Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trung quán tông và ánh sáng tâm linh

22 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 12128)
Trung quán tông và ánh sáng tâm linh

TRUNG QUÁN TÔNG và ÁNH SÁNG TÂM LINH

Huỳnh Ngọc Chiến

Trong phần mở đầu chương 3 của tác phẩm The Grand Design (Bản thiết kế vĩ đại), nhà vật lý thiên tài Hawking đã nêu lên một vấn đề lý thú. Cách đây mấy năm, hội đồng thành phố Monza ở Italy đã cấm không cho những người thích nuôi vật cưng được nuôi giữ cá vàng trong những cái bể nước kính cong. Họ lý giải rằng điều đó thật là tàn nhẫn, vì nếu như thế, khi nhìn ra ngoài, con cá sẽ có cái nhìn sai lệch về thực tại. Thế rồi tác giả đặt câu hỏi: “Nhưng làm thế nào chúng ta biết được rằng chúng ta đã có bức tranh chân thực, không hề sai lệch về thực tại?”(2). Câu hỏi đó là nỗi băn khoăn muôn thuở của con người.

Liệu cái thế giớichúng ta đang nhìn thấy đây phải chăng là cái thế giới y như thực? Đâu là khuôn mặt thực của thế giới? Đâu là chân tướng của vạn hữu? Bản nguyên của vũ trụ là Tâm hay Vật? Vấn đề này đã kéo theo cuộc tranh luận dài cả nghìn năm giữa các trường phái triết học, khi con người bắt đầu khai mở tâm thức để đối diện với thế giới chung quanh.

Tìm hiểu được chân diện mục của thế giới vẫn là nỗ lực không ngừng của con người. Suốt mấy ngàn năm qua, hàng trăm tông phái, học thuyết nối tiếp nhau ra đời trên khắp cõi Đông Tây kim cổ, với hàng ngàn các triết gia luôn khẳng định một bức tranh do mình đưa ra là hình ảnh chân thực duy nhất về thế giới. Và có bao nhiêu bức tranh “chân thực” là có bấy nhiêu sự xung độtmâu thuẫn giữa chúng! Sự xung đột giữa các kiến giải bất đồng về bức tranh thế giới vẫn kéo dài liên miên suốt mấy ngàn năm qua trong lịch sử tư tưởng nhân loại.

Giống như loài cá vàng nhìn thế giới qua tấm kính cong và “xác lập” nên những quy luật vận động phù hợp với thế giới đó; cũng vậy, con người đã dùng biết bao mô thức tư duy (thought-pattern) để cố xác lập chân diện mục của thực tướng theo cách nhìn của mình; áp đặt mọi thứ phạm trù Nhân và Quả, Động và Tĩnh, Dạng thức và Bản thể, Đồng và Dị, Nhất và Đa v.v... lên Thực tướng khiến Thực tướng đã bị che mờ dưới mạng lưới lạnh lùng của tư duy.

Mọi con đường của lý tính đều dẫn đến bế tắc, khi cố vươn đến chân diện mục của Thực tướng, do chính bản chất xung đột của lý tính (conflict of Reason). Hai bài toán “ngụy biện” đơn giản của Zeno(3) vẫn lơ lửng ở đấy như một thách thức điển hình cho mọi hệ thống lý luận của con người, để con người tỉnh ngộ hiểu ra rằng những mô thức tư duy mà mình áp đặt lên thực tại đều sai lệch, vì cứ muốn dùng Tục đế (savti) để thể ngộ Chân đế (parāmartha) bằng phương pháp suy diễn theo kiểu lý luận học phương Tây.

Khi nào con người chưa liễu ngộ được bản chất xung đột của lý tính, vẫn còn hoang tưởng rằng có thể dùng lý luận để phát lộ “chân diện mục của Lô sơn” thì Achille vẫn suốt đời không đuổi kịp chú rùa, và mũi tên vĩnh viễn không bao giờ bay đến đích, vì giữa lý tínhthực tướng có một hố thẳm không thể vượt qua, khi ta áp đặt nó thành một cấu trúc tư duy (Thought-Construction) được hình thành do tác động của Vô minh.

Cùng với sự chiến thắng vượt trội không thể chối cãi của nền khoa học kỹ nghệ Âu châu trên phạm vi toàn cầu, nếp suy tư theo kiểu phương Tây hầu như đã chi phối toàn bộ não trạng của chúng ta, hầu như đã giam hãm toàn thế giới trong mạng lưới tư duy duy lý, khiến không ít bậc thức giả hầu như tin tuyệt đối vào sự thống trị của lý trí Âu châu một cách hoàn toàn mù quáng. Đó là hiểm họa mà triết gia Heidegger đã cảnh báo là “tiến trình Âu hóa con người và trái đất đã gây tổn hại đến những điều tinh yếu ở tận cội nguồn” đang diễn ra trên toàn cõi địa cầu(4).

Triết học Ðông phương, đặc biệtPhật giáo, vẫn thường tỏ ra dè dặt với sự lãnh hội của lý tính. Người ta không tin rằng lý tính có thể thấu hiểu được mọi vấn đề bằng khả năng, phân tích tổng hợp hay tích lũy kiến thức của nó. Bởi vì điều đó chỉ đưa đến tổng số thay vì tổng hòa, nếu không có được một đầu mối nhất dĩ quán thấu suốt tất cả để thành Nhất thể viên dung.

Phản bác mọi phạm trù tư duy và tất cả các kiến giải không có nghĩa là phản bác chức năng của lý tính mà chỉ có nghĩa là phản bác năng lực của lý tính trong vấn đề liễu tri được Thực tướng. Cái Thực hữu [Real] vốn bất khả tư nghì, siêu việt cảnh giới của tư tưởng; nó là phi nhị nguyên, là Không (śūnya), siêu quá nhị nguyên tính đối đãi giữa Hữu và Vô.

Nhận thức được sự xung đột của lý tínhnỗ lực giải quyết xung đột đó bằng cách nâng nó lên một bình diện cao hơn lý tính, đó là lưỡi Tuyệt đao của Trung quán tông. Trung quán tông đi thẳng vào trọng tâm của vấn đề, tức sự xung đột của lý tính, theo kiểu đơn đao trực nhập, luận phá mọi mô thức khái niệm, xem chúng đều rỗng không (śūnya), và giới hạn chúng vào trong phạm vi tục đế.

Từ gần hai ngàn năm qua, kể từ khi xuất hiện trên đỉnh cao chót vót giữa phương trời tư tưởng lồng lộng của Ấn Độ, lưỡi Tuyệt đao của đại luận sư Nāgārjuna đã quét sạch những kiến giải hư ngụy trong não trạng loài người, gây nên một cơn chấn động vô tiền khoáng hậu trong toàn cõi đạo giáo phương Đông bằng tánh Không (Śūnyatā) gây kinh hãi. Tánh Không Trung quán tông phá hủy mọi lập trường, mọi kiến giải, quét sạch toàn bộ thế giới vật lýtâm lý với Lục căn, Lục trần, Lục thức, cho đến thuyết Tứ diệu đếThập nhị nhân duyên - nền tảng của tư tưởng Phật giáo - trong cơn cuồng phong phủ định toàn triệt của các chữ Bất, Phi, Vô; giống như Độc cô cửu kiếm dùng vô chiêu để tận phá mọi kiếm pháp hữu chiêu trong thiên hạ. Chiêu thức của Độc cô cửu kiếm là vô chiêu, không đánh theo một chiêu thức nào chỉ mà đánh vào chỗ sơ hở của kiếm pháp đối phương để phá giải; cũng giống như kiến giải của Trung quán tôngKhông chư kiến (śūnyatā of dṛṣṭi : 空 諸 見) tức xem mọi kiến giải đều là Không (śūnya); đó là kiến giải phi kiến giải, lập trường phi lập trường, quan điểm phi quan điểm. Trung quán tông, do đó, luận phá mọi kiến giải của đối phương bằng cách phát lộ cho đối phương thấy những yếu tố bất toàn tất yếu cùng sự mâu thuẫn xung đột nội tại trong mọi thể cách lập luận của họ, nhưng lại không hề đưa ra một kiến giải mới, vì kiến giải mới, nếu có, cũng là Không nốt; nếu khác đi thì kiến giải mới đó cũng sẽ chứa những yếu tố bất toàn tất yếu cùng sự mâu thuẫn xung đột nội tại, nên nó sẽ tiếp tục bị luận phá, rồi sự luận phá mới đó lại dẫn đến một kiến giải mới khác nữa; điều đó sẽ dẫn đến sự hồi quy vô tận [regress ad infinitum]. Đối với Trung quán tông, bản thân sự luận phá mọi kiến giải tự nó đã là một kiến giải, cũng như đường kiếm vô chiêu tự nó đã hình thành một chiêu thức. Đó là ý nghĩa của hai chữ “phê phán” (criticism) mà tác giả Murti dùng trong suốt tác phẩm, trong nỗ lực muốn dìu những độc giả quen thuộc với tư tưởngphê phán” của Kant và biện chứng pháp của Hegel, đặc biệt là Kant, tiếp cận được thông lộ dẫn về cội nguồn của Bát bất Trung đạo của Trung quán tông, đồng thời vạch ra những suy tư hời hợt của nhiều nhà nghiên cứu phương Tây khi đồng nhất triết học về Tánh Không của Trung quán tông với hư vô luận [nihilism] một cách thiển cận và hời hợt.

Trung quán tông luận phá mọi kiến giải về Thực tướng không phải để phủ nhận Thực tướng mà để đưa đến Prajña (trí tuệ Bát-nhã) hay Trực giác Vô nội dung [contentless Intuition]. Đó là Bất nhị trí hay Vô phân biệt trí. Nội dung của Trực giác Vô nội dung là Cảnh giới tuyệt đối hay Toàn thể thực tướng, chứ không phải là một đối tượng cụ thể bất kỳ nào. Khi mọi kiến giải theo mô thức tư duy bị quét sạch khỏi tâm trí, khi tâm không còn chướng ngại thì nó sẽ hoàn toàn trong suốt. Trong cảnh giới đó, Tâm và Thực tướng viên dung hòa hợp, bất khả phân ly trong Prajñāpāramitā (Bát-nhã Ba-la-mật) - một cảnh giới hoàn toàn tương phản với quan niệm hiện đại xem triết học là một khoa học phổ quát, dung hợp được nhiều ngành khoa học khác nhau vào một hệ thống mạch lạc.

Trong pháp môn Lục độ, Prajña (trí Bát-nhã) phải đi cùng với bố thí (dāna), trì giới (śīla), nhẫn nhục (kānti), tinh tấn (vīrya), thiền định (dhyāna) mới có thể giúp tâm thanh tịnh để thể ngộ chân lý. Rồi đến lượt đó, Prajña lại giúp cho các pāramitā kia được hoàn thiện, tựu thành vô lượng điều toàn mỹ, khiến cho mỗi pāramitā được là pāramitā - hay sự toàn mãn. Chỉ có Prajñāpāramitā (Bát-nhã Ba-la-mật) - tức một loại Chân trí bằng trực giác phi khái niệm - mới có thể là loại thuốc đối trị hữu hiệu mọi vọng tưởng phân biệt vọng tưởng (vikalpa) của lý trí con người.

Prajñāpāramitā là chỗ kết tinh của mọi lý luận trong thiên hạ, còn tánh Không làm tiêu dung tất cả các kiến giải cổ kim. Mô phỏng theo Ngọa Long Sinh(5) ta có thể nói “Trước Thiên kiếm Prajñāpāramitā, lý luận không còn tuyệt học; dưới Tuyệt đao Śūnyatā, kiến giải không có sinh cơ.”! Đẩy lý trí con người vào tuyệt lộ bằng pháp môn quy mậu chứng pháp (prasanga) hay phương pháp quy kết bội lý (reductio ad absurdum), đưa tất cả mọi biện giải đến chỗ bế tắc, buộc tất cả các luận sư uyên bác phải đối diện với sự sụp đổ tan tành của mọi hệ thống lý luận, của mọi nền triết học do những mâu thuẫn xung đột nội tại, để thấy được rằng mọi điện đài duy lý đồ sộ của họ đều là những công trình xây trên cát; đó là Tuyệt đao. Nhưng phủ định toàn triệt theo tinh thần Prajña là thể cách vi diệu để đưa đến sự khẳng định toàn triệt trong cảnh giới tự do tuyệt đối; trong cảnh giới thù thắng đó thì khẳng định là phủ định, và phủ định là khẳng định, để đưa tâm thức con người đến cảnh giới giải thoát tối hậu, đó là Thiên kiếm. Tuyệt đao thì phá hủy mọi kiến giải theo thể cách của Trí tuệ, còn Thiên kiếm thì từ bi hóa độ theo thể điệu của Bi tâm. Cả kiếm lẫn đao đều vạch ra một thông lộ cho hành giả tìm về cõi đạo uyên nguyên trong sự im lặng của Đức Phật- sự im lặng bao trùm tất cả những chân trời tư tưởng của nhân loại. Trong Tuyệt đao đã hàm ẩn Thiên kiếm, và trong Thiên kiếm vẫn thấp thoáng Tuyệt đao. Và tại chỗ chót vót sơ đầu, cả Thiên kiếm và Tuyệt đao đều hợp nhất thành cái một tuyệt đối, viên dung nhất thể trong phương trời lồng lộng của cõi viên mãn Như Lai.

T.R.V Murti được xem là một trong những nhà tư tưởng lỗi lạc nhất về triết học Ấn Độ trong thế kỷ XX. Ông đã phân tích và đánh giá cặn kẽ giáo lý Trung quán tông qua cái nhìn thông tuệ của một bậc thức giả phương Tây đầy uy tín, một người được giới học giả xem là người có đầy đủ thẩm quyền về kinh điển Ấn Độ mà ông hầu như thuộc lòng, như kinh điển Phật giáo, kinh văn Upanisads, văn phạm của Panini, cùng nhiều kinh văn quan trọng khác…

T.R.V Murti là một bậc thức giả phương Tây, nhưng tâm hồn ông lại được nuôi dưỡng trong không khí tâm linh phương Đông, nên đọc ông, ta có cảm giác gần gũi như một bậc luận sư phương Đông đã thấu hiểu tận ngọn ngành của triết học phương Tây, liễu tri được toàn bộ sự bế tắc của nền văn minh duy lý châu Âu đang làm khốn quẫn toàn thế giới trong mạng lưới tư duy theo kiểu Âu châu. Một người được nuôi dưỡng trong bầu không khí triết học phương Tây lại mạnh dạn khẳng định : “Biện chứng pháp của Hegel là một sản phẩm xa hoa phù phiếm, chứ hoàn toàn vô giá trị về phương diện tâm linh”(6). để kêu gọi thế giới quay về đời sống tâm linh phương Đông, đặc biệtTuyệt đối luận của Trung quán tông Phật giáo, xem như đó là lối thoát cuối cùngduy nhất cho toàn thế giới. Cũng như Heidegger, ông ý thức sâu sắc sự tàn phá khốc liệt của nền văn minh phương Tây đối với tư tưởng nhân loại. Toàn thể nhân loại đang khát khao mong đợi sự hợp nhất tâm linh cho một thế giới đang bị xâu xé tan nát bởi biết bao sự xung đột, bởi những hệ tư tưởng hiếu chiến đang đe dọa nhận chìm toàn thể thế giới vào sự diệt vong. Những phát minh khoa học, đặc biệt là mạng internet với những chiếc máy tính đã tạo thành một hệ thống tinh xảo để nối kết toàn cầu vào trong mạng lưới khổng lồ của những siêu xa lộ thông tin. Không gian dường như đã dần thu hẹp lại, thế giới dường như đã có thể dần sát kề vai nhau, thế nhưng sự khác biệt và xung khắc giữa con người, giữa các quốc gia, giữa các chủng tộc lại gia tăng một cách khủng khiếp; đấu tranh và thống khổ vẫn ngập tràn trên cõi thế. Chiến tranh đã trở thành căn bệnh kinh niên lan rộng trên phạm vi toàn cầu.

Sau khi trình bày sự hỗn loạn và đổ vỡ tràn lan trên cõi thế, Murti mạnh dạn kết luận:

“Căn nguyên nào có gì là bí ẩn đâu. Nền văn minh phương Tây, kể từ thời phục hưng, đã phát triển mạnh mẽ theo lộ tuyến duy vật (materialistic lines) và trở thành quy phạm cho toàn thế giới… Con người đã chinh phục được thiên nhiên hoặc gần như đã làm được điều đó, nhưng lại không làm chủ được bản thân mình. Hậu quả thật là thảm khốc. Cuộc sống được tổ chức tưởng chừng ổn định và an toàn đã trở nên bấp bênh, bất ổn. Chúng ta giành được cả thế giới nhưng lại đánh mất linh hồn(7).

Mọi chủ trương tăng gia số lượng sản phẩm và tổ chức lại cơ cấu xã hội để đem đến bình yên cho thế giới đều thất bại, khi những nỗ lực đó không có một nền tảng tâm linh. Mọi sự đối thoại giữa các quốc gia, giữa các chủng tộc đều bế tắc không thể dẫn đến cảm thông, khi con người chỉ có thể nhìn nhau như loài cá vàng nhìn thế giới qua bể kính nước cong. Chỉ có tâm linh mới đem đến một nền tảng thực sự cho xã hội, và hướng dẫn con người thực hiện được những giá trị khác. Về phương diện này thì Tuyệt đối luận của Trung quán tông Phật giáo với tư tưởng Prajñāpāramitā thù thắngTánh Không (Śūnyatā) thâm diệu sẽ là “nền tảng cho sự phục sinh tâm linh cho thế giới” (back-ground for the spiritual regeneration of the world)(8), như Murti, và cả loài người, đang mong đợi

 Chú thích

(1) Cảm nhận của người viết sau khi đọc tác phẩm “The Central Philosophy of Budshism” của T.V. Murti.

(2) “But how do we know we have the true, undistorted picture of reality?” (Hawking, The Grand Design, Bantam Books, New York, 2010, p. 50.)

(3) Nghịch lý Achille và con rùa: là nghịch lý nổi tiếng của Zeno. Achille là một dũng sĩ Hy Lạp có tài chạy nhanh. Achille và Rùa cùng chạy thi. Giả sử rùa đứng trước Achilles 100 mét, và tốc độ của Achille gấp 100 lần rùa. Khi Achilles chạy được khoảng cách 100 mét, đến vị trí xuất phát của rùa, thì rùa đi được 1m; khi Achille vượt tiếp qua đoạn đường 1m đó thì rùa lại đi được 10-2m; khi Achille vượt tiếp qua đoạn đường 10-2m đó thì rùa lại đi được 10-4 m v.v... Cứ tiếp tục mãi như vậy, khoảng cách giữa Achille và rùa sẽ tiến đến con số cực vi dạng 10-2n, nhưng không bao giờ bằng 0. Do đó, dũng sĩ Achilles không bao giờ đuổi kịp chú rùa!

Nghịch lý mũi tên bay: Ta bắn 1 mũi tên từ vị trí A đến tấm bia ở vị trí B. Mũi tên muốn đến được B thì phải đi qua trung điểm A1 của AB, muốn đến được A1 thì phải qua trung điểm A2 của AA1, muốn đến được A2 thì phải qua trung điểm A3 của AA2 v.v... Cứ tiếp tục như vậy, mũi tên phải lần lượt qua vô hạn các trung điểm của các đoạn thẳng chia nhỏ, do đó mũi tên không bao giờ đến được đích!

(4) “Sự mù quáng đó lớn mạnh đến mức người ta không còn khả năng thấy được tiến trình Âu hóa con người và trái đất đã gây tổn hại đến những điều tinh yếu ở tận cội nguồn như thế nào. Dường như tiến trình đó khiến cho mọi cội nguồn đều trở nên khô cạn.” (Die Verblendung wächst, so daß man auch nicht mehr zu sehen vermag, wie die Europäisierung des Menschen und der Erde alles Wesenhafte in seinen Quellen anzehrt. Es scheint, als sollten diese versiegen. (Heidegger, Unterwegs zur Sprache, Vittorio Klostermann, Frankfurt am Main, 1985, tr. 99).

(5) Lời của Thiên hạ đệ nhất đao Hướng Ngao phẩm bình kiếm pháp của Thiên hạ đệ nhất kiếm Cơ Đồng: 姬 老 兒 劍 下 無 絕 學 , 老 夫 的 刀 下無 生 機 Cơ lão nhi kiếm hạ vô tuyệt học, lão phu đích đao hạ vô sinh. (Dưới kiếm Cơ Đồng không còn tuyệt học, dưới đao lão phu không có sinh cơ - Thiên kiếm tuyệt đao 天 劍 絕 刀, chương 4). Một bên là Thiên kiếm theo nguyên lý Sinh, đem bi tâm trùm lên kiếm pháp để hóa giải tất cả võ học trong thiên hạ. Một bên là Tuyệt đao theo nguyên lý Diệt, đem sát tâm hóa vào đao pháp để tận diệt mọi đối thủ trên đời. Làm thế nào để đem được sát tâm của Tuyệt đao hòa vào Thiên kiếm, cũng như làm thế nào để hòa được bi tâm của Thiên kiếm vào sát khí của Tuyệt đao? Với tác phẩm Thiên kiếm Tuyệt đao, Ngọa Long Sinh đã lặng lẽ mở ra một chân trời huyền ẩn cho tư tưởng để tựu thành những điều bất khả tư nghì cho cõi đạo Sơ Thủy Đông Phương.

(6) “The dialectic of Hegel is a brilliant superfluity, it had no spiritual value” T.V.Murti, The Central Philosophy of Buddhism,  Goerge Allen and Unwin, 1968, p. 305.

(7) “The causes are not hidden. Western civilization, which has become the norm for all, has developed, since the Renaissance, along materialistic lines. …. Man has conquered Nature or is very near doing that; but he has not the rudimentary control over himself. The consequences are disastrous. Organised life with any pretence to stability and security has become precarious. We have gained the world, but have lost our soul.” (Op. cit. p. 338)

(8) Op. cit. p. 341.


Huỳnh Ngọc Chiến

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3498)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
(Xem: 7356)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4526)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4581)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7354)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2973)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12226)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 4005)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3814)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4233)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3701)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5074)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6698)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4015)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4135)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5348)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3793)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4541)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3562)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3937)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4400)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5397)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3849)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3945)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3880)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4832)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4533)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4272)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3846)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4649)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4216)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6121)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4614)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4957)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4199)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4839)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5674)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3659)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4057)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4597)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5294)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3151)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4768)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4564)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4304)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4751)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4504)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4610)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7235)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5219)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 5011)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4603)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5624)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5283)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4165)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6025)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4723)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4886)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5496)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5631)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant