Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

06. Quy y Tam Bảo có 2 phép chính

01 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 6459)
06. Quy y Tam Bảo có 2 phép chính

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

Quyển II:
Quy Y Tam Bảo
(TISARANA)


CHƯƠNG IV: QUY Y TAM BẢO (TISARAṆA)


Quy y Tam Bảo có 2 phép chính

1) Phép quy y Tam Bảo theo pháp Siêu tam giới (Lokuttarasaraagamana).

2) Phép quy y Tam Bảo theo pháp tam giới (Lokiyasaraagamana).

Trong mỗi phép quy y Tam Bảo có nhiều thứ bậc thấp cao khác nhau tùy theo khả năng hiểu biết của mỗi người. Cho nên, người có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo cần phải hiểu biết rõ phép quy y Tam Bảo; bởi vì, phép quy y Tam Bảobước đầu tiên trở thành người cận sự nam (upāsaka) hoặc người cận sự nữ (upāsikā) trong Phật giáo.

1- Phép quy y Tam Bảo theo pháp Siêu tam giới như thế nào?

Những người đã có duyên lành trong Phật giáo, đã từng tạo pháp hạnh ba-la-mật trải qua nhiều đời nhiều kiếp từ chư Phật trong thời quá khứ, hoặc chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Ngài trong quá khứ. Nay kiếp hiện tại này có duyên lành đến hầu Đức Phật hoặc chư Thánh Thanh Văn, được lắng nghe chánh pháp của Đức Phật, tiến hành pháp hành thiền tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh QuảNiết Bàn, diệt đoạn tuyệt được mọi phiền não, trở thành bậc Thánh Nhân trong Phật giáo.

Khi sát-na Thánh Đạo Tâm (maggakkhaacitta) phát sinh, ngay khi ấy hành giả thành tựu phép quy y Tam Bảo theo pháp Siêu tam giới.

Trong chú giải dạy:

“Tattha lokuttara diṭṭhasaccāna maggakkhaasaraagamanupakki-lesasamucchedena ārammaato Nibbānārammaa hutvā kiccato sakalepi ratanattaye ijjhati”.

“Trong 2 phép quy y Tam Bảo (phép quy y Tam Bảo theo pháp Siêu tam giới, và phép quy y Tam Bảo theo pháp tam giới); phép quy y Tam Bảo theo pháp Siêu tam giớichứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo, khi sát-na Thánh Đạo Tâm phát sinh, có đối tượng Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt phiền não ô nhiễm trong tâm. Khi ấy, bậc Thánh Nhân thành tựu phép quy y Tam Bảo theo pháp Siêu tam giới, đồng thời mọi phận sự quy y Tam Bảo cũng được thành tựu trọn vẹn cùng một lúc, không trước không sau”.

Như vậy, phép quy y Tam Bảo theo pháp Siêu tam giới là:

Theo tâm: Đó là sát-na Thánh Đạo Tâm (Maggakkhaacitta).

Theo đối tượng: Đó là đối tượng Niết Bàn.

Theo cách diệt phiền não: Đó là cách diệt đoạn tuyệt phiền não ô nhiễm Tam Bảo.

Theo phận sự: Khi sát-na Thánh Đạo Tâm phát sinh có đối tượng Niết Bàn, không phải đối tượng 9 Ân đức Phật, 6 Ân đức Pháp, 9 Ân đức Tăng. Song xét theo phận sự, khi Thánh Đạo Tâm phát sinh có đối tượng Niết Bàn, khi ấy, mọi phận sự quy y Tam Bảo theo pháp Siêu tam giới được thành tựu trọn vẹn. Cho nên, bậc Thánh Nhân không nói bằng lời rằng: “Buddham saraa gacchāmi, Dhamma saraam gacchāmi, Sagha saraam gacchāmi...”

Thứ bậc của phép quy y Tam Bảo theo pháp Siêu tam giới

Thứ bậc của phép quy y Tam Bảo theo pháp Siêu tam giới được căn cứ theo 4 Thánh Đạo Tâm. Do đó, phép quy y Tam Bảo theo pháp Siêu tam giới có 4 bậc từ thấp đến cao như sau:

Nhập Lưu Thánh Đạo Tâm phát sinh có đối tượng Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt được hai loại phiền não ô nhiễm là: tà kiếnhoài nghi, đồng thời được thành tựu hoàn toàn đầy đủ mọi phận sự quy y Tam Bảo.

Nhất Lai Thánh Đạo Tâm phát sinh có đối tượng Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt được một loại phiền não ô nhiễm là: tâm sân loại thô, đồng thời được thành tựu hoàn toàn đầy đủ mọi phận sự quy y Tam Bảo.

Bất Lai Thánh Đạo Tâm phát sinh, có đối tượng Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt được một loại phiền não ô nhiễm là: tâm sân loại vi tế, đồng thời được thành tựu hoàn toàn đầy đủ mọi phận sự quy y Tam Bảo.

Arahán Thánh Đạo Tâm phát sinh, có đối tượng Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não ô nhiễm còn lại là: tham, si, ngã mạn, phóng tâm, buồn ngủ, không biết hổ thẹn tội lỗi, không biết ghê sợ tội lỗi, tất cả mọi tham ái, mọi ác pháp không còn dư sót, đồng thời được thành tựu hoàn toàn đầy đủ mọi phận sự quy y Tam Bảo.

Quả báu của phép quy y Tam Bảo theo pháp Siêu tam giới

* Thánh Đạo cho Thánh Quả

Phép quy y Tam Bảo theo pháp Siêu tam giới đó là 4 Thánh Đạo Tâm thuộc Siêu tam giới thiện tâm, cho quả là 4 Thánh Quả Tâm tương xứng, không có thời gian ngăn cách, nghĩa là Thánh Đạo Tâm nào sinh rồi diệt, liền sau đó Thánh Quả Tâm ấy sinh, trong cùng Thánh Đạo lộ trình tâm, không có thời gian ngăn cách gọi là: “Akālikadhamma”.4 Thánh Đạo Tâm tương xứng với 4 Thánh Quả Tâm như sau:

Nhập Lưu Thánh Đạo Tâm sinh rồi diệt, liền Nhập Lưu Thánh Quả Tâm sinh.

Nhất Lai Thánh Đạo Tâm sinh rồi diệt, liền Nhất Lai Thánh Quả Tâm sinh.

Bất Lai Thánh Đạo Tâm sinh rồi diệt, liền Bất Lai Thánh Quả Tâm sinh.

Arahán Thánh Đạo Tâm sinh rồi diệt, liền Arahán Thánh Quả Tâm sinh.

Trong cùng mỗi Thánh Đạo lộ trình tâm.

Nhập Thánh Quả để hưởng an lạc Niết Bàn

Nếu bậc Thánh Nhân có khả năng đặc biệt nhập Thánh Quả (Phalasamāpatti) sở đắc của mình, để hưởng sự an lạc Niết Bàn, suốt khoảng thời gian quy định một giờ, hai giờ... chỉ có Thánh Quả Tâm sinh rồi diệt liên tục không ngừng, và có đối tượng Niết Bàn mà thôi. Đến khi xả nhập Thánh Quả rồi, trở lại cuộc sống bình thường tâm mới biết 6 đối tượng: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.

Bậc Thánh Quả bậc thấp không thể nhập Thánh Quả bậc cao.

Bậc Thánh Quả bậc cao không thể nhập Thánh Quả bậc thấp.

Bậc Thánh Quả nào, chỉ có khả năng đặc biệt nhập Thánh Quả ấy mà thôi.

Quả báu của Thánh Quả trong kiếp vị lai

Bậc Thánh Nhập Lưu chắc chắn không còn sa đọa trong 4 cõi ác giới: địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh chỉ còn tái sinh từ 1 kiếp, 2 kiếp... cho đến nhiều nhất 7 kiếp, trong cõi người hoặc 6 cõi trời dục giới; trong kiếp thứ 7 chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh Arahán tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Bậc Thánh Nhất Lai còn tái sinh 1 kiếp nữa trong cõi người hoặc cõi trời dục giới, trong kiếp ấy chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh Arahán tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Bậc Thánh Bất lai không còn tái sinh trở lại cõi dục giới, chỉ tái sinh lên cõi sắc giới (hoặc cõi vô sắc giới) rồi sẽ trở thành bậc Thánh Arahán tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Bậc Thánh Arahán ngay kiếp hiện tại sẽ tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Chư Thánh Nhân thọ phép quy y Tam Bảo

Chư bậc Thánh Nhân đều chắc chắn thành tựu phép quy y Tam Bảo theo pháp Siêu tam giới, ngay khi sát-na Thánh Đạo Tâm phát sinh có đối tượng Niết Bàn, cũng đã thành tựu mọi phận sự của phép quy y Tam Bảo trong tâm xong rồi, đã trở thành bậc Thánh Nhân.

Để được chính thức công nhậnngười cận sự nam hoặc người cận sự nữ; một lần nữa, trước sự hiện diện của Đức Phật, hoặc bậc Thánh Thanh Văn của Đức Phật. Bậc Thánh Nhân ấy thành kính xin thọ phép quy y Tam Bảo bằng lời nói:

Nếu người ấy là nam Thánh Nhân, thì xin thọ phép quy y Tam Bảo bằng lời rằng:

“Esāha Bhante Bhagavanta saraa gacchāmi, Dhammañca, Bhikkhu-saghañca, upāsaka ma Bhagavā dhāretu, ajjatagge pāupeta saraa gata”.

Kính bạch Đức Thế Tôn, con thành kính xin quy y nơi Đức Thế Tôn, xin quy y nơi Đức Pháp Bảo, xin quy y nơi chư Tỳ-khưu Tăng Bảo. Kính xin Đức Thế Tôn công nhận con là người cận sự nam đã quy y Tam Bảo, kể từ hôm nay cho đến trọn đời”.

Nếu người ấy là nữ Thánh Nhân, thì xin thọ phép quy y Tam Bảo bằng lời rằng:

“Esāha Bhante Bhagavanta saraa gacchāmi, Dhammañca, Bhikkhu-saghañca, upāsika Bhagavādhāretu, ajjatagge pāupetā saraa gatā”.

Kính bạch Đức Thế Tôn, con thành kính xin quy y nơi Đức Thế Tôn, xin quy y nơi Đức Pháp Bảo, xin quy y nơi chư Tỳ-khưu Tăng Bảo. Kính xin Đức Thế Tôn công nhận con là người cận sự nữ đã quy y Tam Bảo, kể từ hôm nay cho đến trọn đời”.

Trên đây là những gương quy y Tam Bảo của bậc Thánh Nhân, dù chư bậc Thánh Nhân đã thành tựu phép quy y Tam Bảo theo pháp Siêu tam giới xong rồi, mà còn phải tự nguyện bạch với Đức Thế Tôn kính xin thọ phép quy y Tam Bảo. Kính xin Đức Thế Tôn (hoặc bậc Thánh Thanh Văn) chứng minhcông nhậnngười cận sự nam hoặc người cận sự nữ đã quy y Tam Bảo đến trọn đời, huống gì hạng phàm nhân. Hạng phàm nhân muốn chính thức trở thành người cận sự nam, hoặc cận sự nữ, cần phải được thành tựu phép quy y Tam Bảo theo pháp tam giới, đó là điều tất yếu.

Người cận sự nam, người cận sự nữ có khả năng chứng đắc Arahán Thánh đạo - Arahán Thánh Quả được hay không? Nếu chứng đắc thành bậc Thánh Arahán rồi, thì sẽ như thế nào?

Người cận sự nam, người cận sự nữ có khả năng chứng đắc được đến Arahán Thánh Đạo, Arahán Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Arahán. Sau khi đã chứng đắc thành bậc Thánh Arahán rồi sẽ có một trong hai điều sau đây xảy ra:

- Bậc Thánh Arahán ấy, chắc chắn sẽ tịch diệt Niết Bàn ngay hôm ấy.

- Bậc Thánh Arahán ấy phải xuất gia trở thành Tỳ-khưu, hoặc Tỳ-khưu ni, mới có thể tiếp tục duy trì sinh mạng cho đến hết tuổi thọ.

Chứng đắc Thánh Arahán tịch diệt Niết Bàn

Người cận sự nam chứng đắc thành bậc Thánh Arahán rồi tịch diệt Niết Bàn ngay ngày hôm ấy.

Trích dẫn:

Trường hợp Đức vua Suddhodana, phụ thân của Đức Phật, trị vì xứ Kapi-lavatthu: khi đó Đức vua lâm bệnh, nên thỉnh Đức Phật về thuyết pháp. Sau khi lắng nghe Đức Phật thuyết pháp xong, Đức vua chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Arahán, rồi tịch diệt Niết Bàn ngay ngày hôm ấy.

Trường hợp vị đại quan cận thần Santaticủa Đức vua Pasenadi Kosala: Đức vua Pasenadi Kosala ban thưởng cho vị đại quan lên ngôi vua 7 ngày. Được lên ngôi vua, vị đại quan cận thần Santati hưởng sự an lạc trong ngũ trần, uống rượu ngon, xem các vũ nữ múa hát; đến ngày thứ 7, vị quan đại cận thần đang say đắm nhìn cô vũ nữ xinh đẹp múa hát, cô bị bệnh phong chết ngay tại vũ trường. Cái chết đột ngột của cô vũ nữ trẻ đẹp tài ba, làm cho vị quan cận thần vô cùng khổ não.

Vị đại quan cận thần nghĩ rằng: “Ngoài Đức Phật ra, không có một ai có khả năng làm lắng dịu nỗi khổ tâm này của ta”.

Nghĩ vậy, vị đại quan cận thần Santati cùng với các quan quân đến hầu đảnh lễ Đức Phật, kính xin Đức Phật thuyết pháp tế độ, làm lắng dịu nỗi khổ tâm sầu não của mình.

Đức Phật thuyết dạy bài kệ như sau:

“Ya pubbe ta visosehi
Pacchā te māhu kiñcana

Majjhe ce no gahessasi
Upasanto carissasi”
.

“Này quan cận thần San-ta-ti!
 Từ trước sầu não nào đã phát sinh,
Con hãy nên diệt sạch sầu não ấy
Về sau con không còn sầu não nữa
Giữa thời hiện tại không còn chấp thủ
Vắng lặng sầu não rồi con sẽ đi”.

Sau khi lắng nghe xong câu kệ, vị đại quan cận thần Santati chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc từ Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả cho đến Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh QuảNiết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán; thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, và quán xét về tuổi thọ của mình, biết rõ hết tuổi thọ nên vị quan cận thần Santati thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn bèn bạch rằng:

“Bhante parinibbāna me anujānātha”

Kính bạch Đức Thế Tôn, cho phép con tịch diệt Niết Bàn

Chứng đắc Thánh Arahán rồi xin xuất gia

Trích dẫn tích bà chánh cung Hoàng hậu Khemā của Đức vua Bimbisāra. Chánh cung Hoàng hậu rất xinh đẹp và say mê sắc đẹp của mình. Một hôm, chánh cung Hoàng hậu Khemā đến viếng thăm ngôi chùa Veluvana do Đức vua Bimbisāra xây cất, rồi dâng cúng dường đến chư Tỳ-khưu Tăng có Đức Phật chủ trì. Biết có Hoàng hậu Khemā đến, Đức Phật gọi bà và dạy câu kệ rằng:

 “Ātura asuci pūti,
Passa Kheme samussaya

Uggharanta
paggharanta,
Bālāna
abbipatthita.

 “Này Khemā, con hãy quán thân này,
Hay bệnh hoạn, bất tịnh, đầy ô trược
Thường ói ra, khạc nhổ đồ dơ dáy
Cửu khiếu thường chảy ra vật nhờm gớm,
Mà người si mê say đắm thân này
”.

Sau khi lắng nghe câu kệ, bà chánh cung Hoàng hậu Khemā chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh QuảNiết Bàn trở thành bậc thành Nhập Lưu.

Tiếp theo Đức Phật thuyết dạy câu kệ rằng:

“Ye rāgarattā nupatanti sota
Saya
kata makkatakova jāla
Etampi chetvāna vajanti dhīrā
Anapekkhino sabbadukkha
pahāya”.

“Này Khemā, con hãy nên quán xét
Chúng sinh nào dính mắc bởi tham ái,
Họ bị rơi vào trong dòng tham ái.
Cũng ví như một con nhện giăng tơ,
Nằm dính trong mạng nhện do mình làm.
Chư Thánh Nhân cắt đứt dòng tham ái,
Diệt mọi cảnh khổ tử sinh luân hồi
Bỏ đi mà không hề lưu luyến nữa”.

Sau khi lắng nghe câu kệ xong, bà chánh cung Hoàng hậu Khemā tiếp tục chứng đắc Nhất Lai Thánh Đạo - Nhất Lai Thánh Quả cho đến Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh QuảNiết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán.

Khi ấy, Đức Thế Tôn truyền dạy Đức vua Bimbisāra rằng:

“Mahārājā Khemāya pabbajtu vā parinibbāyitu vā vaṭṭati”.

Này Đại vương, nên cho phép chánh cung Hoàng hậu Khemā xuất gia trở thành Tỳ-khưu ni hay để cho Hoàng hậu tịch diệt Niết Bàn trong ngày hôm nay?

Đức vua Bimbisāra bạch rằng:

Kính bạch Đức Thế Tôn, kính xin Ngài cho phép Hoàng hậu xuất gia trở thành Tỳ khưu ni, đừng để Hoàng hậu tịch diệt Niết Bàn trong ngày hôm nay, bạch Ngài”.

Chánh cung Hoàng hậu Khemā được xuất gia thọ Tỳ-khưu ni. Về sau, Ngài Đại đức Tỳ-khưu ni Khemā trở thành bậc Thánh nữ Tối Thượng Thanh Văn Giác trí tuệ xuất sắc nhất trong nhóm chư Tỳ-khưu ni đệ tử của Đức Phật Gotama.

* Tại sao người tại gia cư sĩ không thể giữ được địa vị bậc Thánh Arahán cao thượng?

Sở dĩ người tại gia cư sĩcận sự nam, cận sự nữ không thể duy trì được địa vị bậc Thánh Arahán cao thượng, là vì người tại gia cư sĩđời sống thế tục, ăn ở theo thế tục, nên không xứng đáng với phạm hạnh cao thượng của bậc Thánh Arahán. Bởi vậy, cho nên người tại gia cư sĩcận sự nam hoặc cận sự nữ, sau khi chứng đắc thành bậc Thánh Arahán rồi, ngay hôm ấy, phải xuất gia trở thành Tỳ-khưu, hoặc Tỳ-khưu ni, để duy trì sinh mạng cho đến hết tuổi thọ; nếu không xuất gia thì sẽ tịch diệt Niết Bàn ngay hôm ấy, không chậm trễ sang ngày hôm sau.

Ba bậc Thánh Nhân tại gia

Trong bộ Milindapañha dạy:

Ngoài bậc Thánh Arahán ra, còn lại ba bậc Thánh: Bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai và bậc Thánh Bất Lai, nếu 3 bậc Thánh này là người tại gia cư sĩcận sự nam, cận sự nữ vẫn có thể duy trì sinh mạng cho đến hết tuổi thọ.

Bậc Thánh Nhập Lưu và bậc Thánh Nhất Laitại gia có thể lập gia đình, có vợ hoặc có chồng, có con.

Như Visākā chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu lúc 7 tuổi, về sau trưởng thành, bà có chồng sinh được 20 đứa con (10 đứa con trai, 10 đứa con gái). Bà Visākā có tuổi thọ 120 năm...

Còn bậc Thánh Bất Lai dù ở tại gia cư sĩ, vẫn không có vợ, có chồng. Nếu bậc Thánh Bất Lai, trước kia đã có vợ hoặc có chồng, thì sau khi trở thành bậc Thánh Bất Lai, chắc chắn sống riêng rẽ không còn quan hệ vợ chồng như trước, bởi vì, bậc Thánh Bất Lai đã diệt đoạn tuyệt được tham ái trong cõi dục giới.

Thời Đức Phật còn tại thế, có hai ông cận sự nam cùng tên Ugga xứ Vesāli, làng Hatthigāma vùng Vajjī, hai ông đều chứng đắc thành bậc Thánh Bất Lai. Trước kia, ông có bốn người vợ, sau khi ông chứng đắc thành bậc Thánh Bất Lai, ông cho phép bốn bà vợ cũ được tự do; muốn có chồng khác, ông ban cho tiền bạc và của cải.

Ông cận sự nam Cittagahapati, bà cận sự nữ trong xóm nhà Mātikāgāma đều chứng đắc thành bậc Thánh Bất Lai, có Tứ Tuệ Phân Tích, có Thần thông...

* Trong bộ Milindapañhā dạy:

Dù người cận sự nam, cận sự nữ là bậc Thánh Nhân cũng phải nên tỏ lòng tôn kính, đảnh lễ, đón rước chư Tỳ-khưu còn là phàm nhân. Bởi vì, chư Tỳ-khưu là một trong tứ chúng cao thượng, có thể cho phép xuất gia thọ Sadi, thọ Tỳ-khưu để duy trì Phật giáo được trường tồn lâu dài trên thế gian; mà điều này các hàng tại gia cư sĩ không thể làm được.

2- Phép quy y tam bảo theo pháp tam giới như thế nào?

Những hàng thiện trí phàm nhânđức tin trong sạch nơi Tam Bảo: Đức Phật Bảo, Đức Pháp Bảo, Đức Tăng Bảo; có trí tuệ sáng suốt, hiểu biết rõ 9 Ân đức Phật, 6 Ân đức Pháp, 9 Ân đức Tăng; có nhận thức đúng đắn rằng: Đức Phật cao thượng, Đức Pháp cao thượng, Đức Tăng cao thượng; có ý nguyện đến quy y nương nhờ nơi Tam Bảo với đại thiện tâm của mình.

Muốn được thành tựu phép quy y Tam Bảo theo pháp tam giới, thì người quy y Tam Bảo cần phải hiểu biết rõ các pháp, như trong chú giải dạy:

“Lokiya puthujjanāna saraagamanupakkilesavikkhambhanena ārammaato Buddhādiguārammaa hutvā ijjhati”.

“Đối với hàng thiện trí phàm nhân, thành tựu phép quy y Tam Bảo theo phép tam giới với đại thiện tâm hợp với trí tuệ có đối tượng 9 Ân đức Phật, 6 Ân đức Pháp, 9 Ân đức Tăng, diệt bằng cách đè nén, chế ngự phiền não ô nhiễm phép quy y Tam Bảo”.

Như vậy, pháp quy y Tam Bảo theo phép tam giới là:

Theo tâm: Đó là dục giới đại thiện tâm hợp với trí tuệ.

Theo đối tượng: Đó là 9 Ân đức Phật, 6 Ân đức Pháp, 9 Ân đức Tăng.

Theo cách diệt phiền não: Đó là cách diệt đè nén phiền não, chế ngự phiền não ô nhiễm phép quy y Tam Bảo. Khi đại thiện tâm hợp với trí tuệ phát sinh, làm phận sự thọ phép quy y Tam Bảo có đối tượng 9 Ân đức Phật, 6 Ân đức Pháp, 9 Ân đức Tăng.

Điều kiện thành tựu phép quy y Tam Bảo theo pháp tam giới

Để thành tựu phép quy y Tam Bảo theo pháp tam giới, người ấy có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, khi thành tâm thọ phép quy y Tam Bảo với đại thiện tâm hợp với trí tuệ có đối tượng Ân đức Tam Bảo theo từng mỗi câu quy y như sau:

Câu quy y Đức Phật Bảo:

“Buddha saraa gacchāmi”: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật, với đại thiện tâm hợp với trí tuệ có đối tượng 9 Ân đức Phật.

Câu quy y Đức Pháp Bảo:

“Dhamma saraa gacchāmi”: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp, với đại thiện tâm hợp với trí tuệ có đối tượng 6 Ân đức Pháp.

Câu quy y Đức Tăng Bảo:

“Sagha saraa gacchāmi”: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng, với đại thiện tâm hợp với trí tuệ có đối tượng 9 Ân đức Tăng.

Như vậy, điều kiện để thành tựu được phép quy y Tam Bảo theo pháp tam giớitrước tiên người ấy có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, có trí tuệ sáng suốt, học hỏi, ghi nhơ, hiểu rõ 9 Ân đức Phật, 6 Ân đức Pháp, 9 Ân đức Tăng; bởi vì, những Ân đức Tam Bảo này là đối tượng của đại thiện tâm hợp với trí tuệ, khi làm phận sự thọ phép quy y Tam Bảo theo pháp tam giới, để cho được thành tựu.

Thứ bậc của phép quy y Tam Bảo theo tam giới

Thứ bậc của phép quy y Tam Bảo theo tam giới được căn cứ theo dục giới đại thiện tâm, khi tâm này làm phận sự thọ phép quy y Tam Bảo theo pháp tam giới.

Đại thiện tâm có 8 tâm: 4 tâm hợp với trí tuệ và 4 tâm không hợp với trí tuệ, do đó thứ bậc của phép quy y Tam Bảo theo pháp tam giới có 2 bậc cao thấp.

- Thọ phép quy y Tam Bảo hợp với trí tuệ.
- Thọ phép quy y Tam Bảo không hợp với trí tuệ.

a) Thế nào gọi là phép quy y Tam Bảo hợp với trí tuệ?

Người có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, có trí tuệ sáng suốt hiểu rõ 9 Ân đức Phật, 6 Ân đức Pháp, 9 Ân đức Tăng. Khi tâm này làm phận sự thọ phép quy y Tam Bảo theo từng mỗi câu quy y như sau:

Câu quy y Đức Phật Bảo:

“Buddha saraa gacchāmi”: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật, với đại thiện tâm hợp với trí tuệ có đối tượng 9 Ân đức Phật.

Itipi so Bhagavā Araha... Bhagavā

Câu quy y Đức Pháp Bảo:

“Dhamma saraa gacchāmi”: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp, với đại thiện tâm hợp với trí tuệ có đối tượng 6 Ân đức Pháp.

Svākkhāto Bhagavatā dhammo, Sandiṭṭhiko... Paccattam veditabbo viññūhi

Câu quy y Đức Tăng Bảo:

“Sagha saraa gacchāmi”: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng, với đại thiện tâm hợp với trí tuệ có đối tượng 9 Ân đức Tăng.

“Suppaipanno Bhagavato sāvakasagho... Anuttara puññakkhetta lokassa”.

Như vậy, gọi là thọ phép quy y Tam Bảo hợp với trí tuệ (ñāasampa-yuttasaraagamana).

b) Thế nào gọi là phép quy y Tam Bảo không hợp với trí tuệ?

Người có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, không có trí tuệ, không hiểu rõ sâu sắc 9 Ân đức Phật, 6 Ân đức Pháp, 9 Ân đức Tăng. Khi tâm này làm phận sự thọ phép quy y Tam Bảo theo từng mỗi câu quy y như sau:

Câu quy y Đức Phật Bảo:

“Buddha saraa gacchāmi”: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật, với đại thiện tâm không hợp với trí tuệ, tuy có đối tượng 9 Ân đức Phật, nhưng không hiểu rõ ràng sâu sắc 9 Ân đức Phật ấy.

Câu quy y Đức Pháp Bảo:

“Dhamma saraa gacchāmi”: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp, với đại thiện tâm không hợp với trí tuệ, tuy có đối tượng 6 Ân đức Pháp, nhưng không hiểu rõ ràng sâu sắc 6 Ân đức Pháp ấy.

Câu quy y Đức Tăng Bảo:

“Sagha saraa gacchāmi”: Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng, với đại thiện tâm không hợp với trí, tuy có đối tượng 9 Ân đức Tăng, nhưng không hiểu rõ ràng sâu sắc 9 Ân đức Tăng ấy.

Như vậy, gọi là thọ phép quy y Tam Bảo không hợp với trí tuệ (ñāavippa-yuttasaraagamana).

Bốn hạng người quy y Tam Bảo theo pháp tam giới

Phép quy y Tam Bảo theo pháp tam giới có 4 hạng người:

- Attasanniyyātanasaraagamana: Phép quy y Tam Bảo bằng cách hiến dâng trọn đời mình nơi Tam Bảo.

- Tapparāyaasaraagamana: Phép quy y Tam Bảo bằng cách nương nhờ nơi Tam Bảo.

- Sissabhāvūpagamanasaraagamana: Phép quy y Tam Bảo bằng cách tự nguyện suốt đời làm đệ tử của Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng.

- Paipātasaraagamana: Phép quy y Tam Bảo bằng cách hết lòng tôn kính, lễ bái cúng dường Tam Bảo.

3- Phép quy y Tam Bảo bằng cách hiến dâng trọn đời mình nơi Tam Bảo như thế nào?

Người có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, có trí tuệ sáng suốt, hiểu rõ 9 Ân đức Phật, 6 Ân đức Pháp, 9 Ân đức Tăng, có nhận thức đúng đắn rằng: Đức Phật cao thượng, Đức Pháp cao thượng, Đức Tăng cao thượng. Người ấy đến hầu chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật, tự nguyện xin thọ phép quy y Tam Bảo bằng cách hiến dâng trọn đời mình đến ngôi Tam Bảo cao thượng bằng lời chân thật rằng:

“Ajja ādi katvā aha attāna Buddhassa niyyātemi, Dhammassa niyyātemi, Saghassa niyyātemi”.

Kính bạch Ngài, kính xin Ngài chứng nhận cho con rằng:

Kể từ hôm nay cho đến trọn đời, con thành kính xin hiến dâng cuộc đời con đến Đức Phật cao thượng, con thành kính xin hiến dâng cuộc đời con đến Đức Pháp cao thượng, con thành kính xin hiến dâng cuộc đời con đến Đức Tăng cao thượng.

Sau khi bạch với chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật xong, người ấy trở thành cận sự nam hoặc cận sự nữ đã quy y Tam Bảo cao thượng, từ ngày hôm ấy cho đến trọn đời.

Như vậy, gọi là phép quy y Tam Bảo bằng cách hiến dâng trọn đời mình đến nơi Tam Bảo.

4- Phép quy y Tam Bảo bằng cách đến quy y nương nhờ nơi Tam Bảo như thế nào?

Người có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, có trí tuệ sáng suốt, hiểu rõ 9 Ân đức Phật, 6 Ân đức Pháp, 9 Ân đức Tăng, có nhận thức đúng đắn rằng: Đức Phật cao thượng, Đức Pháp cao thượng, Đức Tăng cao thượng. Người ấy đến hầu chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật, tự nguyện xin thọ phép quy y Tam Bảo bằng cách đến nương nhờ nơi Tam Bảo cao thượng bằng lời chân thật rằng:

“Ajja ādi katvā aha Buddhaparāyao, Dhammaparāyao, Saghapa-rāyao iti ma dhāretha”.

Kính bạch Ngài, kính xin Ngài chứng nhận cho con rằng:

Kể từ hôm nay cho đến trọn đời, con thành kính xin quy y nương nhờ nơi Đức Phật cao thượng, xin quy y nương nhờ nơi Đức Pháp cao thượng, xin quy y nương nhờ nơi Đức Tăng cao thượng.

Sau khi bạch với chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật xong, người ấy trở thành cận sự nam hoặc cận sự nữ đã quy y Tam Bảo cao thượng, từ ngày hôm ấy cho đến trọn đời.

Như vậy, gọi là phép quy y Tam Bảo bằng cách đến quy y nương nhờ nơi Tam Bảo.

5- Phép quy y Tam Bảo bằng cách tự nguyện suốt đời làm đệ tử của Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng như thế nào?

Người có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, có trí tuệ sáng suốt, hiểu rõ 9 Ân đức Phật, 6 Ân đức Pháp, 9 Ân đức Tăng, có nhận thức đúng đắn rằng: Đức Phật cao thượng, Đức Pháp cao thượng, Đức Tăng cao thượng. Người ấy đến hầu chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật, tự nguyện xin thọ phép quy y Tam Bảo bằng cách tự nguyện suốt đời làm đệ tử của Đức Phật, của Đức Pháp, của Đức Tăng bằng lời chân thật rằng:

“Ajja ādi katvā aha Buddhassa antevāsiko, Dhammassa antevāsiko, Saghassa antevāsiko iti ma dhāretha”.

Kính bạch Ngài, kính xin Ngài chứng nhận cho con rằng:

Kể từ hôm nay cho đến trọn đời, con là người đệ tử của Đức Phật cao thượng, con là người đệ tử của Đức Pháp cao thượng, con là người đệ tử của Đức Tăng cao thượng.

Sau khi bạch với chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật xong, người ấy trở thành cận sự nam hoặc cận sự nữ đã quy y Tam Bảo cao thượng, từ ngày hôm ấy cho đến trọn đời.

Như vậy, gọi là phép quy y Tam Bảo bằng cách tự nguyện suốt đời làm đệ tử của Đức Phật, của Đức Pháp, của Đức Tăng.

6- Phép quy y Tam Bảo bằng cách hết lòng tôn kính, lễ bái cúng dường Tam Bảo như thế nào?

Người có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, có trí tuệ sáng suốt, hiểu rõ 9 Ân đức Phật, 6 Ân đức Pháp, 9 Ân đức Tăng, có nhận thức đúng đắn rằng: Đức Phật cao thượng, Đức Pháp cao thượng, Đức Tăng cao thượng. Người ấy đến hầu chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật, tự nguyện xin thọ phép quy y Tam Bảo bằng cách hết lòng tôn kính, lễ bái cúng dường Tam Bảo bằng lời chân thật rằng:

“Ajja ādi katvā aha abhivādāna-paccuṭṭhānāñjalikamma-sāmīci-kamma Buddhādīna yevatiṇṇa vatthūna karomi iti ma dhāretha”.

Kính bạch Ngài, kính xin Ngài chứng nhận cho con rằng:

Kể từ hôm nay cho đến trọn đời, con chỉ hết lòng tôn kính chắp tay, đón rước, lễ bái, đảnh lễ Tam Bảo: Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo mà thôi.

Sau khi bạch với chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật xong, người ấy trở thành cận sự nam hoặc cận sự nữ đã quy y Tam Bảo cao thượng, từ ngày hôm ấy cho đến trọn đời.

Như vậy, gọi là phép quy y Tam Bảo bằng cách hết lòng tôn kính, lễ bái, cúng dường Tam Bảo.

Trong bốn phép quy y Tam Bảo này, phép nào cũng có thể trở thành người cận sự nam hoặc cận sự nữ đã quy y Tam Bảo.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5269)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
(Xem: 5832)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
(Xem: 7458)
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Sanskrit là Avatamsaka, tiếng Nhật là Kégon Kyo. Kinh nầy bằng tiếng Sanskrit do Bồ Tát Long Tho (Nagarjuna) soạn vào khoảng thế kỷ thứ 2 Tây Lịch.
(Xem: 6379)
Con người muốn có cuộc sống an lạchạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện...
(Xem: 5974)
Phát huy sự chú tâm đúng đắn hướng vào một điểm nhằm mục đích gì? Việc luyện tập đó không nhất thiết là chỉ để giúp tâm thức đạt được một mức độ tập trung thật cao...
(Xem: 4757)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Phật Giáo Ứng Dụng - Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5709)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường đức Phật...
(Xem: 5882)
Hàng ngày các Phật tử có thể “Xưng danh hiệu” hay “Niệm danh hiệu” của chư Phật, tức là đọc tên của chư Phật và tưởng nhớ đến các ngài.
(Xem: 6125)
Trong Phật giáo, giải thoát hay thoát khỏi luân hồi là một đề tài vô cùng lớn lao. Ngay cả những người Phật tử đã học qua giáo lý, cũng mường tượng sự giải thoát như ...
(Xem: 6600)
Như Lai có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào
(Xem: 5954)
Thuật Ngữ nầy có liên hệ đến rất nhiều Thuật Ngữ khác trong Kinh Điển Phật Giáo như: Thủy Giác, Chân Như, Như Lai Tạng, Pháp Tánh, Pháp Giới, Niết Bàn, Pháp Thân, Phật Tánh, Giải Thoát Thực Chất, Toàn Giác v.v…
(Xem: 7060)
Chánh pháp của Đức Phật hay Đạo Phật được tồn tại lâu dài, đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sanh, chư thiênloài người.
(Xem: 6679)
“Đạo Phật nhấn mạnhtu tập giúp chúng ta loại bỏ những tà kiến, chứ không phải là nơi tập hợp các hí luận”.
(Xem: 4813)
Kinh Niệm Xứ (satipaṭṭhānasutta) là kinh thu gọn của Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhānasutta). Kinh này là một kinh rất quan trọng trong việc giải thích cách thực hành bốn phép quán
(Xem: 4942)
Bài viết này sẽ phân tích Bát Nhã Tâm Kinh dưới cái nhìn bất nhị, hy vọng sẽ làm sáng tỏ bài kinh cốt tủy này như một lối đi của Thiền Tông
(Xem: 7721)
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“ Của Hòa Thượng Tuyên Hóa, do TT Thích Minh Định dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ
(Xem: 9827)
Đa số Phật Tử cầu được cứu độ, giải thoát khỏi khổ đau, và giác ngộ nhưng vẫn mâu thuẫn, chấp luân hồi, luyến tiếc cõi trần nên nghiệp thức luôn luôn muốn trở lại cái cõi đời, chấp khổ đau rồi tính sau.
(Xem: 7542)
Đạo Phật khai sinh ở Ấn Độ mà cũng hoàn toàn biến mất ở Ấn Độ; nhưng nhiệt tâm hoằng pháptruyền bá của thế hệ các tăng sĩ tiền bối...
(Xem: 5335)
Bài viết này để nói thêm một số ý trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng có thể xem như nối tiếp bài “Suy Nghĩ Từ Bát Nhã Tâm Kinh”
(Xem: 6430)
Nhân duyên là thực lý chi phối thế gian này. Không có một pháp nào hiện khởi hay mất đi mà không theo qui luật “Có nhân đủ duyên mới có quả”.
(Xem: 5433)
Việc dịch lại Tâm Kinh của Thiền sư Nhất Hạnh tuy theo ý thầy là dành riêng cho các đệ tử của thầy trong Làng Mai khi thầy nói với “các con” của thầy...
(Xem: 5845)
Sau khi Đức Phật tịch diệt được khoảng 150 năm thì giáo pháp của Ngài tách ra hai đường hướng:
(Xem: 6399)
Giúp đỡ người nghèo khó là một phẩm tính cố hữu của con ngườixã hội loài người. Phẩm tính này vốn tồn tại từ thời xa xưa và vẫn được duy trì trong xã hội hiện đại.
(Xem: 5701)
Làm Thế Nào Có Được Trí Tuệ Lớn Để Đạt Đến Bờ Giải Thoát - Đó phải là quán chiếu, thực hành, tu tập theo giáo lý bát nhã
(Xem: 6445)
Nhiều người trong chúng ta đã theo dõi sự phát triển về di truyền học mới đã tỉnh thức về sự băn khoăn lo lắng sâu xa của công luận đang tập họp chung quanh đề tài này.
(Xem: 7070)
Trong các nước thuộc truyền thống Phật giáo Bắc truyền, có một vị Bồ-tát thường được gọi là Quan Âm hay Quán Âm.
(Xem: 6286)
Theo kinh, luật quy định, chư Tăng thời Đức Phật không được nhận kim ngân bảo vật. Nói rõ hơn là không được nhận tiền bạc hoặc quý kim tương đương.
(Xem: 10670)
Bấy giờ bỗng nhiên đức Thế Tôn yên lặng. Một lát sau, Ngài lại nói: “Thôi đủ rồi, Xá-lợi-phất, không cần nói nữa. Vì sao ?
(Xem: 6687)
Trong Phật giáo cũng có giới luật do Đức Phật chế định. Nhưng những luật này không bắt buộc mọi người phải tuân theo mà nó ...
(Xem: 6192)
Trong kinh Tăng nhất A-hàm Đức Phật nhận định: “Ta không thấy một pháp nào tối thắng, tối diệu, nó huyền hoặc người đời khiến không đi đến nơi vĩnh viễn tịch tĩnh
(Xem: 6749)
Nguyên lý làm tư tưởng nền tảng cho lập trường Pháp hoa chính là cở sở lý tính duyên khởigiáo nghĩa Phật tính thường trú, được biểu hiện qua...
(Xem: 6152)
Trong sự trổi dậy của khoa học về thức và sự khảo sát về tâm cùng những thể thức đa dạng của nó, Phật giáo và khoa học nhận thức có những sự tiếp cận khác nhau.
(Xem: 6504)
Đối với mọi người nói chung thì lúc chết là khoảng thời gian quan trọng nhất.
(Xem: 5531)
Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về.
(Xem: 8254)
Bài viết này ghi lại một số suy nghĩ về Bát Nhã Tâm Kinh, một bản kinh phổ biến trong Phật giáo nhiều nước Châu Á, trong đó có Việt Nam.
(Xem: 5738)
Dharma tức Giáo Huấn của Đức Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi thứ đều tương liên và tương tác với nhau
(Xem: 7567)
Kinh Pháp Hoa nói: “Pháp hy hữu khó hiểu đệ nhất mà Phật thành tựu, chỉ Phật cùng Phật mới có thể thấu suốt thật tướng của các pháp.
(Xem: 6263)
Tất cả những điều này rất kỳ diệu không những đối với người Phật Tử mà còn cho những người của các tôn giáo khác nữa.
(Xem: 9665)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 4074)
Nguyên tác: Toward a Science of Consciousness, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6400)
Con đường thực nghiệm tâm linh dẫn đến đời sống giải thoátgiác ngộ đã được đức Phật giảng dạy ở trong các kinh điển...
(Xem: 4180)
Vấn đề [tâm] thức đã hấp dẫn nhiều sự chú ý tuyệt mỹ trong lịch sử dài lâu của tư tưởng triết lý Phật giáo.
(Xem: 4311)
Đối nghịch với khoa học, trong Phật giáo không có sự thảo luận triết lý trọng yếu về vấn đề những sinh vật sống xuất hiện từ vật chất vô tri giác...
(Xem: 4773)
Nguyên tác: The Big Bang and The Buddhist Beginningless Universe; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5338)
Âm nhạc fanbei (việc tụng niệm các bài kinh dịch âm từ tiếng Phạn) đã ảnh hưởng và góp phần tạo ra gia tài văn hóa của Trung Quốc qua nhiều đế quốc và triều đại
(Xem: 5292)
Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, không pháp môn nào không nhằm “mục đích ban vui cứu khổ cho hết thảy chúng sanh”.
(Xem: 5825)
Trong lịch sử nhân loại, tùy theo ảnh hưởng của tư tưởng, văn hóa… mà các thể thức tang nghi cũng như phương cách xứ lý xác thân sau khi chết, được thực hiện với nhiều phương cách đặc thù.
(Xem: 6787)
Người xuất gia đích thực thì không khác gì người cày ruộng, gieo trồng, bón phân để thu hoạch thốc lúa.
(Xem: 5556)
Quan Âm Truyền Thuyết (Tuyển Tập) Diệu Hạnh Giao Trinh Chuyển Ngữ
(Xem: 4500)
Một trong những thứ gây cảm hứng nhất về khoa học là việc thay đổi sự thấu hiểu của chúng ta về thế giới dưới ánh sáng của những khám phá mới.
(Xem: 5337)
Y hệt một thành trì, canh gác trong và ngoài, hãy tự canh gác chính bản thân mình. Chớ để một khoảnh khắc nào trôi qua sơ suất…
(Xem: 5002)
Một khi tâm thức chúng ta trở thành thành kiến, thì chúng ta không thể thấy mọi thứ một cách khách quan.
(Xem: 4362)
“Đạo đức quan trọng hơn tôn giáo. Chúng ta khi tới với thế gian này không hề là tín đồ của tôn giáo nào. Nhưng đạo đức là nằm sẵn trong bản tâm.”
(Xem: 6879)
Kinh Lăng Già nói rằng sáu trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn sẽ có Bồ tát Long Thọ xuất hiện trùng tuyên lại giáo pháp của người.
(Xem: 4617)
Xã hội tương lai của họ hoàn toàn khác với xã hội chúng ta đã trưởng thành tại VN, và cả khác với thế hệ đầu tiên gốc Việt trưởng thành tại Hoa Kỳ.
(Xem: 8420)
Quyển sách nói về Hoàng Đế A Dục tương đối đầy đủ nhất và những cứ liệu của tác giả Lê Tự Hỷ có tính thuyết phục và độ chính xác rất nhiều...
(Xem: 7222)
Năm uẩn tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn. Thuật ngữ Uẩn 蘊, nguyên ngữ Sanskrit là skandha, Pāli là khandha,
(Xem: 8374)
Đọc “Chú Đại Bi giảng giải” do cố HT Tuyên Hóa giảng - Thượng Tọa Thích Minh Định (Pháp Quốc) dịch sang Việt ngữ từ Hán Văn
(Xem: 7532)
Này các tì kheo, người thường tục, không có kiến thức tinh tế, quy phục thế giới hàng ngày của danh, và thấy các sự vật với con mắt, trung thành với các sự vật mà ...
(Xem: 7597)
Thưa đồng bào Tây Tạng của tôi, cả ở trong và ngoài Tây Tạng, cùng tất cả những người thực hành theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, và hết thảy những ai có...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant