Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Năng lượng tâm

05 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 24678)
Năng lượng tâm

NĂNG LƯỢNG TÂM 

Thành Văn

 

 Nếu có một tôn giáo có thể đáp ứng với những yêu cầu của khoa học hiện đại thì đấy sẽ là Đạo Phật (Albert Einstein).

 Điều đó khá rõ ràng, khi chúng ta thấy Đức Phật Ngài không hề tự nhận mình là một thần linh xuống thế để ban phúc giáng họa cho ai cả. Ngài xuất thân cũng chỉ là một chúng sinh bình thường như chúng ta. Nhưng nhờ công phu tu tập nhiều đời, nhiều kiếp, đến đời sống sau cùng Ngài đi nốt con đường Ngài đã chứng ngộ chân lý, khám phá ra tất cả những bí mật của vũ trụtìm ra được con đường vượt thoát khỏi sự ràng buộc đó.

 Chúng sanh đi theo con đường của Ngài cũng nhìn nhận Đức Phật trước hết là một vị Thầy (Bổn Sư, Thế tôn), người đã chỉ cho chúng ta con đường tu tập để giải thoát ra khỏi vòng sinh tử luân hồi, nguồn gốc của mọi khổ đau. Những gì Đức Phật đã khám phá ra không chỉ là khoa học, nó bao trùm tất cả mọi quy luật của vũ trụ; nghĩa là bao trùm cả khoa học ngày nay. Bởi khoa học ngày nay chỉ khảo sát và ứng dụng được những thứ thuộc đời sống vật lý. Đó là thứ khoa học về vật chất. Khi đụng đến các vấn đề về tinh thần khoa học phải dừng chân và chuyển giao các vấn đề ấy sang một lãnh vực khác; đó là triết họctôn giáo.

 Nếu Đức Phật không phải là thần linh, Ngài là một nhà khoa học, hơn thế nữa Ngài là một nhà “siêu khoa học”.

 Newton phát kiến ra luật vạn vật hấp dẫn, ông mở đầu cho những nghiên cứu sau này của nhân loại để vượt khỏi sức hút của trái đất bay vào không gian. Archimede khám phá ra lực đẩy của chất lỏng, để cho các nhà khoa học đi sau chế tạo ra tàu ngầm chạy dưới nước như cá.

 Những gì Đức Phật dạy chúng ta, bằng hai con đường: tâm linh và khoa học con người sẽ đạt được cứu cánh giải thoát khỏi tất cả mọi ràng buộc của thế giới vật chất để hiện hữu mà không cần phải tựa trên một thực thể vật lý.

 Từ 25 thế kỷ trước, bằng trí huệ siêu thế, Đức Phật đã nhìn thấy “trong một cốc nước có vô số chúng sanh”. Ngày nay khoa học cho thấy rõ đó là những vi sinh vật mắt thường không trông thấy được, nhưng nếu đặt dưới kính hiển vi điện tử những sinh vật ấy sẽ hiện nguyên hình cho chúng ta quan sát.

 Trong một cá nhân, ngoài phần vật chất bao gồm sự duyên hợp của tứ đại: đất, nước, gió, lửa, còn có một phần phi vật chất, hay còn gọi là tinh thần bao gồm tâm và trí. Phần trí con người có thể phần nào kiểm soát được. Phần tâm vẫn còn là một cái gì bí mậtcon người chỉ mới có khái niệm lờ mờ và không kiểm soát được.

 Trong phần trình bày sau đây, người viết xin khai triển một khái niệm thuộc về tâm; đó là năng lượng tâm. Nói đến năng lượng là nói đến một nguồn sức mạnh.

 Nó có thể được sản xuất ra, tàng trữ và sử dụng, như năng lượng điện chẳng hạn.

 Xin lần lượt đưa ra những thí dụ của đời thường, để từ đó suy nghĩ và thử đưa ra những giải thích chứng minh sự hiện hữu của một thứ năng lượng xuất phát từ tâm; tức là thuộc lãnh vực vô hình tàng ẩn trong con người. Năng lượng ấy nếu biết định rõ, thu góp, tích trữ có thể sử dụng để đưa con người vượt qua những giới hạn của khoa học vật lý.

 

 Thí dụ 1./ Trong bộ phim Out of Africa có cảnh người thợ săn và bạn gái của anh ta phải đối diện với một con sư tử. Con sư tử khi phát hiện ra hai người đứng gần chiếc xe của họ, nó lừng lững bước tới và chuẩn bị chạy tới tấn công cô gái. Cô gái kinh hoảng thối lui, toan bỏ chạy. Anh thợ săn mắt vẫn theo dõi con mãnh thú, tay lăm lăm khẩu súng sẵn sàng nhả đạn để cứu bạn, đồng thời anh la to trấn an cô gái: “Đừng sợ, đừng chạy, hãy đứng lại, nhìn thẳng vào mắt nó. Nó sẽ không làm gì cô đâu.”

 Cô gái mặc dù đang hoảng sợ nhưng vẫn còn đủ bình tĩnh làm theo lời bạn trai. Quả nhiên, con sư tử đang hung hăng chuẩn bị nhào tới cô gái, nó bỗng chùn chân lại. Sau đó nó chậm rãi quay đầu bỏ đi.

 Lý giải sự kiện: Người thợ săn, nhờ có kinh nghiệm, có khẩu súng trong tay, anh ta hoàn toàn bình tĩnh, không hề hoảng sợ trước con mãnh thú. Trong não bộ anh không có tín hiệu phát ra truyền đến não bộ con vật. Trước mặt nó, có vẻ như người thợ săn không có mặt. Nó nhìn anh nhưng không thấy anh, hay thấy nhưng không bị kích động bởi bản năng tấn công.

 Ngược lại, với cô gái, vì thiếu hiểu biết về loài sư tử, trong tay lại không có vũ khí, cô rất sợ hãi. Lập tức não bộ cô phát ra một tín hiệu dưới dạng sóng vô tuyến. Con vật bắt được làn sóng đó và nó “thấy” cô, đồng thời nỗi sợ hãi của cô kích thích bản năng tấn công của nó nên nó nhắm cô xông tới.

 Khi nghe lời anh thợ săn, cô gái bình tĩnh lại, tín hiệu từ não bộ cô ngưng phát ra. Con vật bị ngắt tín hiệu, nó chợt “không thấy” cô nữa, đồng thời cũng không bị kích thích, nên lặng lẽ bỏ đi.

 Trong trường hợp này, chính năng lượng tâm từ cả hai con người đã truyền đến con vật theo hai cách. Năng lượng này có dưới dạng sóng điện từ, nếu có máy móc có thể ghi nhận được.

 

 Thí dụ 2./ Trong một chuyến đi chơi xuyên bang bằng xe đến Yellowstone đoàn chúng tôi gồm 5-6 người lớn và mấy đứa trẻ con. Ở một địa điểm nghỉ ven đường nơi có nhiều con sóc từ những bụi cây gần đó chúng chạy đến gần những du khách để được cho ăn những hột đậu.

 Tôi nhận thấy những con sóc tỏ ra e dè sợ sệt những người đàn ông, không dám đến gần ăn những hạt đậu hay bắp rải ra cho chúng. Đối với đàn bà, chúng tỏ vẻ hơi dạn dĩ hơn, nhưng vẫn e dè. Riêng với những đứa trẻ nhỏ, đám sóc tỏ ra thân thiện thấy rõ. Chẳng những chúng không né sợ mà có con còn chạy đến gần sát nhặt ngay cả những hạt đậu còn nằm trên bàn tay những đứa trẻ.

 Khi tôi đưa thắc mắc này ra hỏi thử những người cùng đi xem họ nghĩ sao. Có người bảo “Tại nó thấy mấy ông to lớn quá nên sợ, còn trẻ con nhỏ người nó ít sợ hơn.” Tôi không đồng ý. Về nhà suy nghĩ thêm, tôi cho rằng vấn đề không phải do thân người lớn nhỏ. Đối với những con sóc, ngay cả một đứa trẻ sáu bảy tuổi cũng đều to lớn hơn nó nhiều, và đều có thể làm hại nó y như người lớn vậy.

 Nhưng nó sợ người này hay không sợ người kia là do bới tín hiệu từ tâm phát ra ở mỗi người. Đối với người lớn, do tâm đấu tranh, thù hằn, sát hại đã huân tập nhiều năm trong tàng thức nên trong tâm họ tàng trữ những năng lượng hủy diệt nhiều hơn những đứa trẻ. Những năng lượng ấy tự phát tán ra không theo sự kiểm soát của con người. Thú vật thường thân thiện quấn quýt trẻ nhỏ hơn người lớn là vì vậy.

 Dù ngay lúc đó không ai có tư tưởng bắt hay làm hại những con sóc, nhưng chúng vẫn nhận được từ người lớn những năng lượng tâm có dấu ấn ác trong quá khứ, nên chúng sợ. Tự dưng chúng sợ thế thôi. Chứ không phải vì người lớn to con hơn trẻ nhỏ.

 Người ta thấy có những người khi ở gần họ ta thấy an ổn. Với những kẻ khác, ta có cảm giác bất an đôi khi ghê sợ khi đến gần họ. Ta gọi đó là linh tính. Linh tính ấy phát sinh do sự chuyển tải một năng lượng từ tâm người này sang tâm người khác.

 

 Thí dụ 3./ Tôi có thói quen đi dạo trong công viên gần nhà, ở đó có nhiều người giắt chó đi dạo. Thường những con chó càng nhỏ càng có thái độ hung hăng, sủa những người đi ngược chiều. Thậm chí có con còn xấn đến chỗ người đi ngược chiều với vẻ đe dọa. Tôi chợt nhớ lại bài học về tâm, nên trong đầu nảy ra ý nghĩ, rải tình thương đến chú chó vừa nói thầm trong bụng: con chó hiền quá, trông nó thật dễ thương. Quả nhiên con chó nhỏ đang hung hăng sủa, nó im bặt, lặng lẽ quay lại bước gần bên chủ.

 

 4./ Một cô gái đứng chờ xe buýt. Sau lưng cô cách mấy thước có một chàng thanh niên cũng đang đứng chờ như cô. Cô gái khá xinh đẹp. Chàng trai đã để ý thấy. Chàng dán đôi mắt nhìn chăm chăm vào sau gáy cô gái và trong đầu chàng phát ra tín hiệu yêu thích. Chỉ một lát sau không lâu cô gái quay lại và bắt gặp tia nhìn ấy vì cô cảm thấy nhột nhạt ở gáy như có một bàn tay đang sờ vào. Đó chính là do một năng lượng đã truyền từ não bộ chàng trai sang não bộ cô gái. Nếu cô gái cũng có cảm tình với chàng, họ lập tức phải lòng nhau. Trường hợp này ta gọi là cú sét ái tình (coup de foudre).

 

 5./ Câu chuyện về vị thiền sư và hai chậu hoa. Một vị thiền sư tu thiền. Ông dùng phương pháp “rải tâm từ”. Muốn xác định năng lực của tâm từ bi, ông tự thân làm thí nghiệm như sau: nơi hậu liêu chùa, thiền sư trồng hai chậu hoa cùng một loại. Khi mới đem về trồng hai chậu hoa tươi tốt ngang nhau.

 Tuy nhiên sau đó, hàng ngày chăm sóc hoa, ông dụng tâm vào việc chăm sóc hai chậu hoa hai cách khác nhau. Một chậu, trong khi vừa chăm sóc, bón xới, tưới nước, tỉa cành ông vừa rải tâm từ, đầu nghĩ, miệng thì thầm: “Ôi, cây hoa thật là đẹp. Ta rất thương con, ta chăm sóc con và mong muốn con sẽ xanh tươi, trổ hoa tươi thắm.” Ngược lại, đối với cây hoa trong chậu kia, trong khi chăm sóc, ông khởi tâm dằn hắt, chê bai hoa xấu xí, cằn cỗi, không đẹp chút nào và vì thế ông mắng thầm nó là ông không thích nó.

 Sau một thời gian không lâu, hai chậu hoa dù được chăm bón giống nhau, nhưng cây hoa được yêu thương khen ngợi phát triển tốt tươi ra hoa thường xuyên hơn. Còn cây kia, phát triển èo uột, sắc lá bạc, ít hoa và thường mau héo rụng.

 Khi đã nhìn thấy kết quả, thiền sư khởi tâm sám hối, thương xót cây hoa bị ruồng rẫy. Ông đổi thái độ, chăm sóc nó với tâm từ ái giống như cây kia. Chỉ ít lâu sau, cây hoa “xấu” kia dần dần thay đổi sắc diện, trở nên tươi đẹp giống như cây kia.

 Điều này biểu hiện rất rõ nơi con người. Một cô gái sau khi lấy chồng, nếu được chồng và gia đình bên chồng yêu thương chiều chuộng, cô sống trong hạnh phúc, nhan sắc người ấy sẽ trở nên rực rỡ mà khi về nhà cha mẹ đẻ ai cũng dễ dàng nhận ra. Ngược lại, nếu phải sống trong sự đè nén, bực dọc khó chịu bên nhà chồng và gặp phải người chồng không yêu thương chiều chuộng, cô ta sẽ xuống sắc mà dù có điểm trang, khi về nhà ai cũng nhận thấy vẻ dáng không hạnh phúc của cô.

 Trong khoa thôi miên, hành giả đã rèn luyện sự tập trung tư tưởng, chú tâm vào một vật, rồi bằng ý nghĩ và sự tưởng tượng để điều khiển đối tượng. Khi thành công, người thôi miên có thể dùng tâm tác động lên tâm người khác, làm cho người ta ngủ hay sai khiến người khác làm theo lệnh mình.

 Đôi khi thế giới xuất hiện một số người có khả năng đặc biệt. Có người có thể nhìn chăm chú vào một cái muỗng, khiến nó cong lại. Có người nhìn và làm bể một chiếc ly thủy tinh hay làm một vật bốc cháy. Đó là những công năng đặc biệt phi vật chấtxuất phát từ tâm (ý nghĩ). Đó là thứ năng lượng tâm khoa học chưa biết rõ hay kiểm soát được.

 Ngày nay, trong quân đội của các nước tiên tiến như Mỹ, Nga, Trung cộng… người ta đang có tham vọng nghiên cứu môn thần giao cách cảm (télépathy) để áp dụng trong ngành truyển tin; liên lạc giữa các vị chỉ huy cao cấp và các điệp viên với trung tâm điều khiển. Người ta dùng phương pháp “tâm truyền tâm” để liên lạc với nhau, không qua máy móc phát sóng vô tuyến khiến đối phương không thể rà bắt được tần số. Tham vọng đó còn lâu mới có thể thành hiện thực, nhưng không phải là bất khả. Cách đây vài thế kỷ, cách xa nhau hàng vạn dăm mà vẫn nghe được tiếng, thấy được hình nhau là chuyện chỉ có trong cổ tích. Bay lượn trên trời như chim chỉ có Tôn Hành Giả và các vị tiên làm được. Ngày nay đằng vân giá võ là chuyện thường, ai cũng làm được.

 Trong lãnh vực khoa học viễn tưởng, người ta đã nghĩ đến một thứ vận tốc tức thời (instant speed) chế ra các phi thuyền chạy bằng năng lượng tâm để thám hiểm vũ trụ. Đối với các thiên thể ở cách trái đất hàng trăm ngàn năm ánh sáng nếu chỉ bay bằng các phi thuyền dùng năng lượng khí lỏng như hiện nay, con người sẽ chỉ loanh quanh trong thái dương hệ là cùng. Cho dù có bay bằng năng lượng nguyên tử cũng vậy thôi.

 Bằng các phương tiện vật chất con người sẽ bị giới hạn bởi rất nhiều định luật vật lý của vũ trụ. Nhưng bằng năng lượng tâm con người sẽ trở nên tự tại trong không gianthời gian. Các vị Phật đã chứng ngộ bằng con đường tâm linh đã đạt được điều đó.

 Với khoa học, con người hiện nay đã đạt được một số thần thông: thiên lý nhãn, thiên lý nhĩ, đằng vân và đang nuôi tham vọng bất tử qua các kỹ thuật sinh học, nhân giống vô tính v.v…

 Tuy nhiên ngày nào nhân loại còn phải bám víu vào khoa học vật lý ngày ấy con người vẫn phải bị chi phốihạn chế bởi các định luật vật lý. Chỉ qua hai con đường: tâm linh hoặc kết hợp được sức mạnh tâm linhvật chất con người mới có thể vượt qua được các giới hạn hiện nay.

 Phải chăng các giống người ngoài hành tinh (alien) họ chính là những “người trời” sau khi đã tiến hóa rất xa về khoa học, nhưng họ vẫn còn ở tầng trời hữu sắc. Đối với các tầng trời vô sắc, còn phải vượt qua một ngưỡng nữa để tâm có thể tồn tại như một năng lượng độc lập mà không cần phải tựa trên một thân xác vật lý.

 Hiển nhiên đấy là một tương lai còn rất xa của nhân loại. Tuy nhiên biết đâu đấy vẫn có thể là sự thật, một sự thật không thể nghĩ bàn, ít ra là với trí thông minh hiện nay của con người?

 

 THÀNH VĂN

 Oct., 2012 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3533)
Con người bình thường, khỏe mạnh là một thể thống nhất hài hòa giữa hai yếu tố thân và tâm hay thể xác và tinh thần.
(Xem: 4055)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
(Xem: 5248)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
(Xem: 2693)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6175)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 3091)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3145)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3359)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3280)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3347)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4608)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2762)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5269)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3952)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3893)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3251)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4195)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 5100)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3571)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6800)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 4009)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3252)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3136)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2994)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5908)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4677)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3529)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2924)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3348)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4455)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5775)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6687)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3769)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4585)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4657)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 4015)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3445)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4701)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 6116)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5887)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3683)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4728)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4497)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4565)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4302)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4633)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8265)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3963)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5760)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5258)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6904)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6251)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 6041)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5856)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6338)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6821)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 5016)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5605)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6435)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3831)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant