Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh liễu nghĩa và Kinh không liễu nghĩa

15 Tháng Mười Hai 201200:00(Xem: 12704)
Kinh liễu nghĩa và Kinh không liễu nghĩa
KINH LIỄU NGHĨA VÀ KINH KHÔNG LIỄU NGHĨA 
Hoàng Liên Tâm

kinhsach_1Liễu Nghĩanghĩa lý được giải bày đầy đủ trọn vẹn, tức là nghĩa đã trọn, đã hết. Đối nghịch với liễu nghĩa là không (bất) liễu nghĩa tức là nghĩa chưa trọn vẹn, chưa hết nghĩa. Liễu nghĩabất liễu nghĩa là tên gọi khác của Cứu Cánh (liễu nghĩa) và Phương Tiện (không liễu nghĩa). Trong kinh điển Phật giáo có kinh liễu nghĩa và kinh không liễu nghĩa. Cho nên Phật dạy; phải y vào kinh liễu nghĩa (Kinh Đại Bát Niết Bàn - Phẩm Tứ Y).

Nói một cách giản lược, kinh liễu nghĩakinh điển trình bày về chân lý tuyệt đối, chân lý chân thật, đúng mức và rốt ráo. Kinh không liễu nghĩa là những kinh phương tiện, chỉ nói về chân lý tương đối, chưa đúng mức, chưa hết nghĩa. Ví dụ như nói: Như Lai nhờ sự ăn mà sống còn, đó là lời (kinh) không liễu nghĩa. Nếu nói Như Lai thường trụ không biến đổi, đây gọi là lời (kinh) liễu nghĩa. Nếu nói Như Lai nhập Niết Bàn như củi hết lửa tắt, đó là lời (kinh) không liễu nghĩa. Nếu nói Như Lai nhập Pháp tánh, đấy là lời (kinh) liễu nghĩa.

Ý niệm về kinh liễu nghĩa và kinh không liễu nghĩa song hành với ý niệm về hai sự thật: Sự Thật Tương ĐốiSự Thật Tuyệt Đối. Sự Thật Tuyệt Đối tương đương với liễu nghĩa, thuật ngữ Phật học gọi là Chân Đế, Đệ Nhất Nghĩa Đế; còn Sự Thật Tương ĐốiTục Đế, cũng còn gọi là Sự Thật Công Ước. Trong sự thật công ước, tất cả mọi hiện tượng đều diễn bày thật một cách công ước, có nghĩa là, chúng cũng thật như thể một giấc mộng. Chúng xuất hiện và hành động qua tiến trình duyên khởi tạo nên bởi tâm vọng tưởng. Ngược lại, trong sự thật tuyệt đối, tất cả mọi hiện tượng đều không có tự tính và vượt trên mọi khái niệm, vượt trên mọi phân biệt nhị nguyên đối đãi. Một vị Thiền sư cho một ví dụ rất hay khi đề cập đến hai sự thật này là ở trong một căn nhà, người ta muốn thờ Phật ở tầng trên và ngủ ở tầng dưới, tại vì nếu thờ Phật ở tầng dưới, đi đứng, nằm ngồi ngủ nghỉ ở tầng trên thì có cảm giác mang tội. Đó là một sự thật tục đế được mọi người công ước. Mình tin rằng thờ Phật ở tầng trên và mình ở tầng dưới, nhưng khi quả địa cầu quay ngược lại, thì mình ở trên và nơi thờ Phật lại ở dưới. Thành ra ý niệm về trên và dưới là một ý niệm tương đối. Đối với sự thật tuyệt đối thì không có trên dưới.

Tuy nhiên, chúng ta cần biết, chúng ta đang sống trong thế giới công ước, sống trong những thật tại tương đối, mặc dầu không hoàn toàn, không tuyệt đối, nhưng nó rất là quan trọng vì nhiều khi chúng ta phải nương vào nó để hiểu, để tới thế giới tuyệt đối. Đạo Phật có giảng về tục đế, như là những phương tiện dẫn dắt chúng sinh tiến dần tới chân đế. Đối với kinh, khi thấy một lời kinh (hay) một quyển kinh được cho là không liễu nghĩa, đừng cho rằng kinh này là sai, không phải là kinh của Phật, không phù hợp với tinh thần giáo lý của Phật. Không nên nói và nghĩ như vậy, vì có thể những kinh đó đã được nói ra đễ dẫn dắt những người mới bước chân vào đạo hay những người chưa đủ căn cơ để tiếp nhận giáo pháp cao hơn. Mặc dầu kinh đó chưa diễn bày hết nghĩa lý thâm sâu của Phật, nhưng nó có tác dụng đưa người ấy ra khỏi cảnh khổ, ra khỏi vũng bùn lầy lội hiện tại.

Một Phật tử được khuyên bảo là “lòng từ bi với muôn loài chúng sinh nên đừng sát sinhăn chay là tránh sát sinh. Mục đích đích thực của việc ăn chay trong đạo Phậttôn trọngbảo vệ sự sống. Tôn trọng sự sống không những bằng cách giúp nhau để sống còn, mà còn có khi phải hy sinh sự sống để bảo vệ sự sống, nghĩa là có khi tiêu cực như ăn chay để cứu muôn loài, có khi tích cực như "thay khổ cho chúng sanh" để cứu vạn loại”. Mặc dầu nghe êm tai nhưng thấy chuyện đó xa vời quá nên vị Phật tử này không quan tâm đến việc ăn chay. Cho đến khi có một người bạn thân lấy một đoạn kinh Bắc Truyền nói rằng “ăn miếng thịt trả miếng thịt, giết mạng sống đền mạng sống”, thế là vị Phật tử này nghe liền và ăn trường chay luôn. Vậy thử hỏi ai khuyên đúng? Ai khuyên sai? Không có ai nói sai nói đúng hết. Chỉ có vấn đềphù hợp với căn cơ người nghe không mà thôi.

Đức Phật là một vị đại lương y, trước khi Ngài diễn nói, Ngài thường quán sát thính chúng để biết căn cơ của người nghe pháp nhằm đưa ra những giáo pháp thích hợp chữa trị cho họ hết tâm bệnh. Cố nhiên khi Phật nói với người này thì người khác cũng nghe và có thể họ không nghe lọt lỗ tai vì họ không cùng hoàn cảnh, Vì vậy từ xưa và đến ngày nay vẫn có những người hiểu lầm Ngài và có khi tỏ vẻ chống báng chỉ trích. Cho nên, chúng ta nên biết rằng mỗi lời Phật nói nhắm vào một mục đích tương đối nào đó, dành cho một đối tượng thính chúng nào đó và ở một quốc độ hay thời gian nào đó, để tháo gỡ cái kẹt cho họ. Nếu chúng ta thấy được hoàn cảnh của họ mới mong hiểu được lời tuyên bố của Phật. Vì Phật muốn độ chúng sinhphương tiện nói pháp.

Ngày xưa Tổ Triệu Châu nói với đệ tử về Phật tánh: Con chó có Phật tánh hay không? Trong các kinh Phật đều nói rằng “trên từ chư Phật dưới tới con sâu con kiến đều có Phật tánh” Theo đó thì con chó thế nào cũng có Phật tánh, nên một hôm đệ tử biết chắc như vậy bèn hỏi để thầy ấn chứng cho sở học của mình: “Thưa thầy, con chó có Phật tánh hay không? Tổ trả lời: Không. Cũng chính Tổ hôm trước nói con chó có Phật tánh mà, sao hôm nay lại nói không! Vì Tổ biết vị đệ tử này tin chắc chắn con chó có Phật tánh nên Tổ mới nói không nhằm phá chấp có của đệ tử, tháo gỡ cái vướng mắc “có không” của thế giới nhị biên, đối đãi. Nếu chúng ta căn cứ vào lời nói mà bảo rằng Tổ này nói đúng, Tổ kia nói sai, là sai cả. Đúng là đúng với ai? Sai là sai với ai? Có khi nó đúng với người này mà nó sai với người khác. Các Ngài nói với từng người một, mỗi người có căn cơ riêng, có hoàn cảnh riêng. Một vị Bác sĩ trước khi cho thuốc phải khám nghiệm, chẩn mạch, phải biết được tình trạng cơ thể bệnh nhân. Bác sĩ hay, là người khéo biết bệnh, biết thuốc và áp dụng thuốc trị liệu đúng phương pháp. Vì thế, đối với Phật pháp gọi là “phương pháp trị liệu” hay pháp phương tiện.

Nói tóm lại kinh nào của Đức Phật nói về pháp sinh diệt, pháp Có hay pháp Không, đều là kinh không liễu nghĩa. Còn kinh nói về pháp không sinh không diệt, về Chân Như, Phật Tánh, nói về Tánh Không, Trung Đạo là kinh liễu nghĩa.

Hoàng Liên Tâm

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3498)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
(Xem: 7355)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4525)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4579)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7352)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2972)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12221)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 4000)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3814)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4230)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3691)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5072)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6695)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4013)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4130)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5346)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3792)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4540)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3562)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3935)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4397)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5396)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3848)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3942)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3880)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4832)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4531)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4272)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3845)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4648)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4214)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6120)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4611)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4957)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4197)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4832)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5673)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3656)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4051)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4594)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5289)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3151)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4768)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4564)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4303)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4751)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4499)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4609)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7233)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5216)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 5011)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4601)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5621)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5282)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4164)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6024)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4722)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4885)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5495)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5625)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant