Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đoạn kết

12 Tháng Mười Hai 201200:00(Xem: 7542)
Đoạn kết

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

Quyển III:
Hành Giới


ĐOẠN KẾT

Tầm Quan Trọng Của Giới

Tích Ngài Đại đức Sīlava trong bộ Theragāthā(1), được tóm lược như sau:

Ngài Đại đức Sīlava vốn là Hoàng tử của Đức vua Bimbisāra trong kinh thành Rājagaha. Hoàng tử Ajātasattu giết Vua cha là Đức vua Bimbisāra rồi lên ngôi làm Vua. Đức vua Ajātasattu bày mưu kế giết Hoàng tử Sīlava, nhưng bằng mọi cách không thể giết chết được, bởi vì Hoàng tử là người có đầy đủ ba-la-mật, kiếp này là kiếp chót, chắc chắn sẽ chứng đắc thành bậc Thánh Arahán. Cho nên, không một ai có khả năng giết chết Hoàng tử Sīlava được.

Đức Thế Tôn suy xét thấy rõ biết rõ điều ấy nên Ngài truyền dạy Đại đức Mahāmoggallāna dùng thần thông đến giải cứu Hoàng tử Sīlava, đem Hoàng tử trở về hầu Ngài.

Hoàng tử Sīlava đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn xong ngồi một nơi hợp lẽ. Đức Thế Tôn thuyết pháp tế độ Hoàng tử. Ngồi lắng nghe Đức Phật thuyết pháp xong, Hoàng tử phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, xin Đức Thế Tôn cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu trong giáo pháp của Ngài. Sau khi trở thành Tỳ khưu không lâu, Đại đức Sīlava đã chứng đắc thành bậc Thánh Arahán, trú tại xứ Kosala. Đức vua Ajātasattu hay tin truyền lệnh một nhóm lính đến tìm giết Đại đức Sīlava.

Đại đức Sīlava thuyết pháp tế độ nhóm lính, sau khi lắng nghe pháp, tất cả đều phát sinh đức tin trong sạch, xin Đại đức Sīlava cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu.

Ngài Đại đức Sīlava thuyết pháp dạy các đệ tử của Ngài đề cao giới, được tóm lược như sau:

─ Này các con, các con nên học và hành giới trong Phật giáo này. Giới mà người đã thực hành nghiêm túc rồi, trở thành thói quen tốt sẽ đem lại mọi sự thành tựu: Quả báu trong cõi người, trong cõi trờiđạt đến Niết Bàn.

Bậc thiện trí muốn được 3 điều an lạc:

Được tán dương ca tụng khắp mọi nơi

Tâm thường được an lạc

Được tái sinh lên cõi trời

Người ấy cần phải giữ gìn giới của mình được trong sạchtrọn vẹn, là người có giới trong sạch, là người biết thu thúc lục căn thanh tịnh. Người ấy có nhiều bạn tốt, bạn lành là bậc thiện trí.

Người phạm giới, tạo mọi ác nghiệp, làm cho bạn bè xa lánh. Người không có giới bị bậc thiện trí chê trách, tiếng xấu được lan truyền khắp mọi nơi.

Người có giới được bậc thiện trí tán dương ca tụng, tiếng tốt lành được lan truyền khắp mọi nơi.

Giới là gốc của mọi thiện pháp, là nền tảng để mọi thiện pháp được phát triển, là nơi phát sinh mọi thiện pháp, dẫn đầu mọi thiện pháp. Vì vậy, các con nên giữ gìn giới của mình cho được trong sạchtrọn vẹn.

Người thu thúc giới trong sạch thanh tịnh có thể ngăn cản được mọi hành động ác do thân, khẩu và ý, làm cho thiện tâm phát sinh hoan hỷ.

Giới là bến xuôi ra đại dương, là Niết Bàn của chư Phật Toàn Giác, chư Phật Độc Giác, chư Thánh Thanh Văn Giác.

Vì vậy, các con nên giữ gìn giới của mình cho được trong sạchtrọn vẹn.

Giới có sức mạnh vô địch chiến thắng Ma VươngMa quân.

Giới là loại vũ khí vô song cực kỳ lợi hại diệt được phiền não loại thô.

Giới là đồ trang sức vô giá, là vật thơm làm tăng vẻ đẹp của thân và khẩu đáng kính, đáng yêu.

Trong mọi lúc, giới như chiếc áo giáp an toàn bảo vệ không để rơi trong 4 cõi ác giới.

Giới như chiếc cầu vượt qua khỏi 4 cõi ác giới, vượt qua khỏi 4 vùng nước xoáy, vượt qua khỏi tử sinh luân hồi.

Giới có oai lực rất phi thường.

Giới là thứ vật thơm kỳ diệu lan tỏa theo chiều gió, và ngược chiều gió, lan tỏa khắp 10 phương.

Giới là thứ vật thoa thơm cao quý nhất. Người có giới trong sạchtrọn vẹn, danh thơm tiếng tốt lan tỏa khắp 10 phương.

Giới còn là hành trang, vật dụng thiết yếu của khách lữ hành trong các cõi thiện dục giới (cõi người, cõi trời).

Giới là phương tiện vạn năng dẫn đến mục đích cứu cánh Niết Bàn.

Kẻ thiểu trí (si mê) không biết tôn trọng giới của mình, là người không có giới, luôn luôn bị chê trách trong kiếp hiện tại, sau khi chết, do ác nghiệp không giới cho quả tái sinh trong 4 cõi ác giới, chịu quả khổ của ác nghiệp ấy.

Bậc thiện tríđức tin trong sạch, có trí tuệ sáng suốt biết tôn trọng giới của mình, giữ gìn giới trong sạchtrọn vẹn, thường được tán dương ca tụng trong kiếp hiện tại; sau khi chết, do nghiệp thiện có giới cho quả tái sinh trong cõi thiện dục giới (cõi trời), hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời ấy.

Giới là cao thượng. Bậc thiện trí có giới trong sạch, có trí tuệ sáng suốt, là người cao thượng trong đời.

Giới và trí tuệ thắng được phiền não trong cõi người, các cõi trời dục giới, các cõi trời sắc giới, các cõi trời vô sắc giới.

Bởi vậy cho nên, các con nên giữ gìn giới của mình cho được trong sạchtrọn vẹn để làm nền tảng cho pháp hành thiền địnhpháp hành thiền tuệ phát sinh và phát triển.

Ngài Đại đức Sīlava thuyết pháp dạy các đệ tử của Ngài đề cao giới như vậy.

Giới là cao thượng trong đời như thế nào?

Giới có 2 loại:

1- Lokiyasīla: Giới trong tam giới.

2- Lokuttarasīla: Giới trong Siêu tam giới.

Giới trong tam giới như thế nào?

Giới mà hành giả đã giữ gìn được trong sạchtrọn vẹn, rồi giới ấy sẽ cho quả báu trong cõi người6 cõi trời dục giới.

Khi giới của mình trong sạchtrọn vẹn làm nền tảng cho pháp hành thiền định, hành giả thực hành đề mục thiền định dẫn đến chứng đắc các bậc thiền hữu sắc, và các bậc thiền vô sắc.

Như vậy, giới này thuộc trong tam giới.

Giới trong Siêu tam giới như thế nào?

Hành giả thực hành pháp hành thiền tuệ dẫn đến phát sinh trí tuệ thiền tuệ Siêu tam giới, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh QuảNiết Bàn. Trong Thánh Đạo Tâm có đầy đủ 8 chánh đạo đồng sinh đó là: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệmchánh định. 8 chánh đạo này được phân chia làm 3 phần:

Chánh kiếnchánh tư duy thuộc về phần tuệ

Chánh ngữ, chánh nghiệpchánh mạng thuộc về phần giới

Chánh tinh tấn, chánh niệmchánh định thuộc về phần định

Khi chánh ngữ, chánh nghiệpchánh mạng đồng sinh trong Thánh Đạo Tâm có đối tượng Niết Bàn. Như vậy, chánh ngữ, chánh nghiệpchánh mạng thuộc về phần giới trong tâm Siêu tam giới có đối tượng Niết Bàn.

Như vậy, giới mà hành giả giữ gìn trong sạchtrọn vẹn sẽ cho quả báu không chỉ trong tam giới mà còn đến Siêu tam giới nữa. Bởi vậy, mọi người nên giữ gìn giới của mình cho được trong sạchtrọn vẹn; giới ấy sẽ đem lại những thành tựu trong cõi người, trong cõi trờiđặc biệt làm nền tảng chứng ngộ Niết Bàn giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Cho nên, thường sau khi thọ phép quy y Tam Bảothọ trì giới xong, Ngài Đại Trưởng Lão đọc câu chúc lành rằng:

“Sīlena sugatiṃ yanti.

Sīlena bhogasampadā.

Sīlena nibbutiṃ yanti

Tasmā sīlaṃ visodhaye!”

“Chúng sinh tái sinh cõi trời, nhờ giữ giới.

Chúng sinh đầy đủ của cải, nhờ giữ giới.

Chúng sinh giải thoát Niết Bàn, nhờ giữ giới.

Vậy, các con giữ giới cho được trong sạch!”

Các cận sự nam, cận sự nữ đồng thành nói lên rằng:

“Sādhu! Sādhu!”

(Lành thay! Lành thay!)

Giới Là Nền Tảng

Giới là nền tảng cho mọi thiện pháp phát sinh, từ dục giới thiện pháp, sắc giới thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp cho đến Siêu tam giới thiện pháp (4 Thánh Đạo Tâm), cho nên có thể ví rằng:

- Giới trong sạch ví như đất màu mỡ.

- Định (thiền định) ví như cây ăn trái.

- Tuệ (thiền tuệ) ví như hoa và trái.

Nếu có đất màu mỡ thì cây ăn trái được mọc lên, nếu cây ăn trái mọc lên thì mới đơm hoa kết trái.

Cũng như vậy, nếu có giới trong sạchtrọn vẹn làm nền tảng thì mới có thiền định phát sinh. Nếu có thiền định làm nền tảng thì mới có thiền tuệ phát sinh.

Trong bài kinh Kimatthiyasutta(1) Đức Phật trả lời những câu hỏi của Đại đức Ānanda về quả của giới, quả báu của giới, được tóm lược như sau:

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana của ông phú hộ Anāthapiṇḍika gần kinh thành Sāvatthi. Khi ấy Đại đức Ānanda đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn xong rồi ngồi một nơi hợp lẽ, bèn bạch hỏi Đức Thế Tôn rằng:

Ā(2): Kính bạch Đức Thế Tôn, giới thuộc thiện pháp có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

Đức Thế Tôn dạy rằng:

ĐTT(3): “Này Ānanda, giới thuộc thiện pháp có sự mát mẻ (không nóng nảy) thân tâm là quả, có sự mát mẻ (không nóng nảy) thân tâmquả báu”.

Ā: Kính bạch Đức Thế Tôn, sự mát mẻ (không nóng nảy) thân tâm có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

ĐTT: Này Ānanda, sự mát mẻ (không nóng nảy) thân tâm có sự hài lòng hoan hỷ là quả, có sự hài lòng hoan hỷquả báu.

Ā: Kính bạch Đức Thế Tôn, sự hài lòng hoan hỷ có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

ĐTT: Này Ānanda, sự hài lòng hoan hỷpháp hỷ là quả, có pháp hỷquả báu.

Ā: Kính bạch Đức Thế Tôn, pháp hỷ có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

ĐTT: Này Ānanda, pháp hỷpháp an tịnh là quả, có pháp an tịnh là quả báu.

Ā: Kính bạch Đức Thế Tôn, pháp an tịnh có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

ĐTT: Này Ānanda, pháp an tịnh có pháp an lạc là quả, có pháp an lạc là quả báu.

Ā: Kính bạch Đức Thế Tôn, pháp an lạc có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

ĐTT: Này Ānanda, pháp an lạc có pháp thiền định là quả, có pháp thiền địnhquả báu.

Ā: Kính bạch Đức Thế Tôn, pháp thiền định có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

ĐTT: Này Ānanda, pháp thiền định có pháp thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh các pháp là quả, có pháp thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh các pháp là quả báu.

Ā: Kính bạch Đức Thế Tôn, pháp thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh các pháp có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

ĐTT: Này Ānanda, pháp thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh các pháp có trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp là quả, có trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp là quả báu.

Ā: Kính bạch Đức Thế Tôn, trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

ĐTT: Này Ānanda, trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp có pháp ly dục (Thánh Đạo) là quả, có pháp ly dục (Thánh Đạo) là quả báu.

Ā: Kính bạch Đức Thế Tôn, pháp ly dục (Arahán Thánh Đạo) có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.

ĐTT: Này Ānanda, pháp ly dục (Arahán Thánh Đạo) có pháp giải thoát (Arahán Thánh Quả) và trí tuệ suy xét Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh quảNiết Bàn là quả, có pháp giải thoát (Arahán Thánh Quả) và trí tuệ suy xét Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh QuảNiết Bànquả báu.

Này Ānanda, giới thuộc pháp thiện có sự mát mẻ (không nóng nảy) thân tâm là quả, có sự mát mẻ (không nóng nảy) thân tâmquả báu; sự mát mẻ (không nóng nảy) thân tâm có sự hài lòng hoan hỷ là quả, có sự hài lòng hoan hỷquả báu; sự hài lòng hoan hỷpháp hỷ là quả, có pháp hỷquả báu; pháp hỷpháp an tịnh là quả, có pháp an tịnh là quả báu; pháp an tịnh có pháp an lạc là quả, có pháp an lạc là quả báu; pháp an lạc có pháp thiền định là quả, có pháp thiền địnhquả báu; pháp thiền định có pháp thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh các pháp là quả, có pháp thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh các pháp là quả báu; pháp thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh các pháp có trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp là quả, có trí tuệ thiền tuệ nhàm chán các pháp là quả báu; trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp có pháp ly dục (Arahán Thánh Đạo) là quả, có pháp ly dục (Arahán Thánh Đạo) là quả báu; pháp ly dục (Arahán Thánh Đạo) có pháp giải thoát (Thánh Quả) và trí tuệ suy xét Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh QuảNiết Bàn là quả; có pháp giải thoát (Arahán Thánh Quả) và trí tuệ suy xét Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh QuảNiết Bànquả báu, như vậy.

Này Ānanda, giới thuộc về thiện phápquả báu theo tuần tự cho đến chứng đắc thành bậc Thánh Arahán hoàn toàn cao thượng, như vậy.

 (Xong bài kinh Kimatthiyasutta)

Quả Báu Của Giới

Bắt nguồn từ giới thuộc thiện pháp trong sạchtrọn vẹn dẫn đến những nhân quả liên hoàn từ tam giới thiện pháp cho đến Siêu tam giới thiện pháp. Đức Phật thuyết giảng trong bài kinh Cetanākaraṇīyasutta(1) ý nghĩa như sau:

1- Này chư Tỳ khưu, người có giới trong sạch, giới đầy đủ trọn vẹn, thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu xin sự mát mẻ (không nóng nảy) thân tâm phát sinh đến cho tôi”.

Này chư Tỳ khưu, sự mát mẻ thân tâm phát sinh đến cho người có giới trong sạch, giới đầy đủ trọn vẹn. Đó là lẽ đương nhiên.

2- Này chư Tỳ khưu, người có thân tâm mát mẻ, thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu xin sự hài lòng hoan hỷ phát sinh đến cho tôi”.

Này chư Tỳ khưu, sự hài lòng hoan hỷ phát sinh đến cho người có thân tâm mát mẻ. Đó là lẽ đương nhiên.

3- Này chư Tỳ khưu, người có tâm hài lòng hoan hỷ, thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu cho pháp hỷ phát sinh đến cho tôi”.

Này chư Tỳ khưu, pháp hỷ phát sinh đến cho người có tâm hài lòng hoan hỷ. Đó là lẽ đương nhiên.

4- Này chư Tỳ khưu, người có pháp hỷ, thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu xin thân tâm của tôi được an tịnh”.

Này chư Tỳ khưu, thân tâm an tịnh phát sinh đến người có pháp hỷ. Đó là lẽ đương nhiên.

5- Này chư Tỳ khưu, người có thân tâm an tịnh, thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu xin cho tôi được an lạc”.

Này chư Tỳ khưu, tâm an lạc phát sinh đến người có thân tâm an tịnh. Đó là lẽ đương nhiên.

6- Này chư Tỳ khưu, người có tâm an lạc, thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu xin tâm của tôi được an định”.

Này chư Tỳ khưu, tâm an định phát sinh đến người có tâm an lạc. Đó là lẽ đương nhiên.

7- Này chư Tỳ khưu, người có tâm an định, thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu xin cho tôi có trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh của các pháp”.

Này chư Tỳ khưu, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh của các pháp phát sinh đến người có tâm an định. Đó là lẽ đương nhiên.

8- Này chư Tỳ khưu, người trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh của các pháp, thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu xin cho tôi có trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp”.

Này chư Tỳ khưu, trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp này phát sinh đến người có trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh của các pháp. Đó là lẽ đương nhiên.

9- Này chư Tỳ khưu, người có trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp, thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu xin cho tôi chứng đắc pháp ly dục (Arahán Thánh Đạo)”.

Này chư Tỳ khưu, pháp ly dục (Arahán Thánh Đạo) phát sinh đến người có trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp. Đó là lẽ đương nhiên.

10- Này chư Tỳ khưu, người chứng đắc pháp ly dục (Arahán Thánh Đạo), thì không cần có tác ý rằng:

“Cầu xin cho tôi chứng đắc pháp giải thoát (Arahán Thánh Quả) và trí tuệ suy xét”.

Này chư Tỳ khưu, pháp giải thoát (Arahán Thánh Quả) phát sinh đến người chứng đắc pháp ly dục (Arahán Thánh Đạo). Đó là lẽ đương nhiên.

Như vậy, này chư Tỳ khưu.

Pháp ly dục (Virāgo: Arahán Thánh Đạo) có pháp giải thoát (Vimutta: Arahán Thánh Quả) và trí tuệ tri kiến suy xét là quả, là quả báu.

Trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp có pháp ly dục là quả, là quả báu.

Trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh của các pháp có trí tuệ thiền tuệ nhàm chán thực tánh các pháp là quả, là quả báu.

Pháp an định trong các đối tượng danh pháp, sắc pháptrí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh các pháp là quả, là quả báu.

Pháp an lạc trong đối tượng có pháp an định là quả, là quả báu.

Thân tâm an tịnh trong đối tượng có pháp an lạc là quả, là quả báu.

Pháp hỷ trong đối tượng có thân tâm an tịnh là quả, là quả báu.

Tâm hài lòng hoan hỷ trong đối tượng có pháp hỷ là quả, là quả báu.

Thân tâm mát mẻ có tâm hài lòng hoan hỷ là quả, là quả báu.

Giới thiện pháp có thân tâm mát mẻ là quả, là quả báu.

Này chư Tỳ khưu, các pháp nhân dẫn đến các pháp quả báu liên hoàn với nhau, từ tam giới thiện pháp cho đến Siêu tam giới thiện pháp tột đỉnh là Niết Bàn giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

(Xong ý nghĩa bài kinh Cetanākaraṇīyasutta)

Như vậy, giữ gìn giới cho được trong sạchtrọn vẹn để làm nền tảng cho các thiện pháp: Dục giới thiện pháp, sắc giới thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp cho đến Siêu tam giới thiện pháp đó là 4 Thánh Đạo và quả là 4 Thánh Quả, cuối cùng tịch diệt Niết Bàn, diệt mọi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Thiền viện Viên Không, tháng Vesakha
P.L 2550/2006
Xã Tóc Tiên, huyện Tân Thành
Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
 
 Tỳ khưu Hộ Pháp
(Dhammarakkhita Bhikkhu)

 


[1] Bộ Theragātha, bài kệ của Ngài Đại Đức Sīlavatheragāthā

[1] Ang. Ekādasakanipāta, Kinh Kimatthiyasutta.

[2] Ā: Ngài Đại đức Ānanda

[3] ĐTT: Đức Thế Tôn

[1] Aṅguttaranikāya, phần Dasakanipāta, kinh Cetanākaraṇīyasutta.

SÁCH THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN

**************************************

VinayapiṭakaAṭṭhakathāpāḷi.

SuttantapiṭakaAṭṭhakathāpāḷi.

Abhidhammapiṭaka Aṭṭhakathāpāḷi.

- Bộ Abhidhammatthasaṅgaha của Ngài Đại Trưởng Lão Anuruddha.

Toàn bộ Mahābuddhavaṃsa của Ngài Đại Trưởng Lão Vicittasārābhivaṃsa (Tipiṭakadhara).

Toàn bộ sách giáo khoa “Paramatthajotika” của Ngài Đại Trưởng Lão Saddhammajotika.

- Các bộ sách của Ngài Đại Trưởng Lão Ledi Sayadaw.

v.v…

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12636)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12255)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11025)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10911)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13361)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11782)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13663)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11907)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11171)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12194)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12401)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20591)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12419)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12450)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11710)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11592)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22413)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13566)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29664)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11540)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16730)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 11995)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16833)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12069)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17919)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12633)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13155)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14753)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22617)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10581)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14043)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13867)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13714)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13863)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13934)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14830)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13846)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18410)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22794)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15396)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17318)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22411)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14262)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12576)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11157)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17764)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13206)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13099)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18789)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17176)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13498)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12913)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14695)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14655)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15871)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13512)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27432)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13227)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16716)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
(Xem: 21385)
Tiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant