Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

8. Gia chủ hỏi Pháp

16 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 9089)
8. Gia chủ hỏi Pháp

GIA CHỦ HỎI PHÁP

Phật tử nghiên cứuhọc hỏi giáo lý của đức Phật là cốt tìm một phương pháp giải thoátan lạc cho chính mình. Cũng như ngày xưa, khi đức Phật còn tại thế, các vị cư sĩ cũng đi đến với Ngài là để cầu sự chỉ giáo của Ngài, hầu mong đem lại cho họ một cuộc sống hạnh phúc an vui.

Kinh Tăng Chi Bộ tập IIIA ghi lại rằng:

"Một hôm, một vị cưtại gia đệ tử của Ngài tên là Dìghajamnu (Ðầu gối dài) đi đến Ngài, đảnh lễ và bạch rằng:

- Bạch đức Thế Tôn, chúng con là những người gia chủ, đang hưởng thọ các dục, sống hệ phược với vợ con, dùng các thứ hương hoa phấn sáp, lãnh thọ vàng bạc; bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp cho những người như chúng con, thuyết như thế nào để pháp ấy đem đến cho chúng con hạnh phúc an lạc ngay trong hiện tạihạnh phúc an lạc cả trong tương lai".

Ngày nay, các Phật tử tại gia trong thời đại chúng ta, dù không nói ra những điều thầm kín trong tâm tư của mình, nhưng có lẽ cũng ôm ấp một hoài bảo tương tự, ấy là, làm thế nào để với tư cách là một tại gia cư sĩ, còn thọ hưởng dục lạc, có được một đời sống hạnh phúc an lạc ngay trong hiện tại và cả về tương lai?

Mặc dù vị thương gia Dìghajamnu (Ðầu gối dài) này sống với dục lạc thế gian, nhưng ông nhận thấy những tài sản vật chất chỉ giúp cho ông được sống, chứ không giúp cho ông được an lạc. Ông sống trong vòng vây giữa quyến thuộc vợ con đầy đủ, danh vọng tràn trề, tài sản sung túc, nhưng tâm tư còn trĩu nặng những lo âu sợ hãi, tham lam thù hận, ước vọng thèm khát không bao giờ dừng nghĩ, ông nghĩ rằng ông không bao giờ có được an lạc. Ông cầu mong đức Phật dạy cho ông một phương pháp để đem lại cho đời sống tại gia như ông một cuộc sống an lạchạnh phúc lâu dài. Ông cư sĩ ấy còn nhấn mạnh, trong khi vẫn thụ hưởng dục lạc thế gian, chứ không phải xuất gia, sống đời sống khất thực như các vị Tỷ-kheo.

Ðó là một lời thỉnh cầu rất tha thiết và chân thành, đồng thời cũng là một viên đá thử vàng đối với đạo Phật. Ðạo Phật với một lòng từ bi vô hạn, với một nền giáo lý siêu việt, nhưng liệu có giúp ích gì cho đại đa số con người đau khổ, còn lăn lóc trong thế gian hay không?

Câu trả lời của đức Phật sau đây cho chúng ta thấy rằng, đức Phật đặc biệt chú trọng đến đời sống của người tại gia cư sĩ biết là dường nào.

I. Bốn pháp đưa đến hạnh phúc, an lạc cho hiện tại.

Ðức Phật dạy cư sĩ Dìghajamnu rằng: "Này Cư sĩ, có bốn pháp này đưa đến hạnh phúcan lạc ngay trong hiện tại". Thế nào là bốn?

- Ðầy đủ sự tháo vác,
- Ðầy đủ sự phòng hộ,
- Làm bạn với thiện,
- Sống thăng bằng điều hòa.
1. Này Cư sĩ, thế nào là "đầy đủ sự tháo vác"?

Nghĩa là tại gia cư sĩ dù làm nghề gì cũng cần phải tinh xảo, siêng năng không biết mệt mỏi, biết suy tư tìm hiểu, biết phương tiện hành động để vừa tự làm và điều khiển người khác làm cho có lợi ích và đạt hiệu quả kinh tế cao.

2. Thế nào là "đầy đủ sự phòng hộ"?

Nghĩa là những tài sản do tháo vác siêng năng mà thu hoạch được, do mồ hôi đổ ra đúng pháp tìm được, thì phải khéo giữ gìn phòng hộ, để cho khỏi bị vua tịch thâu, bị trộm mang đi, bị lửa đốt, bị nước trôi, bị con cái hư hỏng phá tan.

Ðây là những lời dạy rất thiết thực, vì hàng tại gia không như hàng xuất gia khất thực để sống, họ còn nhiều bổn phận đối với cha mẹ, vợ con quyến thuộc nên cần phải có một nghề nghiệp sinh sống chính đáng để làm ra của cải. Muốn thế cần phải siêng năng, tinh xảo trong công việc và nghề nghiệp của mình. Nếu không siêng năng tháo vác thì sẽ bị lôi cuốn vào những việc bất chính, làm rối loạn xã hội chỉ vì đồng tiền không do mồ hôi đổ ra. Mỗi khi tiền của do bất chính tạo ra không do sức mình thì tiền của vật chất ấy là tiền của phi pháp, nó sẽ bị vua chúa tịch thu. Vậy cách giữ gìn của cải vật chất khỏi bị vua mang đi là phải có nghề nghiệp chính đáng. Những tài sản nào do mồ hôi kiếm được một cách khó khăn thì phải lo đề phòng, chớ để cho các tai nạn như lửa, nước, trộm cướp và nhất là con cái bất hiếu phá hoại.

Trong xã hội xưa cũng như nay, có nhiều gia đình giàu có mà vì quá thương con, sự giáo dục lỏng lẻo, để con cái hư hỏng phá của không thương tiếc vào những cuộc vui vô bổ như cờ bạc, rượu chè say sưa..., làm cha mẹ như vậy là dung dưỡng cho những kẻ bất lương phá cửa, làm hại cho gia đình, xã hội và cả quốc gia nữa. Khi đã phá tán tài sản của cha mẹ hết rồi, chắc chắn sẽ đi vào phá làng, phá xóm, làm hại mọi người. Bởi thế, đức Phật dạy có của, có tiền thì phải lo phòng hộ, đừng để lọt vào những trường hợp trên. Nghĩa là ngoài việc làm giàu chính đáng do sức lao động của mình ra, cần phải chú trọng đặc biệt đến sự giáo dục con cái cho cẩn thận để đưa nó vào đời, tạo dựng cho con cái một cuộc sống hạnh phúc hầu góp phần vào sự giàu mạnh cho xã hội.

3. Thế nào là "làm bạn với thiện"?

Nghĩa là tại nơi mình sinh sống trong làng hay trong thị trấn, có những gia chủ hay con trai gia chủgiới đức, đầy đủ lòng tin, đầy đủ trí tuệ và có lòng bố thí thì nên làm quen, nói chuyện, thảo luận với họ. Từ những người đầy đủ lòng tin, hãy học tập lòng tin. Từ những người đầy đủ giới đức, hãy học hỏi giới đức. Từ những người đầy đủ bố thí hãy học hỏi bố thí. Từ những người đầy đủ trí tuệ, hãy học tập trí tuệ. Ðó là làm bạn với thiện.

Trong ba lời dạy trên, hai lời dạy đầu là dạy làm ra của cải vật chất và cách giữ gìn nó. Lời dạy thứ ba là lời dạy về pháp tài, tức là của cải tâm linh thuộc về tinh thần. Áp dụng nó trong cuộc sống thì các cư sĩ theo Phật khỏi bị mang tiếng, bị người chê cười là có của mà vô lương. Vậy người tại gia cư sĩ phải trau dồi Phật pháp để có những ngôn ngữ, hành động, ý nghĩ, phù hợp với giáo lýtrở thành Phật tử lợi đạo ích đời.

4. Thế nào là "sống thăng bằng điều hòa"?

Nghĩa là khi làm ra của cải cần phải chi dùng một cách thích ứng, không quá phung phí mà cũng không quá bỏn xẻn. Nếu trong sự tiêu dùng hàng ngày, số xuất quá số nhập sẽ dẫn đến phá sảnmất thăng bằng trong cuộc sống. Ngược lại, chi tiêu quá bỏn xẻn, những việc cần chi không dám chi, không dám tiêu dùng, thì sẽ trở thành người nô lệ của cải. Người làm chủ của cải vật chất thì được sống an lạc, trái lại, bị vật chất làm chủ chi phối thì đó là nô lệ lại cho của cải, sẽ gây ra khổ sở. Làm chủ vật chất là thế nào? Là khi cần tiêu vào việc chính đáng thì phải tiêu, không cần tiêu thì giữ lại. Tóm lại người bị của cải làm chủ là người có tiền mà cứ giữ bo bo, thậm chí đến việc tiêu dùng cho bản thân cũng không dám, nói gì đến gia quyến vợ conbố thí cho người khác.

Như vậy sống thăng bằng có nghĩa là không phung phí, cũng không nên bỏn xẻn. Phật dạy bốn nguyên tắc để sống thăng bằng điều hòa là: 

1. Không đam mê sắc dục
2. Không đam mê rượu chè; 
3. Không đam mê cờ bạc; 
4. Không giao du với kẻ ác. 
Nếu đóng bốn cánh cửa ấy lại, thì tài sản sẽ không bị thất thoát, gia chủ sẽ được sống an lạc.

II. Bốn pháp đưa đến hạnh phúc, an lạc cho tương lai

Phật dạy làm bạn với thiện là để trau dồi lòng tin, tăng trưởng giới đức, học tập cách bố thítrau dồi trí tuệ. Ðó chính là bốn điều để sống an lạc trong tương lai.

a. Thứ nhất, đầy đủ lòng tin.

Phật tử quy y Tam Bảothực hiện đầy đủ lòng tin.

b. Thứ hai, tăng trưởng giới đức.

Phật tử thọ giớithực hiện đầy đủ giới đức. Là Phật tử mà không giữ gìn giới hạnh, hành động tà vạy, không xứng đáng với lời dạy của Thế Tôn, thì dù có xưng là Phật tử cũng không phải là Phật tử. Cho nên đầy đủ giới đức mới xứng đáng là con Phật.

c. Thứ ba, là học tập bố thí.

Bố thí là hạnh đầu tiên mà đức Phật dạy cho chúng ta thực hành. Con người vì lòng tham đứng đầu nên gây mọi tội ác. Muốn điều phục nó thì phải bố thí. Bố thí là san sẻ vật chất, khả năng, công lực, hiểu biết, tình cảm, giáo lý... là những điều mình có mà người khác không có. Một nụ cười với người đang sợ hãi cũng là một sự bố thí. Bố thí cao nhất là mở rộng lòng, mở rộng tâm tư. Nếu chỉ biết thu mà không biết chi thì người ấy là người bỏn xẻn, ích kỷ. Nếu xã hội chỉ gồm những người như vậy, thì xã hội ấy không có hạnh phúc. Một gia đình ai cũng nghĩ đến bản thân, thì gia đình ấy không có an lạc. Bố thí trước hết là dứt lòng tham, dứt tính bỏn xẻnđặc biệt là dứt lòng ganh tị. Khi có của, có quyền, có danh... mà họ muốn bố thí san sẻ thì người đó phải làm như thế nào? Khi được người trân trọng, thì mình phải đối lại bằng đức khiêm cung, thì đó cũng là hình thức bố thí. Bố thí như vậy chẳng những tạo được hạnh phúc cho người mà còn làm an lạc cho chính mình. Bởi thế, không phải chỉ có tiền của mới là bố thí được mà nên hiểu rộng ra rằng ai có thân, có tâm là có thể bố thí được cả. Nếu trong tâm mọi người đều luôn luôn nghĩ đến bố thí, thì sự đua tranh, ganh tỵ, tham lam, bỏn xẻn sẽ giảm bớt rất nhiều.

d. Thứ bốn, trau dồi trí tuệ.

Phật tử là con của đấng Ðại giác. Ngài đã chứng ngộ được thực thể vũ trụ, hiểu biết tâm tánh chúng sanh, nên Ngài giáo hóa phù hợp với đủ mọi căn cơtrình độ của các hạng chúng sanh. Chúng sanh nhờ đó mà nuôi lớn tâm hồn. Phật tử là con của đấng giác ngộ mà còn quá vô minh thì thật là không xứng đáng, do đó mà cần phải trau dồi trí tuệ. Phật dạy: "Mọi sự tuần hoàn trong nhân duyên nhân quả". Nghe như vậy, chúng ta cần phải suy xét ra như thế nào? Nghe là văn tuệ, suy xéttư tuệ. Văn tuệ là nghe, nhưng nghe cho đúng, nghe phải có đầu có đuôi. Có người đi nghe thuyết pháp về, có ai hỏi thì lại chỉ biết trả lời: Hay lắm mà tôi không nhớ hết. Vậy cần phải ghi nhớ mỗi khi một ít, để tư duy rồi tu tập theo đó, tức là tu tuệ. Tu tuệ là thực hành giáo lý bằng kinh nghiệm bản thân của mình. Qua thực hành văn, tư mà tu mới thấu hiểu lời đức Phật dạy mà tu tập mới có kết quả.

Ngày xưamột lần Phật đi qua đồng ruộng, có Tôn giả A-nan theo hầu. Bỗng Ngài đưa tay chỉ vào một bụi rậm bảo: Ðộc xà, A-nan! Tôn giả A-nan nhìn vào cũng nói: Ðại độc xà, Thế Tôn!

Tình cờ một nông phu đi sau nghe lén, bèn vào xem là cái gì, anh ta khám phá một hủ đầy vàng ròng, vô cùng mừng rỡ thầm bảo: nghe đồn Thế Tôn là bậc Nhất thiết trí, cái gì cũng biết mà đây là vàng, Ổng lại bảo là rắn độc! Anh liền khiêng vàng về, tạo mãi nhà cửa, ruộng đất, xe cộ. Xóm giềng thấy anh lâu nay nghèo kiết xác, ăn bữa hôm lo bữa mai, nay bỗng dưng phát giàu, thì không khỏi nghi ngờ, nên họ lên trình quan. Quan gọi lên tra hỏi và về nhà lục xét, lấy hết vàng bạc châu báu và bắt anh bỏ tù. Ngồi trong ngục tối, anh mới thấm thía lời Phật dạy, tưởng là từ nay sẽ được ăn cao lương mỹ vị, thì ngược lại bị giam đói. Tưởng từ nay sẽ được nhà cao cửa rộng, hóa ra lại nằm trong ngục, cảm kích lời Thế Tôn dạy, anh ta kêu to: "Ðộc xà, A Nan! Ðại độc xà, Thế Tôn".

Quan giữ ngục nghe, hỏi lý do, anh kể đầu đuôi câu chuyện rồi kết luận: Giờ phút này ở trong tù, tôi mới tỉnh ngộ, mới tin hiểu lời Phật dạy thật sâu xa vô cùng!

Nghe câu chuyện trên, không dễ gì ngày nay chúng taPhật tử, chúng ta đã tỉnh ngộ, tin theo lời dạy của đức Thế Tôn. Giả sử một mai đẹp trời, đi giữa đường gặp một thỏi vàng như vậy, chúng ta có mang về không? Chắc cũng mang về. Cho nên lắm lúc người đời bảo Phật dạy không thực tế, viễn vông! Hàng Phật tử, chúng ta cần phải nhận thức cho rõ, có phải lời Phật dạychí lý không? Hay chẳng qua vì lòng tham của chúng ta còn nặng, nên chúng ta không làm ngơ được?

Nhưng khi chưa nghe lời Phật dạy thì chúng ta sử dụng vàng một cách khác, nhưng khi đã nghe rồi thì chúng ta sử dụng nó một cách khác. Nghĩa là chúng ta phải biết học cách bắt rắn như trong kinh Xà Dụ có dạy, nếu bắt đằng đuôi nó sẽ ngoái đầu cắn lại. Nếu dùng nạn chặn đầu đè xuống rồi mới bắt thì sẽ không bị rắn cắn. Ở đây, điều đáng nói là đừng vị kỷ khi sử dụng. Tất cả mọi cái vị kỷ điều xấu xa, trái lại những việc vị tha đều tốt. Nếu chúng ta đem vàng về mà làm việc vị tha thì đó là chúng ta biết cách bắt rắn, không bị rắn cắn. Suy rộng ra, không những vàng mà mọi chuyện khác cũng đều như vậy. Nếu thiếu trí tuệ thì chúng ta làm sao hiểu hết lời thâm thúy của đức Phật. Nếu có trí tuệ thì anh nông dân đã không vào tù. Vàng mà Thế Tôn bảo là rắn độc, có người không tin thì không khác gì hôm nay đạo Phật nói đời là đau khổ, vẫn có người không tin.

Nếu khôngtrí tuệ thì chúng ta sẽ như anh nông phu nói rằng: Thật viễn vông, ở đời có nhiều thứ vui đáng để thưởng thức lắm như xem xi-nê, nghe tân nhạc, xem cải lương, xem video... bao nhiêu chuyện vui như thế sao lại nói đời là đau khổ! Nhưng có biết đâu rằng cái vui đó là vui trong đau khổ?

trí tuệ là có nhận thức, biết được sự việc trước khi nó xảy đến, chứ không phải chờ nó xảy ra rồi mới biết. Trí tự giác là một ngọn lửa sáng từ trong tâm, khiến cho chư Phật và Bồ-tát, Tổ sư thấy ngay được chân lý không cần thầy dạy. Ðó cũng gọi là vô sư trí, vô sư tự ngộ hay tự giác thánh trí. Nhưng đó cũng là kết quả tu tập, công phu thực hành lâu đời lâu kiếp mới có được.

Ðã là Phật tử mà lấy tà làm chánh, không biết phân biệt phải trái hay dở thì không phải là người có trí tuệ và dễ trở thành mê tín dị đoan, tin theo tà sư ngoại đạo. Ðó là điều thứ tư mà Phật dạy cho hàng cư sĩ tại gia phải trau dồi trí tuệ để được hạnh phúc trong hiện tại và tương lai.

Trong cuốn "What the Buddha taught" của Hòa thượng Tiến sĩ W. Rahula, có nhận xét: -"Những người nghĩ rằng Phật giáo chỉ quan tâm đến những lý tưởng cao siêu, tư tưởng triết lýđạo đức siêu phàm, và không kể đến lợi ích xã hội và kinh tế của con người, là sai lầm. Ðức Phật rất quan tâm đến hạnh phúc con người. Ðối với Ngài, không thể có hạnh phúc mà không sống một đời sống trong sạch, dựa trên những nguyên tắc đạo đứctâm linh. Nhưng Ngài biết rằng sống một đời như vậy rất khó trong những điều kiện xã hộivật chất không thuận".

Phật giáo không xem hạnh phúc vật chất như một cứu cánh: nó chỉ là một phương tiện để đến một cứu cánh - một cứu cánh cao quý hơn. Nhưng đấy là một phương tiện rất cần thiết, cần thiết để hoàn thành một mục đích cao hơn cho hạnh phúc nhân loại. Bởi thế Phật giáo công nhận sự cần thiết của một vài điều kiện vật chất tối thiểu thuận tiện cho sự thành công của tâm linh - ngay cả đối với một Thiền sư thiền định trong một nơi cô tịch nào.

Ðức Phật không xét đến sự sống một cách tách biệt ra ngoài bối cảnh kinh tế và xã hội. Ngài nhìn đời trong toàn diện, trong tất cả mọi phương diện xã hội, kinh tế và chính trị của nó. Những lời dạy của Ngài về những vấn đề đạo đức, triết lý và tâm linh đã được khá nhiều người biết đến. Nhưng người ta biết rất ít, nhất là ở Tây phương, về giáo lý của Ngài trong những vấn đề xã hội, kinh tế và chính trị. Tuy vậy có rất nhiều bài giảng của ngài bàn về những vấn đề ấy rải rác khắp các bản kinh văn cổ xưa của Phật giáo. Ta hãy lấy chỉ một vài thí dụ: Kinh Chuyển luân Thánh vương Sư tử hống (Cakkvattisìhanàda-sutta, Trường bộ kinh, Dìghanikàya) số 26, nói rõ rằng sự nghèo khó (dàliddiya) là nguyên nhân của vô đạotội ác như trộm cắp, tà vạy, bạo động, thù hằn, độc ác v.v... Những vị vua chúa ngày xưa, cũng như các chính phủ ngày nay, cố đàn áp tội lỗi bằng hình phạt. Kinh Kùtadantasutta cùng thuộc bộ ấy giải thích sự vô ích của hình phạt, nói rằng phương pháp ấy sẽ không bao giờ thành công. Thay vì vậy, đức Phật đề nghị rằng, muốn diệt tận gốc các tội lỗi, thì cần phải cải thiện điều kiện kinh tế của con người: cần phải cung cấp cho tá điền và nông phu hạt giốngphương tiện trồng trọt khác, vốn phải được cung cấp cho những thương gia và những người buôn bán; lương hướng thích đáng phải được trả cho những người làm công. Khi mọi người đều được cung cấp những cơ hội để kiếm được một lợi tức đầy đủ họ sẽ bằng lòng, không sợ hãi lo âu và do đó xứ sở sẽ thanh bình và không có các tội lỗi.

Bởi vậy, đức Phật thường dạy những cư sĩ tại gia tầm quan trọng của sự cải thiện điều kiện kinh tế. Ðiều này không có nghĩa Ngài tán đồng sự tích trữ tài sản với lòng khao khát và ràng buộc, vì nó trái ngược với giáo lý Ngài, và cũng không phải Ngài tán đồng bất cứ phương tiện sinh nhai nào. Có vài nghề thương mãi như sản xuất và mua bán khí giới bị Ngài cấm chỉ, xem như là những phương tiện sinh sống không chân chính như ta đã thấy trước đây.

Ðôi khi đức Phật còn đi vào những chi tiết về để dành tiền bạc và tiêu dùng, chẳng hạn như khi Ngài bảo thanh niên Sigàla rằng anh ta nên dùng 1/4 lợi tức vào sự tiêu pha hàng ngày, một nửa lợi tức để đầu tư vào việc kinh doanh và để riêng 1/4 phòng khi nguy cấp.

Một hôm đức Phật bảo Cấp Cô Ðộc (Anàthapindika) một thương gia danh tiếng, một trong những đệ tử tại gia thuần thành nhất của Ngài đã lập cho Ngài tu viện Kỳ-đà (Jetavana) hữu danh ở Xá-vệ (Sàvatthi) rằng một cư sĩ sống đời thường nhật, có bốn thứ hạnh phúc:

- thứ nhất là thụ hưởng sự bảo đảm về kinh tế hay tài sản đầy đủ kiếm được bằng những phương tiện chính đáng (sở hữu lạc - atthi-sukha);
- thứ hai là tiêu dùng tài sản ấy một cách rộng rãi cho chính mình, cho gia đình bà con, bè bạn và trong những việc công đức (thọ dụng lạc - bhoga-sukha);
- thứ ba là không có nợ nần (vô trái lạc - anana-sukha);
- thứ tư là sống một đời trong sạch, không phạm những điều ác trong ý nghĩ, lời nói hay hành vi (vô tội lạc - anavajja-sukha).
Ở đây ta phải chú ý rằng trong bốn thứ này, ba thuộc về kinh tế, và cuối cùng đức Phật còn nhắc cho thương gia ấy biết rằng hạnh phúc về kinh tế và vật chất thì không "đáng một phần mười sáu" của hạnh phúc tâm hồn phát sinh từ một đời sống không lỗi lầmlương thiện.

Qua những ví dụ kể trên, ta có thể thấy rằng đức Phật xem sự thoải mái về kinh tế là cần thiết cho hạnh phúc con người, nhưng Ngài không công nhận sự tiến bộchân thật nếu nó chỉ thuần vật chất, không có một nền tảng đạo đứctâm linh. Trong khi khuyến khích sự tiến bộ vật chất, Phật giáo luôn luôn nhấn mạnh đến sự phát triển đạo đứctâm linh để kiến tạo một xã hội hòa bình an lạc. (Trí Hải dịch, Tu thư Ðại học Vạn Hạnh xuất bản 1974).

Tóm lại, đức Phật dạy cho người tại gia bốn pháp an lạc cho hiện tại là: Tháo vác, phòng hộ của cải bằng nghề chân chính, làm bạn với thiện và sống điều hòa thăng bằng. Và bốn pháp tạo hạnh phúc cho tương lai, đời sau là: Lòng tin, giới đức, bố thítrí tuệ. Có đủ tám điều như vậy, thì giờ phút nào, ở đâu, chúng ta cũng xứng đáng là Phật tử, không những lợi ích cho chính mình mà còn lợi ích cho nhiều người khác nữa. Cho nên Phật tử muốn hộ trì Chánh pháp phải cần có trí tuệ thì việc làm mới thành tựu viên mãn.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2705)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
(Xem: 2025)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 3032)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2646)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3552)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3378)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4219)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3734)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
(Xem: 4276)
Khi chúng ta mới học lần đầu rằng cứu cánh của sự tu tập đạo Phật có tên gọi là Nibbana (Nirvana, Niết-bàn),
(Xem: 2358)
“Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác.
(Xem: 3527)
Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn.
(Xem: 4211)
Tâm là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về “điều gì” luôn luôn thay đổi, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác.
(Xem: 3993)
“Cánh cửa bất tử đã mở ra cho tất cả những ai muốn nghe”, đây là câu nói của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ.
(Xem: 2920)
Trong các kinh thường ví chân tâm là viên ngọc, như viên ngọc như ý, viên ngọc ma ni, lưới Trời Đế Thích…Bài kệ này chỉ thẳng Viên Ngọc Tâm
(Xem: 3407)
Trong Nguồn thiền, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Người ngộ ngã pháp đều không, hiện bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”.
(Xem: 3525)
Trong Kinh Văn Thù quyển hạ có chép: Ngài Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn thì đệ tử của Ngài phân hóa bộ phái như thế nào?
(Xem: 4589)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 3924)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”
(Xem: 4814)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 4083)
Mất 11 năm khổ công tầm đạo, Đức Phật Thích Ca đã đạt đại giác ngộ sau 49 ngày quyết tâm thiền định dưới cội cây bồ đề.
(Xem: 3063)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”...
(Xem: 3803)
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao?
(Xem: 3952)
Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô trụ, tánh tướng tịch nhiên, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt.
(Xem: 3123)
Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phậtdi giáo tối hậu cho các chúng đệ tử: “Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.”
(Xem: 3646)
Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN).
(Xem: 4496)
Đức Phật, một nhân vật lịch sử 3000 năm về trước, ra đời tại Bắc Ấn, là bậc giác ngộ toàn triệt, là bậc đạo sư với nghi biểu đặc biệt xuất hiện ở đời.
(Xem: 3763)
Con người sanh ra để hưởng thụ qua lục dục như tài, sắc, danh, thực, thùy (Ngủ nghỉ), .v.v. Con người trải qua một chu kỳ già, bệnh và cuối cùng là chết.
(Xem: 2304)
Nguyên bản: Teachings On The Eight Verses On Training The Mind. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Anh dịch: Thupten Jinpa. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 2667)
Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được.
(Xem: 3071)
Kinh Tiểu Duyên (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp.....
(Xem: 2761)
Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất.
(Xem: 4634)
“Thiên đường có lối sao chẳng đi Địa ngục không cửa dấn thân vào”
(Xem: 4976)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 2870)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê,
(Xem: 5378)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 2894)
Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật.
(Xem: 3334)
Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất.
(Xem: 4420)
Nguyên tử giải phóng trở thành nguyên tử năng là đánh dấu thời đại đại phát minh của nhân loại. Là họa hay là phước tạm thời không bàn luận đến.
(Xem: 4981)
Luân hồinhân quả là hai sự kiện tương quan. Bởi chúng sanh còn nghiệp trái của nhân quả thiện ác nên mới bị luân hồi.
(Xem: 4745)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 3286)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa...
(Xem: 4594)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 4316)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 6181)
Mùa xuân là dịp để trở về, dừng bước chân hoằng hóa để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời.
(Xem: 3541)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
(Xem: 4076)
Trước đây rất lâu từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phật giáo không biết làm giàu.
(Xem: 6057)
Trong không gian mênh mông của vườn kinh điển Đại Thừa, Diệu Pháp Liên Hoa là đoá hoa vi diệu nhất mà chính Đức Thế Tôn đã ca ngợi
(Xem: 5454)
Trong cuộc sống, nếu một người mất đi niềm tin sẽ trở nên vị kỷ, bất cần và gặt hái khổ đau, dễ dàng bị tác động vào những...
(Xem: 4105)
Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy.
(Xem: 33330)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 3212)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết.
(Xem: 4200)
Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này
(Xem: 4768)
Kinh Biệt Giải Thoát Giới - tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya
(Xem: 3133)
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục.
(Xem: 3852)
Có nhiều bài kệ rất hay khi xướng lên hay khi tán tụng; hoặc giả khi mạn đàm Phật Pháp; nhưng cũng có lắm bài kệ...
(Xem: 3589)
Từ nhỏ, lúc mới vào chùa khi 15 tuổi của năm 1964 và năm nay 2020 cũng đã trên 70 tuổi đời và hơn 55 năm sống trong Thiền Môn
(Xem: 6606)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 2816)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
(Xem: 3271)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
(Xem: 4632)
Phật tại thế thời ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân Phật diệt độ, Áo não tự thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant