Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

05. Điều Giới Tránh Xa Uống Rượu Và Các Chất Say

01 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 7183)
05. Điều Giới Tránh Xa Uống Rượu Và Các Chất Say

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

Quyển III:
Hành Giới

PHẦN I: GIỚI CỦA NGƯỜI TẠI GIA


Ngũ Giới Là Thường Giới (Pañcasīla Niccasīla)

5- Điều Giới Tránh Xa Uống Rượu Và Các Chất Say

Surāmerayamajjappamādaṭṭhānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

* Nghĩa phân tích chữ:

─ Surāmerayamajjappamādaṭṭhānā = Surā + meraya + majja + pamāda + ṭhānā.

Surā: Rượu là nhân sinh bạo dạn, liều lĩnh,…

Meraya: Chất say làm cho ngất ngưởng, không biết tự chủ.

Majja: Say sưa, say mê, ngất ngưởng.

Pamāda: Sự dể duôi trong mọi thiện pháp.

Ṭhānā: Nhân sinh.

Veramaṇisikkhāpadaṃ = Veramaṇī + sikkhāpadaṃ

Veramaṇī: Tác ý tránh xa.

Sikkhāpadaṃ: Điều giới, giới.

Samādiyāmi: Con xin thọ trì.

Rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện pháp nói chung; cũng là nhân sinh sự bạo dạn, liều lĩnh dám tạo mọi ác nghiệp bằng thân, khẩu, ý.

* Nghĩa tổng hợp:

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa uống rượu và các chất say là nhân phát sinh sự dể duôi trong mọi thiện pháp.

Chi Pháp Phạm Điều Giới Uống Rượu Và Các Chất Say

Người phạm điều giới uống rượu và các chất say cần phải hợp đủ 4 chi pháp:

1- Rượu hoặc các chất say (surāmerayabhāvo).

2- Tâm muốn uống rượu hoặc các chất say (pivitukāmatā).

3- Cố gắng uống rượu hoặc các chất say (pivanaṃ).

4- Uống rượu hoặc các chất say qua khỏi cổ (maddanaṃ).

Nếu hội đầy đủ 4 chi pháp này, thì gọi là phạm điều giới uống rượu và các chất say. Nếu thiếu 1 trong 4 chi, thì không thể gọi là phạm điều giới uống rượu và các chất say.

Giảng Giải Về Sự Uống Rượu Và Các Chất Say

Surā: Rượu là một chất nước được làm bằng cơm gạo, trái cây, v.v…

Mỗi khi uống rượu vào say sưa, mất tự chủ, làm kích thích tâm tham, tâm sân, tâm si,… trở nên người hung hăng, bạo dạn, liều lĩnh,… không còn biết hổ thẹn tội lỗi, không còn biết ghê sợ tội lỗi, nên dám tạo mọi ác nghiệp bằng thân, khẩu, ý.

Rượu (surā) có 5 loại:

1- Rượu được làm từ gạo (gạo tẻ, gạo nếp,...).

2- Rượu được làm từ cơm như cơm rượu.

3- Rượu được làm từ các trái cây (trái nho, táo,...).

4- Rượu được làm từ bánh.

5- Rượu được làm từ các chất có men rượu.

Meraya: Chất say là một chất nước ngâm các thứ trái cây, hoa,… lâu ngày trở thành chất say.

Mỗi khi người uống chất say vào, cảm thấy say sưa ngất ngưởng không còn biết mình, không còn tự chủ, không biết hổ thẹn tội lỗi, không biết ghê sợ tội lỗi, nên tạo mọi ác nghiệp bằng thân, khẩu, ý.

Chất say (meraya) có 5 loại:

1- Chất say do ngâm các loại hoa,… lâu ngày.

2- Chất say do ngâm các loại trái cây,… lâu ngày.

3- Chất say do ngâm các trái nho lâu ngày.

4- Chất say do ngâm nước mía lâu ngày.

5- Chất say do ngâm các trái cây làm thuốc lâu ngày.

Ngoài ra, còn có các loại chất say khác rất nguy hiểm như ma túy, thuốc phiện, cần sa, thuốc lá, v.v… cũng là loại chất say, mà khi người nào dùng đến chúng lâu ngày trở thành bệnh nghiện, rất khó từ bỏ.

Majja: Làm cho say, có 2 loại:

1- Rượu và các chất say mà người uống vào làm cho say sưa, không còn biết tự chủ, trở nên người hung hăng, bạo dạn, liều lĩnh không biết hổ thẹn tội lỗi, không biết ghê sợ tội lỗi, dám làm mọi ác nghiệp bằng thân, khẩu, ý.

2- Thuốc phiện, ma túy, cần sa, thuốc lá, v.v… mà người dùng các chất say này thành thói quen, trở nên nghiện rồi khó từ bỏ.

Pamāda: Sự dể duôi quên mình trong mọi thiện pháp, chìm đắm trong mọi ác pháp.

* Ṭhāna: Nhân sinh, nguyên nhân.

Tổng hợp lại: Surāmerayamajjappamādaṭṭhānā: Rượu và các chất say… là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện pháp.

* Nghĩa tổng hợp: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa uống rượu và các chất say là nhân phát sinh sự dể duôi trong mọi thiện pháp.

4. Hạng Người Dùng Rượu

1- Dùng rượu trộn trong thuốc hoặc trong vật thực.

2- Dùng rượu làm thuốc trị bệnh.

3- Uống rượu để thưởng thức hương vị của rượu.

4- Uống rượu làm cho tâm trở nên bạo dạn, liều lĩnh, để tạo mọi ác nghiệp bằng thân, khẩu, ý.

Trong 4 trường hợp người dùng rượu này, hạng người nào phạm điều giới uống rượu và các chất say? Và có tội nhẹ - nặng như thế nào?

Trường hợp thứ nhất: Khi rượu được trộn trong thuốc để trị bệnh, hoặc trộn trong vật thực,… rượu hoàn toàn bị biến chất không còn mùi rượu, không có khả năng làm say nữa; nên người dùng thuốc ấy hoặc vật thực ấy không phạm điều giới uống rượu và các chất say, không có tội.

Trường hợp thứ hai: Dùng rượu trực tiếp hoặc pha lẫn với thuốc nước (còn có mùi rượu, có khả năng làm choáng váng chút đỉnh).

─ Nếu người dùng biết rõ thuốc nước có rượu, nhưng với mục đích trị bệnh, không phải muốn hưởng hương vị rượu, thì phạm điều giới uống rượu và các chất say, có tội rất nhẹ.

─ Nếu người dùng thuốc nước không biết rõ có rượu, chỉ dùng với mục đích trị bệnh mà thôi, thì không phạm điều giới uống rượu và các chất say, không có tội.

Trường hợp thứ ba: Người uống rượu để thưởng thức hương vị của rượu, rồi say túy lúy, hoàn toàn không còn biết gì nữa; người ấy đã phạm điều giới uống rượu và các chất say, vì say mê chìm đắm trong hương vị của rượu, nên có tội nặng.

Đức Phật dạy:

Này chư Tỳ khưu, người thường thường uống rượu và các chất say, uống nhiều rượu và các chất say, uống nhiều lần, ác nghiệp này có thể cho quả tái sinh trong cõi địa ngục, atula, ngạ quỷ, trong loài súc sinh. Tội nhẹ nhất của sự uống rượu và các chất say không cho quả tái sinh, nếu nhờ thiện nghiệp khác cho quả được tái sinh làm người, thì người ấy sẽ là người điên cuồng mất trí (ummattakasaṃvattiko)([7])”.

Trường hợp thứ tư: Uống rượu làm cho tâm trở nên bạo dạn, liều lĩnh dám tạo mọi ác nghiệp bằng thân, khẩu, ý.

Một người bình thường có tính nhút nhát, biết hổ thẹn tội lỗi, biết ghê sợ tội lỗi, không dám làm mọi tội ác. Nhưng một khi người ấy uống rượu và các chất say vào làm kích thích, không còn tự chủ, trở thành người hung hăng, bạo dạn, liều lĩnh dám làm mọi ác nghiệp như sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói năng chửi rủa gây gổ lung tung, v.v...

Người ấy phạm điều giới uống rượu và các chất say có tội nặng, nếu ác nghiệp này cho quả tái sinh, thì chắc chắn tái sinh trong cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh), chịu quả khổ do ác nghiệp mà mình đã tạo.

Tính Chất Của Sự Uống Rượu Và Các Chất Say

Phạm điều giới uống rượu và các chất say đối với người tại gia cư sĩ và đối với bậc xuất gia Tỳ khưu Sadi có tính chất nhẹ - nặng khác nhau.

* Đối với hàng tại gia cư sĩcận sự nam, cận sự nữ, sự uống rượu và các chất say là 1 giới cấm trong ngũ giới, bát giới, cửu giới…

Nếu người cận sự nam, cận sự nữ nào đã phạm điều giới uống rượu và các chất say, thì người cận sự nam, cận sự nữ ấy xem như bị đứt ngũ giới (đứt bát giới, đứt cửu giới). Người cận sự nam, cận sự nữ ấy cần phải xin thọ trì lại ngũ giới (hoặc bát giới, hoặc cửu giới) để cho mình là người có giới trở lại.

* Đối với vị Sadi, sự uống rượu và các chất say là 1 giới cấm trong thập giới Sadi. Nếu vị Sadi nào phạm điều giới uống rượu và các chất say, thì giới của vị Sadi ấy bị đứt đồng thời phạm hạnh Sadi, không còn là Sadi nữa. Dù hình thức thân bên ngoài còn mặc y, song nội dung tâm bên trong không còn phạm hạnh Sadi nữa.

Vị Sadi ấy biết mình bị đứt giới, hư phạm hạnh Sadi, vị ấy cần phải đến hầu vị Thầy tế độ, hoặc một vị Đại đức Tỳ khưu hiểu rõ giới luật, xin thọ phép quy y Tam Bảothọ trì Sadi thập giới trở lại. Sau khi thọ phép quy y Tam Bảo xong rồi, vị Sadi ấy được phục hồi lại phạm hạnh như trước.

* Đối với vị Tỳ khưu, sự uống rượu và các chất say là 1 giới cấm trong 227 điều giới bổn của Tỳ khưu. Nếu vị Tỳ khưu nào phạm điều giới uống rượu và các chất say, thì vị Tỳ khưu ấy phạm điều giới pācittiya (đối trị).

- Vị Tỳ khưu dù biết, hay không biết rượu và các chất say, khi uống vào khỏi cổ vẫn bị phạm điều giới pācittiya.

- Vị Tỳ khưu đã phạm điều giới ấy rồi cần phải tìm đến một vị Tỳ khưu khác không uống rượu và các chất say, để làm lễ xin sám hối theo nghi thức trong luật của Đức Phật đã chế định; sau khi sám hối xong, vị Tỳ khưu ấy có giới trở lại trong sạch như trước.

Một người uống rượu và các chất say đã trở thành thói quen nghiện rượu, nghiện thuốc phiện, nghiện thuốc lá, v.v… không dễ dàng từ bỏ; bởi vì, cảm thấy chưa biết no đủ, vẫn còn thèm khát mãi mãi.

Đức Phật dạy:

Có 3 điều không biết no đủ, vẫn thèm khát mãi mãi như sau:

Này chư Tỳ khưu, có 3 điều không biết no đủ, 3 điều ấy là gì?

─ Này chư Tỳ khưu, không biết no đủ trong sự nằm ngủ.

─ Này chư Tỳ khưu, không biết no đủ trong sự uống rượu và các chất say.

─ Này chư Tỳ khưu, không biết no đủ trong sự hành dâm.

Này chư Tỳ khưu, 3 điều này không biết no đủ”(1).

Thật ra, 3 điều này thường phát sinh do phiền não tham muốn, mà tâm tham là nhân sinh khổ cả trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai.

─ Nằm ngủ là một sự cần thiết để nghỉ ngơi do cơ thể mệt nhọc; nhưng người say mê trong giấc ngủ, ngủ nhiều, thì cũng dễ sinh bệnh.

Bậc thiện trí biết thức tỉnh tâm của mình, không để say mê trong giấc ngủ. Bậc thiện trí biết thì giờ ngủ nghỉ, biết thì giờ thức giấc, để làm những công việc có ích trong cuộc sống.

─ Sự uống rượu và các chất say là một thói hư tật xấu, do phiền não tham muốnnhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện pháp, say mê trong mọi ác pháp.

Bậc thiện trí có giới, có tác ý tránh xa sự uống rượu và các chất say, không dể duôi, tránh được các thứ bệnh phát sinh do rượu và các chất say.

Uống rượu và các chất say thuộc về ác nghiệp nào trong 10 ác nghiệp?

10 ác nghiệp được tạo bằng thân, khẩu, ý như sau:

Thân ác nghiệp hoặc gọi thân hành ác có 3 loại ác nghiệp:

─ Ác nghiệp sát sinh.

─ Ác nghiệp trộm cắp.

─ Ác nghiệp tà dâm.

Khẩu ác nghiệp hoặc gọi khẩu hành ác có 4 loại ác nghiệp:

─ Ác nghiệp nói dối.

─ Ác nghiệp nói lời chia rẽ.

─ Ác nghiệp nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc).

─ Ác nghiệp nói lời vô ích.

Ý ác nghiệp hoặc gọi ý hành ác có 3 loại ác nghiệp:

─ Ác nghiệp nghĩ tham lam của người khác.

─ Ác nghiệp nghĩ thù hận người khác.

─ Ác nghiệp nghĩ tà kiến, thấy sai chấp lầm.

Uống rượu và các chất say là 1 giới cấm trong ngũ giới, trong bát giới, trong cửu giới... mà trong 10 ác nghiệp này không có tên gọi 1 ác nghiệp riêng biệt như những ác nghiệp khác. Vì sao vậy?

Bởi vì xét về nghiệp, thì uống rượu và các chất say thuộc về ác nghiệp bất định, nên không có tên gọi 1 ác nghiệp riêng biệt. Ác nghiệp này tùy thuộc vào ác nghiệp nào mà nó liên quan, thì nó có tên gọi chung với ác nghiệp ấy.

Xét trong những trường hợp sau:

Trường hợp một người phạm điều giới uống rượu và các chất say, cốt chỉ để thưởng thức vị trần của rượu rồi say túy lúy, hoàn toàn không còn biết mình, nằm ngủ cho đến khi tỉnh say rượu. Vậy, người ấy đã tạo ác nghiệp nào?

Người phạm điều giới uống rượu hoặc các chất say, muốn thưởng thức ngũ trần đó là vị trần, hương trần của chất rượu hoặc chất say,…; cũng như người tạo ác nghiệp tà dâm muốn thưởng thức ngũ trần (kāmesumicchācāra) đó là xúc trần, hoặc xúc trầnvị trần của người khác phái.

Như vậy, phạm điều giới tà dâm có đối tượng xúc trần, hoặc xúc trầnvị trần trong ngũ trần, còn phạm điều giới uống rượu và các chất say cũng có đối tượng vị trần, hương trần trong ngũ trần. Do đó, hai giới này có đối tượng tương tự như nhau. Cho nên, người phạm điều giới uống rượu và các chất say được ghép chung vào ác nghiệp tà dâm.

Trường hợp một người vốn có tính nhút nhát, biết hổ thẹn tội lỗi, biết ghê sợ tội lỗi, không dám làm mọi ác nghiệp. Khi người ấy phạm điều giới uống rượu hoặc các chất say; chất rượu hoặc chất say kích thích tâm tham, sân, si, người ấy trở nên người hung hăng, bạo dạn, liều lĩnh không còn biết hổ thẹn tội lỗi, không còn biết ghê sợ tội lỗi, dám tạo 10 ác nghiệp.

Người phạm điều giới uống rượu và các chất say, rồi say sưa không còn biết hổ thẹn tội lỗi, không còn biết ghê sợ tội lỗi, dám tạo ác nghiệp nào, thì người phạm điều giới uống rượu và các chất say được ghép chung vào ác nghiệp ấy.

- Nếu như người phạm điều giới uống rượu và các chất say, rồi tạo ác nghiệp sát sinh, thì phạm điều giới uống rượu và các chất say được ghép chung vào ác nghiệp sát sinh.

- Tương tự như vậy, nếu người phạm điều giới uống rượu và các chất say, rồi tạo ác nghiệp trộm cắp, thì phạm điều giới uống rượu và các chất say được ghép chung vào ác nghiệp trộm cắp.

- Nếu người phạm điều giới uống rượu và các chất say, rồi tạo ác nghiệp tà dâm, thì phạm điều giới uống rượu và các chất say được ghép chung vào ác nghiệp tà dâm.

- Nếu người phạm điều giới uống rượu và các chất say, rồi tạo ác nghiệp nói dối, thì phạm điều giới uống rượu và các chất say được ghép chung vào ác nghiệp nói dối.

- Nếu người phạm điều giới uống rượu và các chất say, rồi tạo ác nghiệp nói lời chia rẽ, thì phạm điều giới uống rượu và các chất say được ghép chung vào ác nghiệp nói lời chia rẽ.

- Nếu người phạm điều giới uống rượu và các chất say, rồi tạo ác nghiệp nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc), thì phạm điều giới uống rượu và các chất say được ghép chung vào ác nghiệp nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc).

- Nếu người phạm điều giới uống rượu và các chất say, rồi tạo ác nghiệp nói lời vô ích, thì phạm điều giới uống rượu và các chất say được ghép chung vào ác nghiệp nói lời vô ích.

- Nếu người phạm điều giới uống rượu và các chất say, rồi tâm nghĩ tham lam của cải của người khác, thì phạm điều giới uống rượu và các chất say được ghép chung vào ác nghiệp tham lam của cải của người khác.

- Nếu người phạm điều giới uống rượu và các chất say, rồi tâm nghĩ thù oán người khác, thì phạm điều giới uống rượu và các chất say được ghép chung vào ác nghiệp thù oán người khác.

- Nếu người phạm điều giới uống rượu và các chất say, rồi phát sinh tà kiến thấy sai chấp lầm, thì phạm điều giới uống rượu và các chất say được ghép chung vào ác nghiệp tà kiến thấy sai chấp lầm.

Do đó, uống rượu và các chất say là nhân tạo nên 10 ác nghiệp. Cho nên, uống rượu và các chất say thuộc về ác nghiệp bất định, nên không chế định ra 1 ác nghiệp riêng biệt nào.

Thật vậy, Ngài Đại đức Ānanda (lớp người hậu sinh) biên soạn bộ Mūlaṭīkā giải rằng:

Tassa sabhāgattena micchācāre, upakārakattena dasasu pi kammapathesu anuppaveso hoti”.

(Sự uống rượu này được ghép chung vào ác nghiệp tà dâm, bởi vì nó có đối tượng tương tự với tà dâm. Và sự uống rượu cũng được ghép chung vào trong 10 ác nghiệp, bởi vì nó là nhân tạo nên 10 ác nghiệp).

Tính Chất Nghiêm Trọng Của Người Phạm Điều Giới Uống Rượu Và Các Chất Say

Người đã phạm điều giới uống rượu và các chất say, có thể dám làm mọi tội ác nghiêm trọng:

Khi nào đã uống rượu, lên cơn say, thì người ấy không còn tự chủ, trở nên người hung hăng, tàn bạo, không còn biết hổ thẹn tội lỗi, không còn biết ghê sợ tội lỗi, dám làm mọi tội ác nghiêm trọng mà lúc tỉnh không dám làm.

Khi người nào thường dùng các chất say như thuốc phiện, ma túy,... trở thành bệnh nghiện nặng, đến khi người ấy lên cơn thèm khát các chất say ấy mà không có sẵn, khiến cho người ấy lên cơn điên loạn, dám làm mọi tội ác nghiêm trọng mà lúc tỉnh không dám làm.

Như vậy, phạm điều giới uống rượu và các chất say là nguyên nhân dẫn đến tạo mọi ác nghiệp nghiêm trọng, có nguy hại trong kiếp hiện tại và nhiều kiếp vị lai.

Trong Chú giải Suttanipāta, giải về tội lỗi của sự uống rượu và các chất say như sau:

Yasmā pana majjapāyī atthaṃ na jānāti, dhammaṃ na jānāti, mātupi antarāyaṃ karoti, pitupi Buddhapaccekabuddhatathāgatasāvakānampi antarayaṃ karoti, diṭṭhadhamme ca garahaṃ samparāye ca duggatiṃ aparāpariyāye ummādaṃ pāpuṇāti”.

(Người thường uống rượu và các chất say, không biết quả, không biết nhân, gây ra sự tai hại đến với sinh mạng của cha mẹ, Đức Phật, Đức Phật Độc Giác, các hàng đệ tử của Như Lai. Trong kiếp hiện tại, người uống rượu và các chất say thường bị chư thiện trí chê trách. Sau khi người ấy chết, ác nghiệp ấy cho quả tái sinh trong cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh), khi mãn quả của ác nghiệp trong cõi ác giới, do nhờ thiện nghiệp khác cho quả tái sinh làm người, người ấy sẽ là người mất trí, người điên cuồng).

 

Và Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa dạy về tội lỗi của sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện pháp, dám tạo mọi ác pháp, có tội lỗi lớn như sau:

“Apicettha surāmerayamajjappamādaṭṭhānameva mahāsāvajjaṃ na tathā pāṇātipātā-dayo, kasmā manussabhūtassapi ummattakabhavasaṃvattanena ariyadhammantarāya karaṇato”.

(Thật sự, trong ngũ giới ấy, phạm điều giới uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện pháp, có tội lỗi lớn hơn 4 giới còn lại là phạm điều giới sát sinh, phạm điều giới trộm cắp, phạm điều giới tà dâm, phạm điều giới nói dối; 4 giới này gây hậu quả ít nghiêm trọng hơn phạm điều giới uống rượu và các chất say. Bởi vì, phạm điều giới uống rượu và các chất say này còn là nhân làm cho người ấy có bệnh điên, mất trí, làm nguy hại cho sự chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả).

Thật vậy, trong ngũ giới, người phạm điều giới sát sinh như giết cha, giết mẹ, giết bậc Thánh Arahán,…, đã tạo ác nghiệp trọng tội (akusalagarukakamma) gọi là anantariya-kamma (ác nghiệp vô gián); sau khi người ấy chết, chắc chắn ác nghiệp ấy cho quả tái sinh trong cõi đại địa ngục Avīci, chịu quả khổ trong suốt thời gian lâu dài trong cõi đại địa ngục, cho đến khi mãn quả ác nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi địa ngục. Nếu có thiện nghiệp cho quả tái sinh làm người, thì người ấy có thể là người có trí tuệ sáng suốt, có khả năng thực hành thiền định, thực hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh QuảNiết Bàn được.

* Như trường hợp Đức vua Ajātasattu giết Phụ vương của ông là Đức vua Bimbisāra (bậc Thánh Nhập Lưu). Về sau, Đức vua Ajātasattu biết ăn năn hối lỗi, đến xin sám hối nơi Đức Phật; Đức vua có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, xin thọ phép quy y Tam Bảo, hết lòng hộ độ Tam Bảo. Sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn, Đức vua Ajātasattu là người hộ độ chư Đại đức Tăng trong kỳ kết tập Tam TạngChú giải lần thứ nhất, thời gian khoảng 3 tháng 4 ngày sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn.

Sau khi Đức vua Ajātasattu băng hà, do năng lực ác nghiệpgiết phụ vương” là ác nghiệp vô gián cho quả, thay vì phải tái sinh trong cõi đại địa ngục Avīci, thì chỉ bị tái sinh trong địa ngục Lohakumbhī chịu khổ suốt thời gian 60.000 (sáu mươi ngàn) năm thôi. Sau khi mãn quả ác nghiệp ấy, sẽ được thoát ra khỏi địa ngục, do thiện nghiệp cho quả tái sinh làm người trong thời kỳ không có Đức Phật Toàn Giácgiáo pháp của Ngài. Hậu thân của Đức vua Ajātasattu sẽ chứng đắc thành Đức Phật Độc Giác danh hiệu Đức Phật Độc Giác Vijitāvi. Đó là lời thọ ký của Đức Phật Gotama của chúng ta.

* Trong thời kỳ Đức Phật Gotama, có Ngài Đại đức Mahāmoggallāna là bậc Thánh Tối Thượng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật. Trong tiền kiếp xa xưa, Ngài đã từng nghe lời vợ, bày mưu đánh xe chở cha mẹ già đui mù đi vào khu rừng, Ngài xuống xe giả làm tên cướp đánh đập cha mẹ chết. Sau khi Ngài chết, do ác nghiệp vô gián giết cha mẹ ấy cho quả tái sinh trong cõi đại địa ngục Avīci, trong suốt thời gian lâu dài cho đến khi mãn quả ác nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi địa ngục.

* Trong thời kỳ Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, Ngài sinh vào trong dòng Bàlamôn có tên Kolita, xuất gia trở thành Tỳ khưu nơi Đức Phật, rồi chứng đắc thành bậc Thánh Arahán, trở thành bậc Thánh Tối Thượng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật Gotama, Ngài là Đại đức Mahāmoggallāna, có thần thông xuất chúng nhất trong hàng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật Gotama, v.v…

Những dẫn chứng trên để có được sự nhận thức rõ rằng: “Mặc dù ác nghiệp trọng tội như ác nghiệp giết cha, giết mẹ,… thuộc ác nghiệp vô gián chắc chắn phải tái sinh trong cõi đại địa ngục Avīci, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài cho đến khi mãn quả ác nghiệp ấy, mới thoát khỏi địa ngục. Thế mà, sau khi thoát khỏi địa ngục, do nhờ thiện nghiệp khác cho quả tái sinh làm người, người ấy vẫn có cơ hội thực hành thiền định, thực hành thiền tuệ dẫn đến chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh QuảNiết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán được. Còn như phạm điều giới uống rượu và các chất say; sau khi chết, nếu ác nghiệp này cho quả tái sinh trong cõi địa ngục, hoặc cõi atula hoặc cõi ngạ quỷ hoặc cõi súc sinh, chịu quả khổ của ác nghiệp ấy suốt thời gian lâu hoặc mau, cho đến khi mãn quả ác nghiệp mới mong thoát khỏi cõi ác giới ấy. Sau khi thoát khỏi cõi ác giới rồi, do thiện nghiệp khác cho quả nếu được tái sinh làm người, người ấy sẽ là người có bệnh điên cuồng, mất trí, không có khả năng thực hành thiền định, thực hành thiền tuệ, không dẫn đến chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn”.

Sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện pháp, dám tạo mọi ác pháp, đem lại cho người say những hậu quả nguy hại vô cùng khủng khiếp cả trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai.

Những bậc thiện trí từ ngàn xưa đã chế định ngũ giớithường giới (niccasīla) của con người, mọi người cần phải giữ gìn ngũ giới cho được trong sạchtrọn vẹn. Trong ngũ giới có giới tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi, mà Đức Phật cũng công nhận điều ấy, và Ngài truyền dạy những người cận sự nam, cận sự nữ phải giữ gìn ngũ giới cho được trong sạchtrọn vẹn, không để cho giới bị đứt, giới bị thủng, giới bị đốm, giới bị đứt lan.

Đức Phật đã thuyết dạy 5 điều tai hại của sự phạm điều giới, và 5 quả báu tốt lành của sự giữ gìn giới trong sạchtrọn vẹn.

Như vậy, sự uống rượu và các chất say đem lại cho người say những hậu quả nguy hại vô cùng kinh khủng; nhưng một số người có tính dể duôi xem thường, xem sự uống rượu và các chất say là thú tiêu khiển; cũng có một số người biết rượu và các chất say có hại cho sức khỏe, sinh nhiều bệnh tật khó chữa, một số người này đã trở thành nghiện rượu, nghiện thuốc phiện, nghiện ma túy, nghiện thuốc lá, v.v… trở thành người yếu đuối, không còn khả năng từ bỏ rượu, thuốc phiện, thuốc lá, v.v… tự làm khổ mình, làm khổ người thân của mình…

Tội Lỗi Từ Say Rượu

Đức Phật đang ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh thành Sāvatthi, khi ấy, Đức Phật thuyết về tích tiền thân của Ngài là Đức Bồ Tát Dhammadhaja([8]) có một đoạn giảng giải về tội lỗi phát sinh từ say rượu, được tóm lược như sau:

Đức Bồ Tát Dhammadhaja là quan cận thần của Đức vua Yasapānī, có một người bạn thân tên Chattapānī. Chattapānī là người thợ cắt tóc, sửa râu của Đức vua. Ông có bản tính tự nhiên do lời chân thật phát nguyện không bao giờ uống rượu trong suốt mỗi kiếp cho đến khi chứng đắc thành bậc Thánh Arahán. Bởi vì, ông nhận thức thấy rõ tội lỗi phát sinh từ uống rượu, say rượu…

Một hôm, người thợ cắt tóc Chattapānī tâu lên Đức vua Yasapānī rằng:

─ Muôn tâu Đại vương, trong tiền kiếp kẻ hạ thần đã từng ăn thịt con bởi vì say rượu. Sau khi tỉnh say rượu, kẻ hạ thần vô cùng sầu não, khổ tâm cùng cực, vì thương nhớ đến đứa con yêu quý nhất. Rồi từ kiếp đó, hạ thần đã phát nguyện trong suốt mỗi kiếp không bao giờ uống rượu nữa.

Người thợ cắt tóc thuật lại câu chuyện xảy ra rằng:

─ Muôn tâu Đại vương, tiền kiếp của hạ thần cũng làm vua trị vì xứ Bārānasi, khi hạ thần là Đức vua, hằng ngày không thể thiếu món rượu, và trong mỗi bửa ăn không thể thiếu món thịt. Trong kinh thành Bārānasi thời ấy, vào ngày giới hằng tháng, người ta không sát sinh; cho nên người đầu bếp phải mua thêm thịt vào trước ngày giới, để dành phần cho ngày hôm sau. Do sơ suất, ông cất giữ món thịt ấy không cẩn thận, nên bị con chó ăn mất hết.

Sáng hôm ấy, nhằm vào ngày giới, người đầu bếp đi tìm mua thịt khắp nơi, mà không có món thịt nào cả. Ông cố gắng làm những món ăn thơm tho ngon lành xong, mà chưa dám đem đến dâng Đức vua đang ở trên lâu đài. Ông vào tâu với bà chánh cung Hoàng hậu rằng:

─ Tâu Hoàng hậu, hôm nay, kẻ hạ thần đi tìm mua thịt khắp nơi mà không có thịt. Bữa ăn này không có món thịt, nên kẻ hạ thần chưa dám dâng lên Đức vua. Bây giờ, kẻ hạ thần phải làm thế nào? Thưa bà.

─ Này ngươi, Hoàng tử của ta được Đức vua thương yêu quý mến nhất, khi Đức vua đang thương yêu, âu yếm ôm Hoàng tử vào lòng, chắc Người không còn quan tâm đến bữa ăn có món thịt hay không.

Bà chánh cung Hoàng hậu trang điểm cho Hoàng tử thật đáng yêu, rồi bồng Hoàng tử đặt ngồi trên vế của Đức vua. Đức vua say mê vui đùa với Hoàng tử. Khi ấy, người đầu bếp mang vật thực vào dâng lên Đức vua. Khi đang say rượu, Đức vua nhìn trong mâm thức ăn không thấy món thịt, bèn phán rằng:

─ Tại sao hôm nay không có món thịt?

Người đầu bếp hoảng sợ tâu rằng:

─ Muôn tâu Bệ hạ, hôm nay là ngày giới, nên kẻ hạ thần đi tìm khắp nơi, mà vẫn không mua được thịt.

Đức vua đang trong lúc say ngất ngưởng phán rằng:

─ Tìm thịt làm món ăn cho Trẫm, khó như vậy sao?

Đức vua bèn nắm đầu Hoàng tử vặn cổ chết tươi, rồi ném xuống trước mặt người đầu bếp, mà phán tiếp rằng:

─ Ngươi hãy mau đem đi làm món ăn cho ta!

Người đầu bếp tuân theo lệnh của Đức vua, làm món ăn bằng thịt của Hoàng tử, rồi đem lên dâng Đức vua dùng trong bữa ăn tối hôm ấy.

Chánh cung Hoàng hậu và tất cả những người hầu chẳng có một ai dám khóc than, phản đối gì cả, vì họ rất sợ Đức vua.

Đức vua dùng bữa ăn tối xong, nằm ngủ cho đến sáng ngày hôm sau mới thức dậy. Đã tỉnh cơn say, Đức vua truyền lệnh rằng:

─ Hãy bồng Hoàng tử yêu quý của ta đến đây!

Bà chánh cung Hoàng hậu đến chầu, cúi lạy dưới chân Đức vua mà than khóc.

Đức vua bèn truyền hỏi rằng:

─ Ái khanh khóc vì chuyện gì? Tại sao lại không bồng Hoàng tử yêu quý của ta đến đây?

Chánh cung Hoàng hậu bạch thưa rằng:

─ Tâu Hoàng thượng, chiều hôm qua Hoàng thượng đã vặn cổ Hoàng tử chết tươi, rồi trao cho người đầu bếp bảo làm món ăn cho Hoàng thượng. Hoàng thượng đã dùng bữa ăn với món thịt của Hoàng tử từ tối hôm qua rồi.

Lắng nghe chánh cung Hoàng hậu tâu như vậy, Đức vua cảm thấy vô cùng đau xót sầu não, vì vô cùng thương tiếc Hoàng tử yêu quý. Khi đã nhận thứctội lỗi lớn lao phát sinh ra từ việc uống rượu, say rượu, Đức vua bèn chắp chặt đôi tay đưa lên trán, rồi phát nguyện rằng:

Kể từ kiếp này về sau, và những kiếp sau kế tiếp cho đến kiếp chót trở thành bậc Thánh Arahán, ta nguyện sẽ không bao giờ uống rượu nữa, để không còn thấy cảnh tự làm khổ mình và làm khổ những người thân yêu của ta nữa”.

Thật vậy, kể từ đó cho đến trọn kiếp và trải qua vô số kiếp tử sinh luân hồi, kiếp nào hạ thần cũng không bao giờ uống một chút rượu nào cả.

(Một đoạn trích trong tiền kiếp Đức Bồ Tát Dhammadhaja)



[1] Saṃyuttanikāya, Saḷāyatanavagga, kinh Channasutta. (Ngài Đại đức Channa trùng tên với Tỳ khưu Channa, vốn là vị quan đánh ngựa đưa Đức Bồ Tát Siddhattha đi xuất gia).

[2] M.Mūlapaṃṇāsa, kinh Vatthasutta.

[3] Đức vua trời Sakka đã là bậc Thánh Nhập Lưu trong thời kỳ Đức Phật đang còn tại thế.

[4] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā chuyện Mallikādevīvatthu.

[5] Bộ Jātaka tích Pañcavudhajātaka.

[6] Bộ Jātaka tích Saṅsumārajātaka.

[7] Bộ Aṅguttaranikāya.

[1] Bộ Aṅguttaranikāya, Tikanipāta, kinh Atittasutta.

[8] Bộ Jātaka, phần Dukanipāta, tích Dhammadhajajātaka.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3835)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5487)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10566)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 6119)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
(Xem: 9387)
Bốn cấp độ thiền định hay tứ thiền là bốn mức thiền khi hành giả thực hành thiền có thể đạt được.
(Xem: 6450)
Một bào thai sở dĩ có mặt trên cuộc đời này ngoài yếu tố chính là do cha mẹ sinh ra, còn là kết quả của một tiến trình không đơn giản.
(Xem: 6009)
Đạo Phật là nguồn sống và lẽ sống của con người, là cương lĩnh cho nhân thế. Với sứ mạng thiêng liêng cao đẹp ấy, đạo Phật không xa lìa thực thể khổ đau của con người.
(Xem: 7519)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc
(Xem: 7345)
Người ta thường nói đạo Phật là đạo của từ bitrí tuệ. Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu khôngtừ bi thì không có đạo Phật.
(Xem: 5230)
Các nhà khảo cổ đang nghiên cứu tại Nepal đã phát hiện bằng chứng về một kiến trúc tại nơi sinh ra Đức Phật có niên đại thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
(Xem: 8133)
Theo Đức Phật, tất cả những vật hiện hữu đều biến chuyển không ngừng. Sự biến chuyển này thì vô thuỷ vô chung. Nguồn gốc của vũ trụ không do một Đấng Sáng tạo (Creator God) tạo ra.
(Xem: 5945)
Đức Phật đản sanh vào năm 624 trước Công nguyên. Theo lý giải của Phật Giáo Nam Tông thì Đức Phật sanh ngày Rằm tháng Tư Âm lịch.
(Xem: 9669)
Nếu bạn say mê đọc kinh Phật, ưa thích những phân tích kỹ càng về giáo điển, muốn tìm hiểu các chuyện xảy ra thời Đức Phật đi giảng dạy nơi này và nơi kia, hiển nhiên đây là một tác giả bạn không thể bỏ qua
(Xem: 7428)
Tánh Không là một trong những khái niệm quan trọng và khó thấu triệt nhất trong giáo lý Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 7473)
Nguyên bản: Meditating while dying; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 6268)
Ba Mươi Hai Cách ứng hiện của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Bởi vì Quan Thế Âm Bồ Tát đồng một Sức Từ với đức Phật Như Lai cho nên ngài ứng hiện ra 32 thân, vào các quốc độđộ thoát chúng sanh
(Xem: 5330)
Thể tánh của tâm là pháp giới thể tánh, bởi vì nếu không như vậy thì tâm không bao giờ có thể hiểu biết, chứng ngộ pháp giới thể tánh.
(Xem: 5890)
Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là một khái niệm thu hút nhiều sự quan tâm của học giới từ phương Tây cho đến phương Đông
(Xem: 5688)
Thuật ngữ pháp (dharma, có căn động tự là dhṛ có nghĩa là “duy trì, nắm giữ”; Pāli: dhamma; Tây Tạng: chos) mang nhiều ý nghĩa và ...
(Xem: 3977)
Trì danh là pháp tu Tịnh Độ phổ thông nhứt hiện nay. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, có Mười cách trì danh khác nhau
(Xem: 5728)
Phật dạy tất cả pháp hữu vi đều là vô thường sanh diệt không bền vững, như vậy thìthế gian cái gì có tạo tác có biến đổi đều là vô bền chắc.
(Xem: 4109)
Nguyên bản: Removing obstacles to a favorable death; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma; Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7558)
Mối liên hệ giữa hình thức sớm nhất của Phật giáo và những truyền thống khác mà chúng đã phát triển về sau là một vấn đề luôn tái diễn trong lịch sử tư tưởngPhật giáo.
(Xem: 5739)
Nghiệp và Luân hồi là hai ý niệm đã có trong Ấn độ giáo, được giảng giải trong các Kinh Veda và Upanishad vào khoảng 1500 năm trước CN.
(Xem: 21980)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 5665)
Mục tiêu cao cả của đạo Phật là dạy con người tu tập để thoát khổ, giác ngộgiải thoát.
(Xem: 7120)
Phật giáo du nhập Nhật Bản vào thế kỷ thứ VI, sau đó trải qua thời kì Nara (710~785), thời kì Heian (794~1192) cho đến thời kì Kamakura (1192~1380), trước sau khoảng 700 năm, rồi phát sinh rất nhiều tông phái.
(Xem: 5061)
Tổ Quy Sơn dặn: “Nói ra lời nào phải liên hệ với kinh điển. Đàm luận gì, phải xét lại lời người xưa”.
(Xem: 6470)
Nhiều học giả phân vân là làm thế nào và tại sao những nhà Đại chúng bộ (Mahāsāṅghika) đã hình thành nên khái niệm về một Đức Phật siêu việt...
(Xem: 5844)
Hoa Sen Diệu Phápgiáo pháp được thuyết giảng trong Kinh Pháp Hoa. Quang Trạch giải thích Diệu Pháp là nhân của đạo Nhất Thừa, là quả của đạo Nhất Thừa.
(Xem: 5030)
Con người sống qui tụ lại thành một xã hội, và phát triển tập thể này rộng lớn dần dần thành một quốc gia.
(Xem: 7078)
Trước khi xác định Phật Giáo như là một hệ thống tư tưởng triết học (Buddhism as a philosophy) hay như là một tôn giáo (Buddhism as a religion), chúng ta sẽ tìm hiểu triết học là gì ? và Phật giáo là gì ?
(Xem: 6068)
Lục độ Ba-la-mật-đa/ Sáu phương pháp tu Ba-la-mật-đa (Six Paramitas) là 6 pháp tu để giải trừ các khổ ách của Đại thừa Phật giáo.
(Xem: 5597)
Theo quan điểm của Đại hoàn thiện thì ánh sáng trong suốt hiển hiện một cách tự nhiên và được gọi là "hoàn-toàn-tốt"
(Xem: 5915)
Đức Phật ra đời vào năm 624 trước tây lịch tại nước Ấn Độ. Ngài thuyết pháp 49 năm. Phật giáo đã trở thành quốc giáo, vì các vua, các quan và dân chúng đa phần đều theo đạo Phật.
(Xem: 6038)
Y Kinh Kinh Cang Bát Nhã Ba La Mật: Đức Thế Tôn Như Lai hỏi ngài Tu Bồ Đề: Như Lainhục nhãn không? Ngài Tu Bồ Đề thưa:
(Xem: 6867)
Cuốn sách “Luân Hồi trong Lăng Kính Lăng Nghiêm” được ra mắt cách đây 9 năm (2008), in lần thứ hai, ba và tư vào năm 2012, 2014 & 2016 tại Nhà xuất bản Phương Đông, và năm nay (2018) cũng tại NXB Hồng Đức
(Xem: 6454)
điều chắc chắn là làm người, ai cũng có ý thức về tội lỗi. Điều này là không đúng, điều này là không tốt, điều này là không đẹp.
(Xem: 6103)
Tựa đề của khảo luận này phát xuất từ tồn nghi của một pháp hữu trong khi dịch lại bản kinh Tập (Sutta Nipāta) ở văn hệ Nikāya.
(Xem: 6534)
Khái niệm ‘nghiệp’, thật ra, đã có mặt trong văn học Bà-la-môn giáo từ rất lâu trước khi Đức Phật xuất hiện ở đời.
(Xem: 6212)
Vũ trụ, con người hình thành như thế nào và tương lai sẽ ra sao? Câu hỏi chưa bao giờ được xếp lại. Khoa học lượng tử luôn tiên phong...
(Xem: 6412)
rong lịch sử tư tưởng Ấn-độ, thuyết Trung đạo đã mang lại cho tư tưởng giới đương thời một không khí hoạt bát[1].
(Xem: 5634)
Bản chất của ánh sáng trong suốt, mang tính cách nền tảng và rạng ngời, là cội nguồn tối hậu của tất cả mọi cấp bậc tri thức...
(Xem: 6938)
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳthời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp.
(Xem: 4579)
Ông trị vì từ năm 269 TCN đến năm 232 TCN thuộc đời thứ 3 của triều đại Maurya. Đế chế của ông rộng lớn gần như tất cả tiểu lục địa Ấn Độ trãi dài từ Đông sang Tây.
(Xem: 7817)
Trong Kinh Kim Cang, Phật dạy có 4 tướng: “Ngã – Nhân – Chúng Sanh – Thọ Giả”. Khi còn phàm phu, chấp thân này là thật là bền vững,
(Xem: 6072)
Đạo Phật đang phát triển rộng rãi đến nhiều tầng lớp. Rất nhiều các bậc tri thức, các nhà khoa học chân chính, đến cả những người ...
(Xem: 7324)
Kiếp sống của mỗi con người sinh ra ở thế giới Ta Bà này, dù thọ mạngdài hay ngắn, nhìn chung có thể phân chia làm nhiều giai đoạn.
(Xem: 7755)
Kể từ thời điểm Phật giáo khai sinh và nở hoa khắp mọi miềnthế giới, hễ mỗi khi nói đến hình ảnh một vị Phật xuất hiện trong tương lai,
(Xem: 5529)
Phép luyện tập thiền định được hỗ trợ bởi sự thực thi các hành động vị tha, các hành động đó đồng thời cũng được thúc đẩy bởi tình thương yêu và lòng từ bi.
(Xem: 5167)
Nếu đủ sức duy trì một cách đúng đắn sự nhận biết tâm thức thần bí nhất thì kết quả mang lại từ phép luyện tập đó sẽ trợ lực các bạn rất nhiều
(Xem: 5710)
Thời-không vũ trụ chứa hàng triệu, tỉ, hàng ức cho đến không máy móc nào đếm hằng hà sa số hành tinh như trái đất mới biết con ngườimột sinh thể gần như bằng không.
(Xem: 5561)
Trong các bài kinh thuộc hệ A Hàm hay kinh Đại Bát Niết Bàn v.v… Phật có nói đến địa ngục. Đề Bà Đạt Đa, Tì kheo Thiện Tinh, vua Lưu Ly v.v… đều đọa vào địa ngục ngay khi chết.
(Xem: 5542)
Xét về niên đại, bản kinh có mặt ở thời Hậu Hán (23-220), xuất hiện trong Cao Tăng Truyện quahành trạng của ngài Nhiếp-ma-đằng (攝摩騰)[2].
(Xem: 5041)
Thể dạng lắng sâu thường xuyên bên trong tâm thức thần bí nhất chỉ có thể thực hiện được với những người có một khả năng thật bén nhạy.
(Xem: 4306)
Bài viết này sẽ khảo sát một số thắc mắc thường gặp về Thiền Tông, hy vọng sẽ tiện dụng cho một số độc giả còn nhiều nghi vấn.
(Xem: 6094)
Thức Thứ Tám hay A Lại Ya là thức chủ trong 8 thức. Thức nầy có nhiều cách gọi khác nhau để chỉ về nhiệm vụ của mình. Tựu chung thức nầy có 3 việc chính là: Năng tàng, Sở tàng và Ngã ái chấp tàng.
(Xem: 5653)
Khi còn vướng mắc trong sự tạo tác triền miên của khái niệm, chẳng hạn như suy nghĩ về cái đúng, cái sai, v.v. , thì các bạn sẽ không thể nào bước vào con đường tu tập về
(Xem: 6306)
Học phái dịch thuật xưa của Phật giáo Tây Tạng đưa ra nhiều cách luyện tập dựa vào các phương pháp khác biệt nhau, gọi là các "cỗ xe"/thừa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant