Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đoạn kết

12 Tháng Mười Hai 201200:00(Xem: 7568)
Đoạn kết

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

Quyển III:
Hành Giới


ĐOẠN KẾT

Tầm Quan Trọng Của Giới

Tích Ngài Đại đức Sīlava trong bộ Theragāthā(1), được tóm lược như sau:

Ngài Đại đức Sīlava vốn là Hoàng tử của Đức vua Bimbisāra trong kinh thành Rājagaha. Hoàng tử Ajātasattu giết Vua cha là Đức vua Bimbisāra rồi lên ngôi làm Vua. Đức vua Ajātasattu bày mưu kế giết Hoàng tử Sīlava, nhưng bằng mọi cách không thể giết chết được, bởi vì Hoàng tử là người có đầy đủ ba-la-mật, kiếp này là kiếp chót, chắc chắn sẽ chứng đắc thành bậc Thánh Arahán. Cho nên, không một ai có khả năng giết chết Hoàng tử Sīlava được.

Đức Thế Tôn suy xét thấy rõ biết rõ điều ấy nên Ngài truyền dạy Đại đức Mahāmoggallāna dùng thần thông đến giải cứu Hoàng tử Sīlava, đem Hoàng tử trở về hầu Ngài.

Hoàng tử Sīlava đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn xong ngồi một nơi hợp lẽ. Đức Thế Tôn thuyết pháp tế độ Hoàng tử. Ngồi lắng nghe Đức Phật thuyết pháp xong, Hoàng tử phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, xin Đức Thế Tôn cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu trong giáo pháp của Ngài. Sau khi trở thành Tỳ khưu không lâu, Đại đức Sīlava đã chứng đắc thành bậc Thánh Arahán, trú tại xứ Kosala. Đức vua Ajātasattu hay tin truyền lệnh một nhóm lính đến tìm giết Đại đức Sīlava.

Đại đức Sīlava thuyết pháp tế độ nhóm lính, sau khi lắng nghe pháp, tất cả đều phát sinh đức tin trong sạch, xin Đại đức Sīlava cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu.

Ngài Đại đức Sīlava thuyết pháp dạy các đệ tử của Ngài đề cao giới, được tóm lược như sau:

─ Này các con, các con nên học và hành giới trong Phật giáo này. Giới mà người đã thực hành nghiêm túc rồi, trở thành thói quen tốt sẽ đem lại mọi sự thành tựu: Quả báu trong cõi người, trong cõi trờiđạt đến Niết Bàn.

Bậc thiện trí muốn được 3 điều an lạc:

Được tán dương ca tụng khắp mọi nơi

Tâm thường được an lạc

Được tái sinh lên cõi trời

Người ấy cần phải giữ gìn giới của mình được trong sạchtrọn vẹn, là người có giới trong sạch, là người biết thu thúc lục căn thanh tịnh. Người ấy có nhiều bạn tốt, bạn lành là bậc thiện trí.

Người phạm giới, tạo mọi ác nghiệp, làm cho bạn bè xa lánh. Người không có giới bị bậc thiện trí chê trách, tiếng xấu được lan truyền khắp mọi nơi.

Người có giới được bậc thiện trí tán dương ca tụng, tiếng tốt lành được lan truyền khắp mọi nơi.

Giới là gốc của mọi thiện pháp, là nền tảng để mọi thiện pháp được phát triển, là nơi phát sinh mọi thiện pháp, dẫn đầu mọi thiện pháp. Vì vậy, các con nên giữ gìn giới của mình cho được trong sạchtrọn vẹn.

Người thu thúc giới trong sạch thanh tịnh có thể ngăn cản được mọi hành động ác do thân, khẩu và ý, làm cho thiện tâm phát sinh hoan hỷ.

Giới là bến xuôi ra đại dương, là Niết Bàn của chư Phật Toàn Giác, chư Phật Độc Giác, chư Thánh Thanh Văn Giác.

Vì vậy, các con nên giữ gìn giới của mình cho được trong sạchtrọn vẹn.

Giới có sức mạnh vô địch chiến thắng Ma VươngMa quân.

Giới là loại vũ khí vô song cực kỳ lợi hại diệt được phiền não loại thô.

Giới là đồ trang sức vô giá, là vật thơm làm tăng vẻ đẹp của thân và khẩu đáng kính, đáng yêu.

Trong mọi lúc, giới như chiếc áo giáp an toàn bảo vệ không để rơi trong 4 cõi ác giới.

Giới như chiếc cầu vượt qua khỏi 4 cõi ác giới, vượt qua khỏi 4 vùng nước xoáy, vượt qua khỏi tử sinh luân hồi.

Giới có oai lực rất phi thường.

Giới là thứ vật thơm kỳ diệu lan tỏa theo chiều gió, và ngược chiều gió, lan tỏa khắp 10 phương.

Giới là thứ vật thoa thơm cao quý nhất. Người có giới trong sạchtrọn vẹn, danh thơm tiếng tốt lan tỏa khắp 10 phương.

Giới còn là hành trang, vật dụng thiết yếu của khách lữ hành trong các cõi thiện dục giới (cõi người, cõi trời).

Giới là phương tiện vạn năng dẫn đến mục đích cứu cánh Niết Bàn.

Kẻ thiểu trí (si mê) không biết tôn trọng giới của mình, là người không có giới, luôn luôn bị chê trách trong kiếp hiện tại, sau khi chết, do ác nghiệp không giới cho quả tái sinh trong 4 cõi ác giới, chịu quả khổ của ác nghiệp ấy.

Bậc thiện tríđức tin trong sạch, có trí tuệ sáng suốt biết tôn trọng giới của mình, giữ gìn giới trong sạchtrọn vẹn, thường được tán dương ca tụng trong kiếp hiện tại; sau khi chết, do nghiệp thiện có giới cho quả tái sinh trong cõi thiện dục giới (cõi trời), hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời ấy.

Giới là cao thượng. Bậc thiện trí có giới trong sạch, có trí tuệ sáng suốt, là người cao thượng trong đời.

Giới và trí tuệ thắng được phiền não trong cõi người, các cõi trời dục giới, các cõi trời sắc giới, các cõi trời vô sắc giới.

Bởi vậy cho nên, các con nên giữ gìn giới của mình cho được trong sạchtrọn vẹn để làm nền tảng cho pháp hành thiền địnhpháp hành thiền tuệ phát sinh và phát triển.

Ngài Đại đức Sīlava thuyết pháp dạy các đệ tử của Ngài đề cao giới như vậy.

Giới là cao thượng trong đời như thế nào?

Giới có 2 loại:

1- Lokiyasīla: Giới trong tam giới.

2- Lokuttarasīla: Giới trong Siêu tam giới.

Giới trong tam giới như thế nào?

Giới mà hành giả đã giữ gìn được trong sạchtrọn vẹn, rồi giới ấy sẽ cho quả báu trong cõi người6 cõi trời dục giới.

Khi giới của mình trong sạchtrọn vẹn làm nền tảng cho pháp hành thiền định, hành giả thực hành đề mục thiền định dẫn đến chứng đắc các bậc thiền hữu sắc, và các bậc thiền vô sắc.

Như vậy, giới này thuộc trong tam giới.

Giới trong Siêu tam giới như thế nào?

Hành giả thực hành pháp hành thiền tuệ dẫn đến phát sinh trí tuệ thiền tuệ Siêu tam giới, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh QuảNiết Bàn. Trong Thánh Đạo Tâm có đầy đủ 8 chánh đạo đồng sinh đó là: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệmchánh định. 8 chánh đạo này được phân chia làm 3 phần:

Chánh kiếnchánh tư duy thuộc về phần tuệ

Chánh ngữ, chánh nghiệpchánh mạng thuộc về phần giới

Chánh tinh tấn, chánh niệmchánh định thuộc về phần định

Khi chánh ngữ, chánh nghiệpchánh mạng đồng sinh trong Thánh Đạo Tâm có đối tượng Niết Bàn. Như vậy, chánh ngữ, chánh nghiệpchánh mạng thuộc về phần giới trong tâm Siêu tam giới có đối tượng Niết Bàn.

Như vậy, giới mà hành giả giữ gìn trong sạchtrọn vẹn sẽ cho quả báu không chỉ trong tam giới mà còn đến Siêu tam giới nữa. Bởi vậy, mọi người nên giữ gìn giới của mình cho được trong sạchtrọn vẹn; giới ấy sẽ đem lại những thành tựu trong cõi người, trong cõi trờiđặc biệt làm nền tảng chứng ngộ Niết Bàn giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Cho nên, thường sau khi thọ phép quy y Tam Bảothọ trì giới xong, Ngài Đại Trưởng Lão đọc câu chúc lành rằng:

“Sīlena sugatiṃ yanti.

Sīlena bhogasampadā.

Sīlena nibbutiṃ yanti

Tasmā sīlaṃ visodhaye!”

“Chúng sinh tái sinh cõi trời, nhờ giữ giới.

Chúng sinh đầy đủ của cải, nhờ giữ giới.

Chúng sinh giải thoát Niết Bàn, nhờ giữ giới.

Vậy, các con giữ giới cho được trong sạch!”

Các cận sự nam, cận sự nữ đồng thành nói lên rằng:

“Sādhu! Sādhu!”

(Lành thay! Lành thay!)

Giới Là Nền Tảng

Giới là nền tảng cho mọi thiện pháp phát sinh, từ dục giới thiện pháp, sắc giới thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp cho đến Siêu tam giới thiện pháp (4 Thánh Đạo Tâm), cho nên có thể ví rằng:

- Giới trong sạch ví như đất màu mỡ.

- Định (thiền định) ví như cây ăn trái.

- Tuệ (thiền tuệ) ví như hoa và trái.

Nếu có đất màu mỡ thì cây ăn trái được mọc lên, nếu cây ăn trái mọc lên thì mới đơm hoa kết trái.

Cũng như vậy, nếu có giới trong sạchtrọn vẹn làm nền tảng thì mới có thiền định phát sinh. Nếu có thiền định làm nền tảng thì mới có thiền tuệ phát sinh.

Trong bài kinh Kimatthiyasutta(1) Đức Phật trả lời những câu hỏi của Đại đức Ānanda về quả của giới, quả báu của giới, được tóm lược như sau:

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana của ông phú hộ Anāthapiṇḍika gần kinh thành Sāvatthi. Khi ấy Đại đức Ānanda đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn xong rồi ngồi một nơi hợp lẽ, bèn bạch hỏi Đức Thế Tôn rằng:

Ā(2): Kính bạch Đức Thế Tôn, giới thuộc thiện pháp có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

Đức Thế Tôn dạy rằng:

ĐTT(3): “Này Ānanda, giới thuộc thiện pháp có sự mát mẻ (không nóng nảy) thân tâm là quả, có sự mát mẻ (không nóng nảy) thân tâmquả báu”.

Ā: Kính bạch Đức Thế Tôn, sự mát mẻ (không nóng nảy) thân tâm có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

ĐTT: Này Ānanda, sự mát mẻ (không nóng nảy) thân tâm có sự hài lòng hoan hỷ là quả, có sự hài lòng hoan hỷquả báu.

Ā: Kính bạch Đức Thế Tôn, sự hài lòng hoan hỷ có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

ĐTT: Này Ānanda, sự hài lòng hoan hỷpháp hỷ là quả, có pháp hỷquả báu.

Ā: Kính bạch Đức Thế Tôn, pháp hỷ có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

ĐTT: Này Ānanda, pháp hỷpháp an tịnh là quả, có pháp an tịnh là quả báu.

Ā: Kính bạch Đức Thế Tôn, pháp an tịnh có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

ĐTT: Này Ānanda, pháp an tịnh có pháp an lạc là quả, có pháp an lạc là quả báu.

Ā: Kính bạch Đức Thế Tôn, pháp an lạc có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

ĐTT: Này Ānanda, pháp an lạc có pháp thiền định là quả, có pháp thiền địnhquả báu.

Ā: Kính bạch Đức Thế Tôn, pháp thiền định có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

ĐTT: Này Ānanda, pháp thiền định có pháp thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh các pháp là quả, có pháp thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh các pháp là quả báu.

Ā: Kính bạch Đức Thế Tôn, pháp thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh các pháp có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

ĐTT: Này Ānanda, pháp thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh các pháp có trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp là quả, có trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp là quả báu.

Ā: Kính bạch Đức Thế Tôn, trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

ĐTT: Này Ānanda, trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp có pháp ly dục (Thánh Đạo) là quả, có pháp ly dục (Thánh Đạo) là quả báu.

Ā: Kính bạch Đức Thế Tôn, pháp ly dục (Arahán Thánh Đạo) có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

ĐTT: Này Ānanda, pháp ly dục (Arahán Thánh Đạo) có pháp giải thoát (Arahán Thánh Quả) và trí tuệ suy xét Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh quảNiết Bàn là quả, có pháp giải thoát (Arahán Thánh Quả) và trí tuệ suy xét Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh QuảNiết Bànquả báu.

Này Ānanda, giới thuộc pháp thiện có sự mát mẻ (không nóng nảy) thân tâm là quả, có sự mát mẻ (không nóng nảy) thân tâmquả báu; sự mát mẻ (không nóng nảy) thân tâm có sự hài lòng hoan hỷ là quả, có sự hài lòng hoan hỷquả báu; sự hài lòng hoan hỷpháp hỷ là quả, có pháp hỷquả báu; pháp hỷpháp an tịnh là quả, có pháp an tịnh là quả báu; pháp an tịnh có pháp an lạc là quả, có pháp an lạc là quả báu; pháp an lạc có pháp thiền định là quả, có pháp thiền địnhquả báu; pháp thiền định có pháp thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh các pháp là quả, có pháp thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh các pháp là quả báu; pháp thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh các pháp có trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp là quả, có trí tuệ thiền tuệ nhàm chán các pháp là quả báu; trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp có pháp ly dục (Arahán Thánh Đạo) là quả, có pháp ly dục (Arahán Thánh Đạo) là quả báu; pháp ly dục (Arahán Thánh Đạo) có pháp giải thoát (Thánh Quả) và trí tuệ suy xét Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh QuảNiết Bàn là quả; có pháp giải thoát (Arahán Thánh Quả) và trí tuệ suy xét Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh QuảNiết Bànquả báu, như vậy.

Này Ānanda, giới thuộc về thiện phápquả báu theo tuần tự cho đến chứng đắc thành bậc Thánh Arahán hoàn toàn cao thượng, như vậy.

 (Xong bài kinh Kimatthiyasutta)

Quả Báu Của Giới

Bắt nguồn từ giới thuộc thiện pháp trong sạchtrọn vẹn dẫn đến những nhân quả liên hoàn từ tam giới thiện pháp cho đến Siêu tam giới thiện pháp. Đức Phật thuyết giảng trong bài kinh Cetanākaraṇīyasutta(1) ý nghĩa như sau:

1- Này chư Tỳ khưu, người có giới trong sạch, giới đầy đủ trọn vẹn, thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu xin sự mát mẻ (không nóng nảy) thân tâm phát sinh đến cho tôi”.

Này chư Tỳ khưu, sự mát mẻ thân tâm phát sinh đến cho người có giới trong sạch, giới đầy đủ trọn vẹn. Đó là lẽ đương nhiên.

2- Này chư Tỳ khưu, người có thân tâm mát mẻ, thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu xin sự hài lòng hoan hỷ phát sinh đến cho tôi”.

Này chư Tỳ khưu, sự hài lòng hoan hỷ phát sinh đến cho người có thân tâm mát mẻ. Đó là lẽ đương nhiên.

3- Này chư Tỳ khưu, người có tâm hài lòng hoan hỷ, thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu cho pháp hỷ phát sinh đến cho tôi”.

Này chư Tỳ khưu, pháp hỷ phát sinh đến cho người có tâm hài lòng hoan hỷ. Đó là lẽ đương nhiên.

4- Này chư Tỳ khưu, người có pháp hỷ, thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu xin thân tâm của tôi được an tịnh”.

Này chư Tỳ khưu, thân tâm an tịnh phát sinh đến người có pháp hỷ. Đó là lẽ đương nhiên.

5- Này chư Tỳ khưu, người có thân tâm an tịnh, thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu xin cho tôi được an lạc”.

Này chư Tỳ khưu, tâm an lạc phát sinh đến người có thân tâm an tịnh. Đó là lẽ đương nhiên.

6- Này chư Tỳ khưu, người có tâm an lạc, thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu xin tâm của tôi được an định”.

Này chư Tỳ khưu, tâm an định phát sinh đến người có tâm an lạc. Đó là lẽ đương nhiên.

7- Này chư Tỳ khưu, người có tâm an định, thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu xin cho tôi có trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh của các pháp”.

Này chư Tỳ khưu, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh của các pháp phát sinh đến người có tâm an định. Đó là lẽ đương nhiên.

8- Này chư Tỳ khưu, người trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh của các pháp, thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu xin cho tôi có trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp”.

Này chư Tỳ khưu, trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp này phát sinh đến người có trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh của các pháp. Đó là lẽ đương nhiên.

9- Này chư Tỳ khưu, người có trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp, thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu xin cho tôi chứng đắc pháp ly dục (Arahán Thánh Đạo)”.

Này chư Tỳ khưu, pháp ly dục (Arahán Thánh Đạo) phát sinh đến người có trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp. Đó là lẽ đương nhiên.

10- Này chư Tỳ khưu, người chứng đắc pháp ly dục (Arahán Thánh Đạo), thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu xin cho tôi chứng đắc pháp giải thoát (Arahán Thánh Quả) và trí tuệ suy xét”.

Này chư Tỳ khưu, pháp giải thoát (Arahán Thánh Quả) phát sinh đến người chứng đắc pháp ly dục (Arahán Thánh Đạo). Đó là lẽ đương nhiên.

Như vậy, này chư Tỳ khưu.

Pháp ly dục (Virāgo: Arahán Thánh Đạo) có pháp giải thoát (Vimutta: Arahán Thánh Quả) và trí tuệ tri kiến suy xét là quả, là quả báu.

Trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp có pháp ly dục là quả, là quả báu.

Trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh của các pháp có trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp là quả, là quả báu.

Pháp an định trong các đối tượng danh pháp, sắc pháptrí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh các pháp là quả, là quả báu.

Pháp an lạc trong đối tượng có pháp an định là quả, là quả báu.

Thân tâm an tịnh trong đối tượng có pháp an lạc là quả, là quả báu.

Pháp hỷ trong đối tượng có thân tâm an tịnh là quả, là quả báu.

Tâm hài lòng hoan hỷ trong đối tượng có pháp hỷ là quả, là quả báu.

Thân tâm mát mẻ có tâm hài lòng hoan hỷ là quả, là quả báu.

Giới thiện pháp có thân tâm mát mẻ là quả, là quả báu.

Này chư Tỳ khưu, các pháp nhân dẫn đến các pháp quả báu liên hoàn với nhau, từ tam giới thiện pháp cho đến Siêu tam giới thiện pháp tột đỉnh là Niết Bàn giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

(Xong ý nghĩa bài kinh Cetanākaraṇīyasutta)

Như vậy, giữ gìn giới cho được trong sạchtrọn vẹn để làm nền tảng cho các thiện pháp: Dục giới thiện pháp, sắc giới thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp cho đến Siêu tam giới thiện pháp đó là 4 Thánh Đạo và quả là 4 Thánh Quả, cuối cùng tịch diệt Niết Bàn, diệt mọi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Thiền viện Viên Không, tháng Vesakha
P.L 2550/2006
Xã Tóc Tiên, huyện Tân Thành
Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
 
 Tỳ khưu Hộ Pháp
(Dhammarakkhita Bhikkhu)

 


[1] Bộ Theragātha, bài kệ của Ngài Đại Đức Sīlavatheragāthā

[1] Ang. Ekādasakanipāta, Kinh Kimatthiyasutta.

[2] Ā: Ngài Đại đức Ānanda

[3] ĐTT: Đức Thế Tôn

[1] Aṅguttaranikāya, phần Dasakanipāta, kinh Cetanākaraṇīyasutta.

SÁCH THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN

**************************************

VinayapiṭakaAṭṭhakathāpāḷi.

SuttantapiṭakaAṭṭhakathāpāḷi.

Abhidhammapiṭaka Aṭṭhakathāpāḷi.

- Bộ Abhidhammatthasaṅgaha của Ngài Đại Trưởng Lão Anuruddha.

Toàn bộ Mahābuddhavaṃsa của Ngài Đại Trưởng Lão Vicittasārābhivaṃsa (Tipiṭakadhara).

Toàn bộ sách giáo khoa “Paramatthajotika” của Ngài Đại Trưởng Lão Saddhammajotika.

- Các bộ sách của Ngài Đại Trưởng Lão Ledi Sayadaw.

v.v…

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14515)
Lòng tin là không nghi ngờ, không thắc mắc, không do dự, trung thành, tín cẩn. Khi nói chuyện với một người, có khi chúng ta tin liền điều người ấy nói...
(Xem: 38510)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 14658)
Chi tiết nổi bật nhất của pho tượng là đôi chân không tréo vào nhau trong tư thế ngồi thiền mà lại có vẻ như buông lơi: một chân gập lại và một chân buông thõng.
(Xem: 14655)
Tất cả chúng ta đều có tiềm năng của sự thiện hảo. Thế nên, hãy nhìn lại chính mình để thấy tất cả những tiềm năng tích cực ở trong ta.
(Xem: 14074)
Nếu nền tảng đổi thay thì dĩ nhiên cái danh xưng đặt để cho nó cũng phải thay đổi. Vì vậy, không có một linh hồn thường hằng, bất biến...
(Xem: 14962)
Nghiệp là một quy luật tự nhiên và khách quan, vận hành hoàn toàn phù hợp với những hành động của chúng ta. Nghiệp tự thân nó là một quy luật nên không cần phải có người làm luật.
(Xem: 16574)
Buông bỏ có nghĩa là “Nếu tôi có được những thức ăn mà tôi thích thì rất tốt. Nếu không có nó thì cũng không sao...
(Xem: 29919)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 16234)
Chỉ có bậc giác ngộ mới thấy biết chân thật mọi lẽ ở đời; chỉ có đức Phật mới thấy chúng sinh nào sinh đến đâu, trở lại làm người, sinh lên cõi Trời...
(Xem: 15560)
Tinh thần giác ngộgiải thoát của đức Phật không những chỉ có trong kinh điển Phật giáo Tiểu thừa mà có cả trong kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 14925)
Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta...
(Xem: 14915)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
(Xem: 17896)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
(Xem: 15595)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo - Jack Petranker - Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 38694)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 26747)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
(Xem: 39686)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 50803)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 38770)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 35072)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 18331)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
(Xem: 16488)
Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 42425)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 39274)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 35635)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 17476)
Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thườngphi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm...
(Xem: 46553)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 17171)
Chư Phật Như Lai đã lìa mọi cái thấy, mọi tưởng, nên tâm không chỗ nào không hiện diện. Tâm chân thật ấy là tánh của tất cả các pháp.
(Xem: 28512)
Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản.
(Xem: 19011)
Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
(Xem: 17609)
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy.
(Xem: 17124)
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala, Ngài đã nhập thất...
(Xem: 17572)
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc...
(Xem: 16551)
Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thầnvật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta.
(Xem: 16914)
Tình yêu thươngnăng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
(Xem: 30870)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 16952)
Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành...
(Xem: 18519)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 18482)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 17395)
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na... Đỗ Hồng Ngọc
(Xem: 18179)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc...
(Xem: 17085)
Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi...
(Xem: 23522)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
(Xem: 17012)
Phật giáo cho rằng tất cả những mâu thuẫn, nội kết, xung đột trong phạm vi cá nhân hay xã hội đều được phát sinh từ ba độc tố trong tâm thức, đó là tham, sân, và si.
(Xem: 17475)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
(Xem: 17693)
Vô ngãhình thức đối nghịch với cái ngã. Cái ngã thì sanh lão bệnh tử, biến dị, khổ ưu, vô thường. Trái lại vô ngã được quan niệm như là bất sanh bất diệt...
(Xem: 17075)
Con đường tìm đạo, tự tu tự chứng đến khi đắc đạo của đức Phậthành trình lắm chông gai với lòng kiên trì quyết thắng là một nỗ lực phi thường.
(Xem: 15751)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
(Xem: 18062)
Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(Xem: 17450)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 17228)
Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn sinh vô lượng phúc đức...
(Xem: 29545)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27752)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 18195)
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào.
(Xem: 16132)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hóa dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật...
(Xem: 15384)
Cố vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn...
(Xem: 23064)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14848)
Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm...
(Xem: 55143)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 14212)
Phật giáo là “chân lý thực tại”, mà cốt lõi chính là đạo đứcgiới luật làm nền tảng. Khi Phật còn tại thế, ngài chế giới là để ngăn ngừa sự bại hoại của tăng đoàn.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant