phasso)

Do lục xúc làm duyên, nên lục thọ sanh.
(Phassapaccayā vedanā)

Do lục thọ làm duyên, nên lục ái sanh.
(Vedanāpaccayā tanhā)

Do lục ái làm duyên, nên tứ thủ sanh.
(Tanhāpaccayā upādānam)

Do tứ thủ làm duyên, nên nhị hữu sanh.
(Upādānapaccayā bhavo)

Do nhị hữu làm duyên, nên tái sinh sanh.
(Bhavapaccayā jāti)

Do tái sinh làm duyên, nên lão tử... sanh.
(Jātipaccayā jarāmaranam...)

Đức Bồ Tát quán xét Thập Nhị Duyên Sanh theo chiều thuận, chiều sanh, để trí tuệ thiền tuệ thấy ro, biết rõ “sự sinh” của mỗi pháp, trí tuệ thiền tuệ chứng ngộ chân lý Khổ Thánh ĐếNhân sanh Khổ Thánh Đế hay Tập Thánh Đế.

Đức Bồ Tát quán xét Thập Nhị Nhân Diệt theo chiều nghịch, chiều diệt như sau:

Do diệt tận vô minh, nên diệt hành.
(Avijjāyatveva asesavirāganirodhā saṅkhāranirodho)

Do diệt hành, nên diệt thức.
(Saṅkhāranirodhā vinnananirodho)

Do diệt thức, nên diệt danh sắc.
(Vinnānanirodhā nāmarūpanirodho)

Do diệt danh sắc, nên diệt lục nhập.
(Nāmarūpanirodhā salāyatananirodho)

Do diệt lục nhập, nên diệt lục xúc.
(Salāyatananirodhā phassanirodho)

Do diệt lục xúc, nên diệt lục thọ.
(Phassanirodhā vedanānirodho)

Do diệt lục thọ, nên diệt lục ái.
(Vedanānirodhā tanhānirodho)

Do diệt lục ái, nên diệt tứ thủ.
(Tanhānirodhā upādānanirodho)

Do diệt tứ thủ, nên diệt nhị hữu.
(Upādānanirodhā bhavanirodho)

Do diệt nhị hữu, nên diệt tái sinh.
(Bhavanirodhā jātinirodho)

Do diệt tái sinh, nên diệt lão tử...
(Jātinirodhā jarāmarana... nirodho)

Đức Bồ Tát quán xét Thập Nhị Nhân Diệt theo chiều nghịch, chiều diệt, để trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ “sự diệt” của mỗi pháp, trí tuệ thiền tuệ chứng ngộ chân lý: Diệt Khổ Thánh ĐếPháp hành diệt Khổ Thánh Đế hay Đạo Thánh Đế.

Đức Bồ Tát quán xét Thập Nhị Duyên Sanh - Thập Nhị Nhân Diệt theo chiều thuận - chiều nghịch, chiều sanh - chiều diệt, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ sự sinh - sự diệt của mỗi pháp, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn, diệt đoạn tuyệt 4 pháp trầm luân (āsava) bằng 4 Thánh Đạo Tuệ tuần tự như sau:

- Nhập Lưu Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được 1 pháp là tà kiến trầm luân (ditthāsava), đồng thời các tà kiến khác.

- Nhất Lai Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được 1 pháp là tham dục trầm luân (kāmāsava) trong ngũ trần loại thô (còn loại vi tế chưa diệt được), đồng thời các tâm tham loại thô khác.

- Bất Lai Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được 1 pháp là tham dục trầm luân (kāmāsava) trong ngũ trần loại vi tế không còn dư sót, đồng thời các tâm tham loại vi tế khác.

- Arahán Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được 2 pháp là kiếp trầm luân (bhavāsava) vô minh trầm luân (avijjāsava), đồng thời diệt đoạn tuyệt được hoàn toàn mọi tham ái, phiền não, và các ác pháp không còn dư sót. Đặc biệt diệt đoạn tuyệt được tất cả mọi tiền khiên tật (vāsanā) tích lũy từ nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ.

Như vậy, Đức Bồ Tát đã tự mình chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán cao thượng đầu tiên trên thế gian. Do đó, Đức Thế Tôndanh hiệuSammāsambuddha: Đức Phật Chánh Đẳng Giác”.

Lậu tận minhminh thứ 3 mà Đức Bồ Tát đã chứng đắc vào canh chót của đêm rằm tháng tư (âm lịch), vào lúc rạng đông. Ngài đã trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác cao thượng trong toàn cõi thế giới chúng sinh, tại cội cây Assattha. Do đó, cây Assattha này gọi là Bodhirukkha: cây Bồ đề, đối với Đức Phật Gotama của chúng ta (đưới cội cây nào mỗi Đức Bồ-tát chứng đắc thành bậc Chánh Đẳng Giác, cây ấy đều được gọi là Boddhirukkha. Mỗi Đức Phật có mỗi cây Bồ Đề khác nhau).

Mười ngàn thế giới chúng sinh từ mặt đất lên đến cõi sắc giới phạm thiên tột đỉnh, chư thiên, phạm thiên vô cùng vui mừng hoan hỷ thốt lên lời:

- Sādhu! Sādhu!
(Lành thay! Lành thay!)

- Buddho uppanno!
(Đức Phật xuất hiện trên thế gian rồi!).

- Dhammo uppanno!
(Đức Pháp xuất hiện trên thế gian rồi!)

- Samgho uppanno!
(Đức Tăng cũng sẽ xuất hiện trên thế gian này!)

Tiếng tung hô vang dội khắp toàn cõi 10 ngàn thế giới chúng sinh.

Điều phi thường chưa từng có trên thế gian này là:

- Tất cả các loài hoa đều đua nhau nở để cúng dường đến Đức Phật.

- Tất cả các loại cây ăn trái đều cho quả ngon ngọt.

- Tất cả những người mù từ lúc đầu thai, khi sanh ra không thấy được gì, thì nay có đôi mắt sáng, có thể nhìn thấy mọi vật trên đời.

- Tất cả những người điếc từ lúc đầu thai, khi sinh ra không nghe được âm thanh gì, thì nay hai tai có thể nghe rõ mọi thứ âm thanh.

- Tất cả những người què, bại liệt từ lúc đầu thai, khi sanh ra không đi lại được, thì nay có thể đi lại dễ dàng.

- Đặc biệt nhất, ở địa ngục Lokantarika rộng lớn tối tăm, nơi giáp ranh với 3 thế giới, dành cho những chúng sinhtà kiến cố định (niyatamicchāditthi) hoàn toàn không tin nghiệp - quả. Ở địa ngục rất tối tăm đó, dầu ánh sáng của 7 mặt trời mọc lên cùng một lúc, cũng không thể chiếu thấu đến tận nơi; nhưng ánh sáng hào quang của Đức Phật tỏa khắp 10 ngàn thế giới, chiếu sáng đến tận địa ngục Lokantarika. Cho nên, những chúng sinh ở nơi đó có thể nhìn thấy lẫn nhau.

Toàn thể mười ngàn thế giới, chư thiên, phạm thiên đem những phẩm vật cao quý và những đóa hoa xinh đẹp cúng dường đến Đức Phậttán dương ca tụng Đức Phật bằng hàng ngàn bài kệ.

Phật Ngôn đầu tiên của Đức Phật

Khi ấy, Đức Thế Tôn tự thuyết ở trong tâm bằng 2 bài kệ rằng:

153- “Anekajātisamsāram
Sandhāvissam anibbisam
Gahakāram gavesanto
Dukkhājāti punappunam.

154- Gahakāraka! Dittho’si
Puna geham na kāhasi
Sabbā te phāsukā bhaggā
Gahakūtam visaṅkhatam
Visaṅkhāram gatam cittam
Tanhānam khayamajjhagā”
(Pháp Cú số 153, 154)

153- Này người thợ “tham ái” xây nhà “thân”
Như Lai cố tìm ngươi mà chưa gặp,
Nên tử sinh luân hồi vô số kiếp
Tái sinh mãi trong tam giới là khổ,

154- Này “tham ái”, người thợ xây nhà “thân”!
Bây giờ Như Lai đã gặp ngươi rồi!
Tất cả sườn nhà, “phiền não” của ngươi,
Như Lai đã hủy hoại sạch cả rồi
Đỉnh nhà “vô minh”, cũng bị tiêu diệt,
Nay ngươi không còn xây nhà Như Lai
Tâm Như Lai đã chứng ngộ Niết Bàn
Diệt đoạn tuyệt tất cả mọi “tham ái”
Như Lai đã chứng đắc Arahán.

(Phiền não: có tất cả 1500 loại; Tham ái: có tất cả 108 loại.)

Hai bài kệ cảm ứng tự thuyết ở trong tâm, đó là Phật ngôn đầu tiên của Đức Phật (paṭhamabuddhavacana).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16750)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
(Xem: 21421)
Tiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn...
(Xem: 18840)
Bồ Tát Quan Thế Âmhiện thân của Từ Bi, Ngài phát đại nguyện thực hiện từ bi cùng tận trong đời vị lai, nếu chúng sinh còn đau khổ. Vì chỉ có từ bi mới giải trừ đau khổ...
(Xem: 23139)
Tự tính các pháp chính là Tự Thể của các pháp. Vì các duyên hòa hợp sinh ra các pháp nên nếu các duyên tan rã thì các pháp mất do đó các pháp khôngtự tính cá biệt.
(Xem: 20098)
Ðọc Bát Nhã Tâm Kinh, tôi thấy như có một luồng gió mới, nó phá bỏ tất cả quan niệm, chối bỏ luôn cả cái hiện hữu. Tôi viết bài nầy theo sự hiểu biết đơn giản của tôi...
(Xem: 9524)
Tác Giả: Thiền Sư Bhante Henepola Gunaratana, Việt Dịch: Diệu Liên Lý Thu Linh; Nhà xuất bản Phương Đông
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant