Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

IV. Giới Uposathasīla Có 9 Điều

12 Tháng Mười Hai 201200:00(Xem: 7111)
IV. Giới Uposathasīla Có 9 Điều

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

Quyển III:
Hành Giới

PHẦN I: GIỚI CỦA NGƯỜI TẠI GIA

IV- Giới Uposathasīla Có 9 Điều

Uposathasīla có 8 điều giới, người cận sự nam, cận sự nữđức tin trong sạch nơi Tam Bảo, xin thọ trì bát giới uposathasīla, rồi giữ gìn 8 điều giới uposathasīla cho được trong sạchtrọn vẹn. Có bát giới uposathasīla trong sạchtrọn vẹn làm nền tảng, rồi thực hành thiền định niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh trong 10 phương hướng là thêm một chi pháp. Do đó gọi giới uposathasīla có 9 chi pháp, như Đức Phật thuyết dạy trong bài kinh Navaṅguposathasutta([4]), được dịch nghĩa như sau:

Đức Phật dạy rằng:

“Này chư Tỳ khưu, người đã thọ trìgiữ gìn uposathasīla gồm đầy đủ 9 chi pháp, có được kết quả nhiều, có quả báu nhiều, quả báu hiện rõ nhiều, quả báu tỏa rộng nhiều.

Này chư Tỳ khưu, thọ trìgiữ gìn uposathasīla gồm đầy đủ 9 chi pháp như thế nào, để có được kết quả nhiều, có quả báu nhiều, quả báu hiện rõ nhiều, quả báu tỏa rộng nhiều?

Này chư Tỳ khưu, trong giáo pháp này, bậc Thánh Thanh Văn đệ tửtrí tuệ sáng suốt suy xét rằng:

1-  Chư bậc Thánh Arahán suốt cuộc đời đã từ bỏ sự sát sinh, tuyệt đối tránh xa sự sát sinh, đã bỏ gậy gộc, đã bỏ khí giới, có tâm hổ thẹn mọi tội lỗi, có tâm bi, thương xót cứu khổ tất cả mọi chúng sinh. Hôm nay, chính ta cũng từ bỏ sự sát sinh, tránh xa sự sát sinh, bỏ gậy gộc, bỏ khí giới, có tâm hổ thẹn mọi tội lỗi, có tâm bi, thương xót cứu khổ tất cả mọi chúng sinh suốt 1 ngày nay và 1 đêm nay. Ta cũng được gọi là người thực hành theo gương của chư Thánh Arahán về điều giới này. Và ta đã thọ trì uposathasīla, giữ gìn điều giới tránh xa sự sát sinh, được trong sạch.

Đó là uposathasīla chi pháp thứ nhất.

2-  Chư bậc Thánh Arahán suốt cuộc đời đã từ bỏ sự trộm cắp, tuyệt đối tránh xa sự trộm cắp, chỉ thọ nhận vật dụng mà người ta cúng dường, không bao giờ trộm cắp, là bậc sống hoàn toàn trong sạch thanh cao. Hôm nay, chính ta cũng từ bỏ sự trộm cắp, tránh xa sự trộm cắp, chỉ thọ nhận vật dụng mà người ta cho, không trộm cắp, sống hoàn toàn trong sạch thanh cao suốt 1 ngày nay và 1 đêm nay. Ta cũng được gọi là người thực hành theo gương của chư Thánh Arahán về điều giới này. Và ta đã thọ trì uposathasīla, giữ gìn điều giới tránh xa sự trộm cắp, được trong sạch.

Đó là uposathasīla chi pháp thứ nhì.

3-  Chư bậc Thánh Arahán suốt cuộc đời đã từ bỏ sự hành pháp không cao thượng (hành dâm), mà hành phạm hạnh cao thượng, tránh xa việc hành dâm thấp hèn, tuyệt đối tránh xa hành dâm, pháp của người tại gia. Hôm nay, chính ta cũng từ bỏ sự hành pháp không cao thượng (hành dâm), mà hành phạm hạnh cao thượng, tránh xa việc hành dâm thấp hèn, tuyệt đối tránh xa hành dâm, pháp của người tại gia suốt 1 ngày nay và 1 đêm nay. Ta cũng được gọi là người thực hành theo gương của chư Thánh Arahán về điều giới này. Và ta đã thọ trì uposathasīla, giữ gìn điều giới tránh xa sự hành dâm, được trong sạch.

Đó là uposathasīla chi pháp thứ ba.

4-  Chư bậc Thánh Arahán suốt cuộc đời đã từ bỏ sự nói dối, tuyệt đối tránh xa sự nói dối, chỉ nói lời chân thật, lúc nào cũng nói lời chân thật, lời nói có chứng cứ rõ ràng, lời nói đáng tin, không lừa dối đời. Hôm nay, chính ta cũng từ bỏ sự nói dối, tránh xa sự nói dối, chỉ nói lời chân thật, lúc nào cũng nói lời chân thật, lời nói có chứng cứ rõ ràng, lời nói đáng tin, không lừa dối đời suốt 1 ngày nay và 1 đêm nay. Ta cũng được gọi là người thực hành theo gương của chư Thánh Arahán về điều giới này. Và ta đã thọ trì uposathasīla, giữ gìn điều giới tránh xa sự nói dối, được trong sạch.

Đó là uposathasīla chi pháp thứ tư.

5-  Chư bậc Thánh Arahán suốt cuộc đời đã từ bỏ sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện pháp, tuyệt đối tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện pháp. Hôm nay, chính ta cũng từ bỏ sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện pháp, tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện pháp suốt 1 ngày nay và 1 đêm nay. Ta cũng được gọi là người thực hành theo gương của chư Thánh Arahán về điều giới này. Và ta đã thọ trì uposathasīla, giữ gìn điều giới tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi, được trong sạch.

Đó là uposathasīla chi pháp thứ năm.

6-  Chư bậc Thánh Arahán suốt cuộc đời chỉ độ (dùng) vật thực một bữa (trong ngày), không dùng vật thực ban đêm, tránh xa sự độ vật thực phi thời (quá ngọ, quá 12 giờ trưa). Hôm nay, chính ta cũng chỉ dùng vật thực một bữa (trong ngày), không dùng vật thực ban đêm, tránh xa sự dùng vật thực phi thời (quá ngọ, quá 12 giờ trưa) suốt 1 ngày nay và 1 đêm nay. Ta cũng được gọi là người thực hành theo gương của chư Thánh Arahán về điều giới này. Và ta đã thọ trì uposathasīla, giữ gìn điều giới tránh xa sự dùng vật thực phi thời, được trong sạch.

Đó là uposathasīla chi pháp thứ sáu.

7-  Chư bậc Thánh Arahán suốt cuộc đời đã từ bỏ sự nhảy múa ca hát, thổi kèn, tuyệt đối tránh xa xem nhảy múa, ca hát, đeo tràng hoa, làm đẹp bằng phấn son, xức nước hoa là nhân sinh tâm tham ái. Hôm nay, chính ta cũng từ bỏ sự nhảy múa ca hát, thổi kèn, tránh xa xem nhảy múa, ca hát, đeo tràng hoa, làm đẹp bằng phấn son, xức nước hoa là nhân sinh tâm tham ái suốt 1 ngày nay và 1 đêm nay. Ta cũng được gọi là người thực hành theo gương của chư Thánh Arahán về điều giới này. Và ta đã thọ trì uposathasīla, giữ gìn điều giới từ bỏ sự nhảy múa ca hát thổi kèn, tránh xa xem nhảy múa, ca hát, đeo tràng hoa, làm đẹp bằng phấn son, xức nước hoa là nhân sinh tâm tham ái, được trong sạch.

Đó là uposathasīla chi pháp thứ bảy.

8-  Chư bậc Thánh Arahán suốt cuộc đời từ bỏ chỗ nằm ngồi nơi quá cao quý và xinh đẹp, tuyệt đối tránh xa chỗ nằm ngồi nơi quá cao quý và xinh đẹp, chỉ nằm ngồi chỗ thấp, trên cái giường nhỏ, hoặc trên chỗ nằm được làm bằng cỏ khô. Hôm nay, chính ta cũng từ bỏ chỗ nằm ngồi nơi quá cao quý và xinh đẹp, tránh xa chỗ nằm ngồi nơi quá cao quý và xinh đẹp, chỉ nằm ngồi chỗ thấp, trên cái giường nhỏ, hoặc trên chỗ nằm được làm bằng cỏ khô suốt 1 ngày nay và 1 đêm nay. Ta cũng được gọi là người thực hành theo gương của chư Thánh Arahán về điều giới này. Và ta đã thọ trì uposathasīla, giữ gìn điều giới từ bỏ chỗ nằm ngồi nơi quá cao quý và xinh đẹp, chỉ nằm ngồi chỗ thấp, trên cái giường nhỏ, hoặc trên chỗ nằm được làm bằng cỏ khô, được trong sạch.

Đó là uposathasīla chi pháp thứ tám.

9-  Hành giảthiện tâm hợp với tâm từ rải khắp hướng Đông đến tất cả mọi chúng sinh trong muôn loài, trong khắp mọi nơi, với tâm từ vô lượng rải khắp mọi chúng sinh vô biên, không oan trái lẫn nhau, giữ gìn thân tâm được an lạc. Cũng như vậy, tâm từ rải khắp hướng Nam...; tâm từ rải khắp hướng Tây...; tâm từ rải khắp hướng Bắc...; tâm từ rải khắp phía dưới…; tâm từ rải khắp phía trên đến tất cả mọi chúng sinh trong muôn loài, trong khắp mọi nơi, với tâm từ vô lượng rải khắp mọi chúng sinh vô biên, không oan trái lẫn nhau, giữ gìn thân tâm được an lạc.

Đó là uposathasīla chi pháp thứ chín.

Này chư Tỳ khưu, như vậy người hành giả thọ trì, giữ gìn uposathasīla gồm có 9 chi pháp này được kết quả nhiều, có quả báu nhiều, quả báu hiện rõ nhiều, quả báu tỏa rộng nhiều”.

(Xong bài kinh Navaṅguposathasutta)

Nghi Thức Thọ Phép Quy Y Tam Bảo

Thọ Trì Uposathasīla Gồm Có 9 Chi

Mọi nghi thức phần đầu giống như nghi thức thọ phép quy y Tam Bảothọ trì bát giới uposathasīla. Đến phần xin thọ phép quy y Tam Bảothọ trì giới uposathasīla gồm có 9 chi, thì thay đổi lời xin.

Trường hợp số nhiều, từ 2 người trở lên xin thọ phép quy y Tam Bảothọ trì giới uposathasīla gồm có 9 chi, thì đọc như sau:

Mayaṃ Bhante, tisaraṇena saha navaṅgasamannāgataṃ uposathasīlaṃ dhammaṃ yācāma, anuggahaṃ katvā sīlaṃ detha no Bhante.

Dutiyampi mayaṃ Bhante, tisaraṇena saha navaṅgasamannāgataṃ uposathasīlaṃ dhammaṃ yācāma, anuggahaṃ katvā sīlaṃ detha no Bhante.

Tatiyampi mayaṃ Bhante, tisaraṇena saha navaṅgasamannāgataṃ uposathasīlaṃ dhammaṃ yācāma, anuggahaṃ katvā sīlaṃ detha no Bhante.

Kính bạch Ngài Đại đức, chúng con xin thọ phép quy y Tam Bảothọ trì giới uposathasīla gồm có 9 chi.

Kính bạch Ngài, kính xin Ngài từ bi tế độ hướng dẫn phép quy y Tam Bảo và uposathasīla gồm có 9 chi cho chúng con.

Kính bạch Ngài Đại đức, chúng con xin thọ phép quy y Tam Bảothọ trì giới uposathasīla gồm có 9 chi.

Kính bạch Ngài, kính xin Ngài từ bi tế độ hướng dẫn phép quy y Tam Bảo và uposathasīla gồm có 9 chi cho chúng con, lần thứ nhì.

Kính bạch Ngài Đại đức, chúng con xin thọ phép quy y Tam Bảothọ trì giới uposathasīla gồm có 9 chi.

Kính bạch Ngài, kính xin Ngài từ bi tế độ hướng dẫn phép quy y Tam Bảo và uposathasīla gồm có 9 chi cho chúng con, lần thứ ba.

Ngài Đại đức truyền dạy rằng:

NĐĐ: Yamahaṃ vadāmi, taṃ vadetha.

(Sư hướng dẫn từng chữ, từng câu như thế nào, các con hãy nên lập lại đúng từng chữ, từng câu như thế ấy).

Tất cả mọi người cận sự nam, cận sự nữ đồng thanh thưa rằng:

CSN: Āma, Bhante.

(Dạ, xin vâng! Kính bạch Ngài).

Kính lễ Đức Phật

Ngài Đại đức hướng dẫn đảnh lễ Đức Thế Tôn rằng:

Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa. (3 lần)

Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, Đức Arahán, Đức Chánh Đẳng Giác ấy. (3 lần)

Thọ phép quy y Tam Bảo

Sau khi kính lễ Đức Phật xong, Ngài Đại đức hướng dẫn thọ phép quy y Tam Bảo như sau:

Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật.

Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp.

Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng.

Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật, lần thứ nhì.

Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp, lần thứ nhì.

Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng, lần thứ nhì.

Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật, lần thứ ba.

Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp, lần thứ ba.

Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng, lần thứ ba.

NĐĐ: Tisaraṇagamanaṃ paripuṇṇaṃ.

(Phép quy y Tam Bảo trọn vẹn bấy nhiêu!)

CSN: Āma! Bhante.

(Dạ, xin vâng! Kính bạch Ngài).

Thọ trì bát giới uposathasīla gồm có 9 chi pháp

Sau khi thọ phép quy y Tam Bảo xong, tiếp theo thọ trì uposathasīla gồm có 9 chi pháp như sau:

1-  Pāṇātipātā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự sát sinh.

2-  Adinnādānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự trộm cắp.

3-  Abrahmacariyā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự hành dâm.

4-  Musāvādā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự nói dối.

5-  Surāmerayamajjappamādaṭṭhānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi.

6-  Vikālabhojanā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự dùng vật thực phi thời.

7-  Nacca gīta vādita visūkadassana mālāgandha vilepana dhāraṇa maṇḍana vibhūsanaṭṭhānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự nhảy múa, ca hát, thổi kèn, đánh đàn, xem nhảy múa, nghe ca hát, đeo tràng hoa, làm đẹp bằng phấn son, xức nước hoa là nhân sinh tham ái.

8-  Uccāsayana mahāsayanā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh chỗ nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp.

9-  Mettāsahagatena cetasā sabbapāṇabhūtesu pharitvā viharaṇaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì pháp hành niệm rải tâm từ đến tất cả mọi chúng sinh muôn loài bằng thiện tâm hợp với tâm từ.

Ngài Đại đức khuyên dạy rằng:

NĐĐ: Tisaraṇena saha navaṅgasamannāgataṃ uposathasīlaṃ dhammaṃ sādhukaṃ katvā, appamādena sampādetha.

(Thọ phép quy y Tam Bảothọ trì giới uposathasīla gồm có 9 chi pháp xong rồi, các con hãy nên cố gắng giữ gìn cho được trong sạchtrọn vẹn, bằng pháp không dể duôi, để làm nền tảng cho mọi thiện pháp phát sinh).

Những người cận sự nam, cận sự nữ đồng thanh bạch rằng:

CSN: Āma! Bhante.

(Dạ, xin vâng! Kính bạch Ngài).

NĐĐ: Sīlena sugatiṃ yanti.

Sīlena bhogasampadā.

Sīlena nibbutiṃ yanti.

Tasmā sīlaṃ visodhaye.

Chúng sinh tái sinh cõi trời, nhờ giữ giới.

Chúng sinh đầy đủ của cải, nhờ giữ giới.

Chúng sinh giải thoát Niết Bàn, nhờ giữ giới.

Vậy, các con giữ giới cho được trong sạch.

CSN: Sādhu! Sādhu!

(Lành thay! Lành thay)!

Sau khi đã thọ phép quy y Tam Bảothọ trì giới uposathasīla gồm có 9 chi pháp xong rồi, tiếp theo đọc bài kệ khẳng định khôngquy y nương nhờ nơi nào khác, chỉ có quy y nương nhờ nơi Đức Phật Bảo, nơi Đức Pháp Bảo, nơi Đức Tăng Bảo mà thôi, để làm tăng đức tin cho vững chắc, như sau:

Bài kệ khẳng định quy y Tam Bảo

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,

Buddho me saraṇaṃ varaṃ.

Etena sacavajjena,

Hotu me jayamaṅgalaṃ.

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,

Dhammo me saraṇaṃ varaṃ.

Etena sacavajjena,

Hotu me jayamaṅgalaṃ.

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,

Saṃgho me saraṇaṃ varaṃ.

Etena sacavajjena,

Hotu me jayamaṅgalaṃ.

Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,

Phật Bảo nơi nương nhờ cao thượng của con.

Do nhờ năng lực của lời chân thật này,

Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,

Pháp Bảo nơi nương nhờ cao thượng của con.

Do nhờ năng lực của lời chân thật này,

Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,

Tăng Bảo nơi nương nhờ cao thượng của con.

Do nhờ năng lực của lời chân thật này,

Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

Hoàn thành xong lễ thọ phép quy y Tam Bảothọ trì giới uposathasīla gồm có 9 chi pháp.

Nhận xét về 9 giới uposathasīla

Trong giới uposathasīla gồm có 9 điều, điều thứ 9 là thọ pháp hành thiền định niệm rải tâm từ như sau:

“Mettāsahagatena cetasā sabbapāṇabhūtesu pharitvā viharaṇaṃ samādiyāmi”.

(Con xin thọ trì pháp hành niệm rải tâm từ đến tất cả mọi chúng sinh muôn loài bằng thiện tâm hợp với tâm từ).

Cũng trong điều thứ 9 này, một số sách khác thọ trì như sau:

Yathābalaṃ mettāsahagatena cetasā sabbavantaṃ lokaṃ pharitvā viharāmi”.

(Con xin hành rải tâm từ đến tất cả chúng sinh trong đời theo năng lực thiện tâm hợp với tâm từ).

Điều thứ 9 trong giới uposathasīla có 9 chi pháp không phải là điều giới như 8 điều giới ở phần trước (từ điều giới thứ nhất đến điều giới thứ 8), mà là điều pháp hành thiền định niệm rải tâm từ đến tất cả mọi chúng sinh muôn loài vô lượng.

Như vậy, trong giới uposathasīla có 9 chi pháp này, 8 điều giới đầu thuộc về pháp hành giới, hỗ trợ cho điều thứ 9 thuộc về pháp hành thiền định đề mục niệm rải tâm từ đến tất cả mọi chúng sinh muôn loài vô lượng.

Phước thiệnquả báu đặc biệt của giới uposathasīla có 9 chi pháp

Nếu hành giả thọ trì giới uposathasīla có 9 chi pháp rồi giữ gìn cho được trong sạchtrọn vẹn, thì hành giả không những được phước thiện giữ giới, mà còn có được phước thiện hành thiền. Do đó, giới uposathasīla có 9 chi pháp này cao quý hơn bát giới uposathasīla.

Phước thiện hành thiền niệm rải tâm từ sẽ có được 11 quả báu trong kiếp hiện tại và những kiếp vị lai như sau:

1-  Ngủ được an lạc.

2-  Thức dậy được an lạc.

3-  Không thấy các ác mộng.

4-  Được mọi người thương yêu, quý mến.

5-  Được các hàng phi nhân thương yêu, quý mến.

6-  Được chư thiên hộ trì.

7-  Lửa hoặc chất độc hoặc các loại vũ khí,... không thể làm hại được.

8-  Tâm dễ dàng an tịnh.

9-  Gương mặt sáng sủa.

10-  Lúc lâm chung tâm không mê muội (tâm trí sáng suốt). 

11-  Đề mục niệm rải tâm từ có khả năng chứng đắc các bậc thiền sắc giới (trừ đệ ngũ thiền); nếu chưa trở thành bậc Thánh Arahán, thì sau khi chết, bậc thiền hữu sắc sở đắc của mình cho quả tái sinh lên cõi trời sắc giới phạm thiên.

Hành giả thực hành thiền định đề mục niệm rải tâm từ([5]) đến cho mình rồi đến tất cả mọi chúng sinh vô lượng, thì chính mình được sự an lạc, do năng lực tâm từ ấy, chúng sinh gần xa cũng được sự an lạc tuỳ theo năng lực tâm từ của hành giả.



[4] Aṅguttaranikāya, phần Navakanipāta, kinh Navaṅguposathasutta.

[5] Xem thêm trong quyển Hạnh Phúc An Lành TÂM TỪ cùng một soạn giả.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6313)
Học phái dịch thuật xưa của Phật giáo Tây Tạng đưa ra nhiều cách luyện tập dựa vào các phương pháp khác biệt nhau, gọi là các "cỗ xe"/thừa.
(Xem: 8555)
Thần tài trong Phật giáo, cụ thểPhật giáo Bắc truyền đã vay mượn giữa hình ảnh Bố Đại hòa thượng và các truyền thuyết về thần tài Trung Hoa, để tổng hòa nên một vị thần tài có nguồn gốc ngoài Phật giáo.
(Xem: 5275)
Thời Đức Phật tại thế, Ấn Độít nhất mười sáu tiểu vương quốc, mỗi vương quốc đều có ngôn ngữ hay phương ngữ riêng, nhưng có lẽ người dân của mỗi nước đều có thể giao tiếp và hiểu nhau được.
(Xem: 5839)
Trong các kinh sách thừa hưởng từ [Phật giáo] Ấn Độ thì nguyên tắc căn bản đó lúc thì được gọi là "tâm thức tự tại
(Xem: 7471)
Kinh Hoa Nghiêm tiếng Sanskrit là Avatamsaka, tiếng Nhật là Kégon Kyo. Kinh nầy bằng tiếng Sanskrit do Bồ Tát Long Tho (Nagarjuna) soạn vào khoảng thế kỷ thứ 2 Tây Lịch.
(Xem: 6383)
Con người muốn có cuộc sống an lạchạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện...
(Xem: 5976)
Phát huy sự chú tâm đúng đắn hướng vào một điểm nhằm mục đích gì? Việc luyện tập đó không nhất thiết là chỉ để giúp tâm thức đạt được một mức độ tập trung thật cao...
(Xem: 4765)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Nói Về Phật Giáo Ứng Dụng - Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5711)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường đức Phật...
(Xem: 5894)
Hàng ngày các Phật tử có thể “Xưng danh hiệu” hay “Niệm danh hiệu” của chư Phật, tức là đọc tên của chư Phật và tưởng nhớ đến các ngài.
(Xem: 6139)
Trong Phật giáo, giải thoát hay thoát khỏi luân hồi là một đề tài vô cùng lớn lao. Ngay cả những người Phật tử đã học qua giáo lý, cũng mường tượng sự giải thoát như ...
(Xem: 6616)
Như Lai có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào
(Xem: 5964)
Thuật Ngữ nầy có liên hệ đến rất nhiều Thuật Ngữ khác trong Kinh Điển Phật Giáo như: Thủy Giác, Chân Như, Như Lai Tạng, Pháp Tánh, Pháp Giới, Niết Bàn, Pháp Thân, Phật Tánh, Giải Thoát Thực Chất, Toàn Giác v.v…
(Xem: 7086)
Chánh pháp của Đức Phật hay Đạo Phật được tồn tại lâu dài, đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sanh, chư thiênloài người.
(Xem: 6690)
“Đạo Phật nhấn mạnhtu tập giúp chúng ta loại bỏ những tà kiến, chứ không phải là nơi tập hợp các hí luận”.
(Xem: 4826)
Kinh Niệm Xứ (satipaṭṭhānasutta) là kinh thu gọn của Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhānasutta). Kinh này là một kinh rất quan trọng trong việc giải thích cách thực hành bốn phép quán
(Xem: 4959)
Bài viết này sẽ phân tích Bát Nhã Tâm Kinh dưới cái nhìn bất nhị, hy vọng sẽ làm sáng tỏ bài kinh cốt tủy này như một lối đi của Thiền Tông
(Xem: 7743)
Đọc “Chú Lăng Nghiêm-Kệ và giảng giải“ Của Hòa Thượng Tuyên Hóa, do TT Thích Minh Định dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ
(Xem: 9848)
Đa số Phật Tử cầu được cứu độ, giải thoát khỏi khổ đau, và giác ngộ nhưng vẫn mâu thuẫn, chấp luân hồi, luyến tiếc cõi trần nên nghiệp thức luôn luôn muốn trở lại cái cõi đời, chấp khổ đau rồi tính sau.
(Xem: 7564)
Đạo Phật khai sinh ở Ấn Độ mà cũng hoàn toàn biến mất ở Ấn Độ; nhưng nhiệt tâm hoằng pháptruyền bá của thế hệ các tăng sĩ tiền bối...
(Xem: 5353)
Bài viết này để nói thêm một số ý trong Bát Nhã Tâm Kinh, cũng có thể xem như nối tiếp bài “Suy Nghĩ Từ Bát Nhã Tâm Kinh”
(Xem: 6449)
Nhân duyên là thực lý chi phối thế gian này. Không có một pháp nào hiện khởi hay mất đi mà không theo qui luật “Có nhân đủ duyên mới có quả”.
(Xem: 5455)
Việc dịch lại Tâm Kinh của Thiền sư Nhất Hạnh tuy theo ý thầy là dành riêng cho các đệ tử của thầy trong Làng Mai khi thầy nói với “các con” của thầy...
(Xem: 5872)
Sau khi Đức Phật tịch diệt được khoảng 150 năm thì giáo pháp của Ngài tách ra hai đường hướng:
(Xem: 6433)
Giúp đỡ người nghèo khó là một phẩm tính cố hữu của con ngườixã hội loài người. Phẩm tính này vốn tồn tại từ thời xa xưa và vẫn được duy trì trong xã hội hiện đại.
(Xem: 5714)
Làm Thế Nào Có Được Trí Tuệ Lớn Để Đạt Đến Bờ Giải Thoát - Đó phải là quán chiếu, thực hành, tu tập theo giáo lý bát nhã
(Xem: 6457)
Nhiều người trong chúng ta đã theo dõi sự phát triển về di truyền học mới đã tỉnh thức về sự băn khoăn lo lắng sâu xa của công luận đang tập họp chung quanh đề tài này.
(Xem: 7077)
Trong các nước thuộc truyền thống Phật giáo Bắc truyền, có một vị Bồ-tát thường được gọi là Quan Âm hay Quán Âm.
(Xem: 6304)
Theo kinh, luật quy định, chư Tăng thời Đức Phật không được nhận kim ngân bảo vật. Nói rõ hơn là không được nhận tiền bạc hoặc quý kim tương đương.
(Xem: 10684)
Bấy giờ bỗng nhiên đức Thế Tôn yên lặng. Một lát sau, Ngài lại nói: “Thôi đủ rồi, Xá-lợi-phất, không cần nói nữa. Vì sao ?
(Xem: 6694)
Trong Phật giáo cũng có giới luật do Đức Phật chế định. Nhưng những luật này không bắt buộc mọi người phải tuân theo mà nó ...
(Xem: 6205)
Trong kinh Tăng nhất A-hàm Đức Phật nhận định: “Ta không thấy một pháp nào tối thắng, tối diệu, nó huyền hoặc người đời khiến không đi đến nơi vĩnh viễn tịch tĩnh
(Xem: 6757)
Nguyên lý làm tư tưởng nền tảng cho lập trường Pháp hoa chính là cở sở lý tính duyên khởigiáo nghĩa Phật tính thường trú, được biểu hiện qua...
(Xem: 6153)
Trong sự trổi dậy của khoa học về thức và sự khảo sát về tâm cùng những thể thức đa dạng của nó, Phật giáo và khoa học nhận thức có những sự tiếp cận khác nhau.
(Xem: 6521)
Đối với mọi người nói chung thì lúc chết là khoảng thời gian quan trọng nhất.
(Xem: 5537)
Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về.
(Xem: 8275)
Bài viết này ghi lại một số suy nghĩ về Bát Nhã Tâm Kinh, một bản kinh phổ biến trong Phật giáo nhiều nước Châu Á, trong đó có Việt Nam.
(Xem: 5752)
Dharma tức Giáo Huấn của Đức Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi thứ đều tương liên và tương tác với nhau
(Xem: 7576)
Kinh Pháp Hoa nói: “Pháp hy hữu khó hiểu đệ nhất mà Phật thành tựu, chỉ Phật cùng Phật mới có thể thấu suốt thật tướng của các pháp.
(Xem: 6268)
Tất cả những điều này rất kỳ diệu không những đối với người Phật Tử mà còn cho những người của các tôn giáo khác nữa.
(Xem: 9670)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 4074)
Nguyên tác: Toward a Science of Consciousness, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6402)
Con đường thực nghiệm tâm linh dẫn đến đời sống giải thoátgiác ngộ đã được đức Phật giảng dạy ở trong các kinh điển...
(Xem: 4193)
Vấn đề [tâm] thức đã hấp dẫn nhiều sự chú ý tuyệt mỹ trong lịch sử dài lâu của tư tưởng triết lý Phật giáo.
(Xem: 4317)
Đối nghịch với khoa học, trong Phật giáo không có sự thảo luận triết lý trọng yếu về vấn đề những sinh vật sống xuất hiện từ vật chất vô tri giác...
(Xem: 4783)
Nguyên tác: The Big Bang and The Buddhist Beginningless Universe; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5346)
Âm nhạc fanbei (việc tụng niệm các bài kinh dịch âm từ tiếng Phạn) đã ảnh hưởng và góp phần tạo ra gia tài văn hóa của Trung Quốc qua nhiều đế quốc và triều đại
(Xem: 5299)
Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, không pháp môn nào không nhằm “mục đích ban vui cứu khổ cho hết thảy chúng sanh”.
(Xem: 5833)
Trong lịch sử nhân loại, tùy theo ảnh hưởng của tư tưởng, văn hóa… mà các thể thức tang nghi cũng như phương cách xứ lý xác thân sau khi chết, được thực hiện với nhiều phương cách đặc thù.
(Xem: 6803)
Người xuất gia đích thực thì không khác gì người cày ruộng, gieo trồng, bón phân để thu hoạch thốc lúa.
(Xem: 5563)
Quan Âm Truyền Thuyết (Tuyển Tập) Diệu Hạnh Giao Trinh Chuyển Ngữ
(Xem: 4512)
Một trong những thứ gây cảm hứng nhất về khoa học là việc thay đổi sự thấu hiểu của chúng ta về thế giới dưới ánh sáng của những khám phá mới.
(Xem: 5343)
Y hệt một thành trì, canh gác trong và ngoài, hãy tự canh gác chính bản thân mình. Chớ để một khoảnh khắc nào trôi qua sơ suất…
(Xem: 5015)
Một khi tâm thức chúng ta trở thành thành kiến, thì chúng ta không thể thấy mọi thứ một cách khách quan.
(Xem: 4379)
“Đạo đức quan trọng hơn tôn giáo. Chúng ta khi tới với thế gian này không hề là tín đồ của tôn giáo nào. Nhưng đạo đức là nằm sẵn trong bản tâm.”
(Xem: 6883)
Kinh Lăng Già nói rằng sáu trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn sẽ có Bồ tát Long Thọ xuất hiện trùng tuyên lại giáo pháp của người.
(Xem: 4627)
Xã hội tương lai của họ hoàn toàn khác với xã hội chúng ta đã trưởng thành tại VN, và cả khác với thế hệ đầu tiên gốc Việt trưởng thành tại Hoa Kỳ.
(Xem: 8431)
Quyển sách nói về Hoàng Đế A Dục tương đối đầy đủ nhất và những cứ liệu của tác giả Lê Tự Hỷ có tính thuyết phục và độ chính xác rất nhiều...
(Xem: 7229)
Năm uẩn tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn. Thuật ngữ Uẩn 蘊, nguyên ngữ Sanskrit là skandha, Pāli là khandha,
(Xem: 8388)
Đọc “Chú Đại Bi giảng giải” do cố HT Tuyên Hóa giảng - Thượng Tọa Thích Minh Định (Pháp Quốc) dịch sang Việt ngữ từ Hán Văn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant