Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Con đường giác ngộ

21 Tháng Sáu 201300:00(Xem: 8502)
Con đường giác ngộ

CON ĐƯỜNG GIÁC NGỘ

Nguyễn Huy

con-duong-giac-ngo-nguyenhuy“Trên sân ga thành phố Đại học Gorakhupur ở Bắc Ấn, ta có thể thấy ngoài số du khách Ấn Độ, còn có du khách đến từ Nhật Bản, Sri Lanka, Thái Lan, Miến Điện cũng như đoàn người Tây Tạng tha hương và du khách Tây phương nữa. Họ là những người chiêm bái, trên đường đi viếng nơi Đức Phật đản sanh tại Lumbìni và nơi Ngài diệt độ tại Kusinàra”.


Đó là cảnh khách hành hương chiêm bái Phật tích mà H.W. Schumann từng chứng kiếnphác họa lại lúc ông viếng thăm Ấn Độ. Giao thông thuận tiện cộng với đức tin tôn giáo, dĩ nhiên, đóng vai trò quan yếu trong các cuộc hành hương xứ Phật. Mặt khác, sự căng thẳng và trống vắng nội tâm của cuộc sống hiện đại khiến ngày càng có nhiều người tìm đến chiêm bái các thánh tích Phật giáo. Người ta cảm thấy tâm hồn như được bình an hơn khi có dịp tiếp xúc với những gì khiến gợi nhớ về Đức Phật. Hơn 2.500 năm sau, một khách hành hương bộc lộ cảm xúc của mình khi viếng thăm các địa danh từng in dấu chân bậc Đại từ:
“Tôi bước chậm rãi trong Kỳ-viên (Jetavana) trên con đường hẹp tráng xi-măng mà bây giờ đã sạch bóng sau cơn mưa và nhận ra rằng lòng mình lúc nào cũng bình an khi đến các thánh địa. Ở đây, tôi cảm nhận một không khí thuần tịnh, ở Vesali một khí sắc vương giả, ở Bodh Gaya một tâm tư kính sợ, ở Linh Thứu một lòng cảm động vô hạn, ở Câu-thi-na một khí lực mát lạnh buồn bã, ở Lộc Uyển một lòng hân hoan. Nhưng ở mọi nơi, lòng bình an luôn luôn chan hòa trong mọi cảm nhận, nó làm nền cho chúng phát khởi”1.
Đức Thích-ca Mâu-ni xuất hiệnẤn Độ thế kỷ thứ sáu trước Tây lịch đã để lại cho nhân thế một di sản tâm linh vô cùng cao quý. Đó là sự xác chứng rõ ràng về tiềm năng giác ngộ của con ngườiphương pháp khiến cho tiềm năng ấy bộc lộ và tuôn chảy. Đức Phật là bậc giác ngộ, có sức cảm hóaphương pháp dẫn dắt thiện xảo khiến cho người khác tràn đầy tin tưởng và sẵn sàng đi theo con đường của Ngài.
T.W. Rhys Davids nói rằng đặc điểm nổi bật của Phật Gotama là Ngài không chỉ tìm kiếm Niết-bàn hay an ổn nội tâm cho riêng mình mà còn kêu gọi người khác thực nghiệm nó, và Ngài có đủ khả năng để giúp cho người khác hiểu rõ, ước muốn, và chứng ngộ điều đó2. Các bản kinh Nikàya thuộc văn hệ Pàli lưu lời khuyến khích của Ngài: “Các ngườ ihãy lóng tai, Pháp bất tử đã chứng được. Ta sẽ giảng dạy, Ta sẽ thuyết pháp. Nếu sống đúng theo lời khuyến giáo, các người không bao lâu, sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt ngay trong hiện tại mục đích vô thượng của Phạm hạnh, sẽ an trú.” Trong tâm tưởng các đệ tử Ngài: “Thế Tôn đã giác ngộ, Ngài thuyết pháp để giác ngộ mọi người… Thế Tôn đã vượt qua, Ngài thuyết pháp để mọi người vượt qua. Thế Tôn đã chứng Niết-bàn, Ngài thuyết pháp để mọi người chứng Niết-bàn.”3

Sự giác ngộ từ vị trí một con người

Sự kiện giác ngộ của Đức Phật ở Gayà Ấn Độ thế kỷ thứ sáu trước kỷ nguyên Tây lịch có một ý nghĩaảnh hưởng lớn lao đối với các truyền thống văn hóatâm linh của nhân loại. Sự chứng đắc Phật quả của Ngài không chỉ mở ra một chân trời hoàn toàn mới mẻ và sáng sủa cho truyền thống tâm linh vốn nổi tiếng của Ấn Độ, mà còn ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài đến các truyền thống tâm linh và nhiều nền văn hóa khác trên thế giới. Sự kiện từ rất sớm các vương triều Trung Hoa từng phái người sang Tây Trúc cầu đạo và hàng loạt các tu sĩ Phật giáo Trung Hoa không ngại gian nan băng rừng vượt núi sang Ấn Độ tu học Phật pháp đã chứng minh điều đó. Trung Quốclịch sử văn minh xa xưa không thua gì Ấn Độ và về nhiều phương diện còn vượt cả văn minh Ấn Độ. Thế nhưng về mặt thực nghiệm tâm linh thì phải nói là kém Ấn Độ một bậc. Nhân thể cũng cần nói thêm rằng người Trung Hoa đã vay mượn truyền thống tâm linh Phật giáo kết hợp với văn minh bản xứ để tạo nên nhiều kỳ tích văn hóa vượt trội. Việt Nam từ rất sớm đã khéo tiếp thu truyền thống tâm linhtinh thần tự chủ Phật giáo nên đã nuôi dưỡng được ý chí độc lập tự cường, tránh được nạn bị đồng hóa bởi các thế lực xâm lăng phương Bắc.
Ấn Độtruyền thống tâm linh lâu đời nhưng chỉ thật sự tỏa sáng sau sự kiện thái tử Siddhattha, người con ưu tú của kinh thành Kapilavatthu, trở thành bậc Giác ngộ. Đức Phật Gotama là người đầu tiên trong lịch sử xác tín với cuộc đời về khả năng giác ngộ của con người bằng chính sự nỗ lựctrí tuệ của mình. Bản kinh Ariyapariyesana Trung Bộ ghi nhận:
“Rồi này các Tỷ-kheo, Ta tự mình bị sanh, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị sanh, tìm cầu cái không sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn và đã chứng được cái không sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị già… tự mình bị bệnh… tự mình bị chết… tự mình bị sầu… tự mình bị ô nhiễm, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị ô nhiễm, tìm cầu cái không bị ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn và đã chứng được cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn, khỏi các khổ ách, Niết-bàn. Và trí và kiến khởi lên nơi Ta. Sự giải thoát của Ta không bị dao động. Nay là đời sống cuối cùng của Ta, không còn sự tái sanh nữa.”4
Không có một văn bản nào trong các thánh thư trước đó của Ấn Độ xác nhận mạnh mẽ và chính xác về sự giác ngộ của một con người cụ thể như đoạn kinh trên. Rõ ràng, việc Đức Phật tự thân tu tậpthành tựu mục tiêu giải thoát tâm linh là một sự kiện lớn và cũng là bằng chứng xác thực và hùng hồn nhất để bậc Giác ngộ xác lập đường hướng chuyển hóa tâm linh cho cuộc đời một cách đầy thuyết phục. Từ đây vai trò khai sáng tâm linh không còn là đặc quyền của tôn giáo thần thánh nữa mà đã hoàn toàn thuộc về con ngườiý chí của con người. Kinh sách Phật giáo mô tả rằng đại địa đã chấn động, tam thiên đại thiên thế giới đều chấn động mạnh trước sự kiện giác ngộ của Đức Phật. Chúng ta ngày nay không cảm nhận được hiện tượng siêu nhiên lạ thường này, nhưng các cứ liệu còn lưu lại cho thấy đức tin truyền thống Ấn Độ đã dao động mạnh trước sự kiện Đức Phật khẳng định sự giác ngộ của Ngài. Có một hệ quả hết sức to lớn đối với đời sống tinh thần Ấn Độ chung quanh lời tuyên bố giác ngộ của Đức Phật, nếu ta xét qua bối cảnh lịch sử các truyền thống tôn giáotư tưởng của xứ sở này.

Đức tin tôn giáo và khát vọng giải thoát tâm linh của người Ấn bộc lộ rất sớm và rất mạnh mẽ. Sự xuất hiện rất sớm các bản kinh Vệ-đà, tiếp theo Bà-la-môn giáo, sang đến tư tưởng triết học Upanisad, rồi đến các phong trào Sa-môn trong suốt một dọc dài của lịch sử Ấn Độ cổ đại đã cho thấy điều đó. Mặc dù có các truyền thuyếtđức tin, các truyền thống tín ngưỡngtâm linh trước đó của Ấn Độ chưa sẵn sàng để tiếp nhận một sự kiện mới mẻ như sự giác ngộ của một con người bằng xương bằng thịt. Truyền thống Bà-la-môn có nói đến bậc Chánh đẳng giác (Sammàsambuddho) với những mỹ tướng lạ thường nhưng hãn hữu lắm mới xuất hiện ở đời 5. Chính đức tin này đã khiến ẩn sĩ Asita tiên đoán thái tử Siddhattha sẽ xuất gia thành bậc giác ngộ6. Một vài vị Bà-la-môn khác cũng tò mò muốn biết Đức Phật có thật sự sở hữu 32 hảo tướng hay không7. Truyền thuyếtđức tin là thế nhưng phần lớn các Bà-la-môn danh tiếngĐức Phật đã có dịp gặp gỡ và trao đổi đều thừa nhận rằng “không một vị tôn sư nào của các Bà-la-môn, cho đến bảy đời, thật sự được xem là đã chứng đạt mục tiêu cứu cánh giác ngộ”8.
Như vậy, dưới con mắt các phả hệ Bà-la-môn thì Phật hay bậc giác ngộ chỉ có ở truyền thuyếtđức tin mà chưa hề hiện hữu dưới hình thức một con người. Có lẽ vì thế mà khi trông thấy dấu chân của Đức Phật có mỹ tướng xa luân, Bà-la-môn Dona không tin Ngài là một con người:
- Thưa Sa-môn, Ngài là Tiên, Càn-thát-bà hay Dạ-xoa chăng?
– Ta không phải là Tiên, Càn-thát-bà hay Dạ-xoa, này Bà- la-môn.
– Vậy Ngài là ai, thưa Sa-môn?
– Này Bà-la-môn, Ta là người, với các lậu hoặc đã đoạn tận… Ví như, này Bà-la-môn, bông sen xanh, hay bông sen hồng, hay bông sen trắng, sanh ra trong nước, lớn lên trong nước, vươn lên khỏi nước, và đứng thẳng không bị nước thấm ướt. Cũng vậy, này Bà-la-môn, sanh ra trong đời, lớn lên trong đời, Ta sống chinh phục đời, không bị đời thấm ướt. Này Bà-la-môn, Ta là Phật.9

Upanisad xuất hiện khoảng thế kỷ thứ chín trước Tây lịch, được xem là giai đoạn chuyển biến mạnh mẽ đầu tiên của truyền thống tư tưởng tâm linh Ấn Độ, từ hình thái tín ngưỡng thuần túy bước sang tư duy triết học thực nghiệm. Một số triết gia xuất hiện vào thời kỳ này để lại nhiều tác phẩm tư tưởng rất nổi tiếng. Tuy vậy, không một nhân vật nào của thời kỳ Upanisad được xem là đã thành tựu đạo quả giác ngộ. Đến lượt các phong trào Sa-môn xuất hiện khoảng thế kỷ thứ bảy trướcTây lịch, tuy có nhiều dấu hiệu cho thấy sự khao khát tìm cầu tâm linh nhưng không có một bậc đạo sư nào được ghi nhận đã chứng Chánh đẳng giác. Có một câu chuyện10 chép ở Tương Ưng Bộ chứng thực sự kiện này. Vua Pasenadi nước Kosala trước lúc quy ngưỡng Tam bảo, từng dò hỏi Đức Phật:
- Tôn giả Gotama có tự cho mình đã chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?
– Thưa Đại vương, nếu có ai có thể nói một cách chơn chánh là mình đã chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thời người ấy phải chính là Ta. Thưa Đại vương, Ta đã chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
– Thưa Tôn giả Gotama, có những vị Sa-môn, Bà-la-môn là vị hội chủ, vị giáo trưởng, khai tổ giáo phái, được quần chúng tôn sùng, như ngài Pùrana Kassapa, Makkhali Gosàla, Nigantha Nàtaputta, Sanjaya Belatthiputta, Pakudha Kaccàyana, Ajita Kesakambala. Khi con hỏi các vị ấy có tự xem là đã chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không, thời họ đã trả lời là không. Vậy làm sao Tôn giả Gotama, trẻ tuổi, sanh sau đẻ muộn, và chỉ mới xuất gia lại tự cho mình như vậy?

Văn đoạn tiếp theo cuộc đối thoại, Đức Phật đã có một lối giải thích thật minh triết và đầy ý nhị khiến vị vua có học vấn uyên thâm như Pasenadi rất đỗi khâm phục, xin quy y Tam bảo. Tuy nhiên lời nhận xét ở trên cho thấy lúc đầu vị vua này chưa thực tin Sa-môn Gotama là bậc Chánh đẳng giác, còn sáu vị đạo sưtiếng tăm lúc bấy giờ chỉ là hữu danh vô thực.
Như vậy, sự kiện Đức Phật chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng giác đã gây kinh ngạc không ít đối với đức tin truyền thống lúc bấy giờ. Từ đức tin, đến tâm lý hoài nghi muốn tìm hiểu, rồi chuyển sang xác tín hoàn toàn; không ít các Bà-la-môn trưởng thượng đã quy ngưỡng Đức Phật và nương theo giáo pháp của Ngài11. Một số vị còn cầu xin xuất gia dưới sự hướng dẫn của Thế Tôn, nỗ lực tu học, chứng đắc đạo quả giác ngộ và rồi tự nhận xét về mình: “Quả thực chúng ta suýt nữa bị suy vong. Trong khi trước đây chúng ta không thực sự là Bà-la-môn, lại tự cho mình là Bà-la- môn; không phải Sa-môn, lại tự cho mình là Sa-môn; không phải A-la-hán, lại tự cho mình là A-la-hán. Nhưng nay chúng ta mới thực sự là Bà-la-môn, mới thực sự là Sa-môn, mới thực sự là A-la-hán.”12
Các bản kinh cũng cho biết sau nhiều lần tìm đến luận chiến với Sa-môn Gotama, du sĩ biện thuyết gia nổi tiếng Saccaka và đại thí chủ Upàli thuộc phái Kỳ Na giáo đều lần lượt quy y Đức Phật với lòng xác tín Ngài là bậc A-la-hán, Chánh đẳng giác.13 Vua Pasenadi cũng chính thức trở thành Phật tử sau khi hiểu ra Sa-môn Gotama thực sự là bậc giác ngộ.14 Tài liệu Cullavagga thuộc Luật tạng Pàli nói rằng lần đầu tiên nghe một vị triệu phú người Ràjagaha dùng danh từ Đức Phật (Buddho) trong khi nói về bữa tiệc cúng dường được sửa soạn cho Ngài và Tăng chúng của Ngài, đại thương gia Cấp Cô Độc (Anàthapindika) hết sức ngạc nhiên gạn hỏi vị này đến lần thứ ba để xác tín sự thật, vì lẽ theo ông thì chỉ danh xưng “Đức Phật” không thôi đã hiếm thấy ở đời.15 Tài liệu cho biết tín tâm của vị gia chủ giàu có này đối với Đức Phật bắt đầu phát sinh từ đó.

Xác tín khả năng giác ngộ của mọi người

Thái độ của nhóm năm ẩn sĩ do Kondanna đứng đầu tỏ ra ít ngạc nhiên hơn, nhưng họ không tin Sa-môn Gotama lại có thể thành Phật một khi Ngài đã từ bỏ lối tu khổ hạnh:
- Hiền giả Gotama, với nếp sống này, với đạo tu này, với khổ hạnh này, Hiền giả đã không chứng được Pháp thượng nhân, tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh, thì nay làm sao Hiền giả, với nếp sống sung túc, với sự từ bỏ tinh cần, với sự trở lui đời sống vật chất đầy đủ, lại có thể chứng được Pháp thượng nhân, tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh?16
Lúc này bậc Giác ngộ mới lên tiếng:
– Này các Tỷ-kheo, Như Lai không sống sung túc, không từ bỏ tinh cần, không trở lui đời sống vật chất đầy đủ. Này các Tỷ-kheo, Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh đẳng giác. Này các Tỷ-kheo, hãy lóng tai, Pháp bất tử đã chứng được, Ta sẽ giảng dạy, Ta sẽ thuyết pháp. Nếu các ngươi đi theo con đường Ta chỉ dạy thì không bao lâu, sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt ngay trong hiện tại, các người sẽ đạt được mục đích vô thượng của Phạm hạnh.17

Lời xác chứng của Đức Phật cho nhóm năm ẩn sĩ này thật quan trọng bởi nó cho thấy không những Đức Phật tự nhận đã giác ngộ mà Ngài còn tin người khác cũng có khả năng giác ngộ giống như Ngài, nếu tuân theo đường lối do Ngài chỉ dẫn. Có thể nói rằng đây là thông điệp giác ngộ đầu tiên mà Đức Phật gởi đến cho con ngườicuộc đời, một thông điệp đổ đầy niềm tin và tính nhân bản, đặt nền móng cho sự tồn tại và phát triển lâu dài của Phật giáo: “Tất cả mọi người đều có khả năng giác ngộ.”

Như vậy, khác với quan niệm khá hẹp hòi của các Bà-la-môn cho rằng chỉ có giai cấp Bà-la-môn mới là cao thượng và mới có khả năng lãnh hội con đường giải thoát tâm linh, Đức Phật khẳng định rằng tất cả mọi người đều có khả năng giác ngộ và xứng đáng theo đuổi con đường tu tiến tâm linh. Theo Ngài, không có sự khác biệt về khả năng giải thoát giữa con ngườicon người hay giữa các giai cấp hoặc giới tính. Tất cả mọi người đều có khả năng chứng đắc chân lý, giác ngộ sự thật, nếu họ được giáo dục tốt và nỗ lực theo đúng phương pháp; tựa như mọi ngọn lửa cháy đỏ đều có ngọn, có ánh sáng, màu sắc và có thể dùng vào việc nấu chín thức ăn dù do ai đốt và được đốt bằng chất liệu gì.18 Như là kết quả, mọi giai cấp đều có mặt trong tổ chức Tăng-già do Đức Phật thành lập và tại các buổi thuyết pháp hay giảng dạy của Ngài. Phụ nữ được giải phóng về phương diện xã hội và được thừa nhận về mặt trí tuệ và khả năng giác ngộ. Họ có quyền xuất gia tu học, tự đứng ra lo tổ chức và điều hành Giáo hội Ni giới.
Có thể nói rằng quan điểm bình đẳng về khả năng giải thoát tâm linh do Đức Phật đưa ra có một ý nghĩa cách mạng xã hội đáng kể đối với thời kỳ này, đặc biệt là đối với các tầng lớp nghèo khó. Người ta thấy có rất nhiều người đã sung sướng đến rơi nước mắt khi được chấp nhận gia nhập hàng ngũ những người xuất gia đệ tử của Đức Phật. Quan niệm cũ bị đánh đổ và một làn không khí mới đầy nhân bản tràn lên mọi ngõ ngách của xã hội. Khắp nơi quần chúng hân hoan lắng nghe lời khuyến giáo của Đức Phật. Tài liệu Kinh tạng Pàli mô tả rằng các thính giả, sau khi được Thế Tôn làm cho phấn khích và hoan hỷ với bài pháp thoại, rời chỗ ngồi lưu luyến ra đi mắt không rời khỏi Ngài.19 Tài liệu cũng ghi nhận có nhiều lượt người từ xa đến chờ nghe Đức Phật thuyết pháp với ý nghĩ: “Chúng ta sẽ được nghe Chánh phápĐức Thế Tôn sẽ thuyết giảng cho chúng ta.” Quần chúng mong muốn được lắng nghe những lời dạy bảo chí tình chí lý từ Đức Phật. Người ta không ngại băng ngàn vượt biển để được nghe những điều mới mẻ và chân thật. 21 Những người đương thời trang trọng nêu nhận xét về Ngài: “Như người dựng đứng lên những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy mọi vật”.
Jawaharlal Nehru nói rằng “Đức Phật có cá tính rất đặc biệt đến độ ngày nay người ta vẫn còn nhớ như in mỗi khi nghĩ đến Ngài. Ngài là mẫu người hoàn chỉnh của sự uy nghiêm, thanh thảndịu dàng, vô vàn trìu mến chúng sinh và thương cảm những kẻ bất hạnh, một con người hoàn toàn tự do về tinh thần và không hề có chút định kiến đối với bất cứ ai.”22
Quả thực như vậy, đấng Đại từ Thế Tôn đã vào Niết-bàn hơn 25 thế kỷ, thế nhưng những gì Ngài đã thể hiện và làm cho cuộc đời thì vẫn còn nguyên giá trị. Nhân cách giác ngộ của Ngài vẫn tỏa ánh dịu dàng trong tâm hồn nhân thế. Những lời dạy sáng suốt đầy từ tâm của Ngài vẫn soi đường hạnh phúc cho những con tim biết yêu quý cái thiện. Đặc biệt, bức thông điệp xác quyết về khả năng giác ngộ không phân biệt giai cấp hay giới tính do Ngài công bố ngày nào vẫn tỏ rõ giá trị đạo đức chuẩn mực của nó trong thế giới hiện đại, trong tư tưởng tiến bộ của loài người, và trong niềm kính tín biết ơn của nhiều người luôn nhớ đến Ngài như một bậc Thầy vĩ đại “đã sinh ra ở đời vì hạnh phúc cho số đông, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, hạnh phúcan lạc cho chư Thiên và loài Người”.

Chú thích:
1. Nguyễn Tường Bách, Mùi hương trầm, tr. 132.
2. T.W. Rhys Davids, Lectures on some Points in the History of Indian Buddhism, tr. 162.
3. Tiểu kinh Saccaka, Trung Bộ.
4. Kinh Ariyapariyesana, Trung Bộ.
5. Xem Kinh Ambattha, Trường Bộ; Kinh Brahmàyu, Trung Bộ.
6. Kinh An sĩ, Kinh tập, Tiểu Bộ.
7. Kinh Brahmàyu, Trung Bộ.
8. Kinh Đại bổn, Trường Bộ; Kinh Cankì, Kinh Subha, Trung Bộ.
9. Kinh Tùy thuộc thế giới, Tăng Chi Bộ.
10. Kinh Tuổi trẻ, Tương Ưng Bộ.
11. Kinh Ambattha, Kinh Sonadanda, Kinh Kùtadanta, Trường Bộ; Kinh Brahmàyu, Kinh Cankì, Trung Bộ.
12. Tiểu kinh Ví dụ dấu chân voi, Kinh Pháp trang nghiêm, Trung Bộ.
13. Kinh Mahàsaccaka, Kinh Upàli, Trung Bộ.
14. Kinh Tuổi trẻ, Tương Ưng Bộ.
15. T.W. Rhys Davids & H. Oldenberg, Vinaya Texts, Part III, tr. 180-181.
16. Kinh Ariyapariyesana, Trung Bộ.
17. Kinh Ariyapariyesana, Trung Bộ.
18. Kinh Assalayana, Kinh Kannakatthala, Trung Bộ.
19. Kinh Brahmàyu, Trung Bộ.
20. Kinh Mahà Sakuludàyi, Trung Bộ.
21. Kinh Cankì, Trung Bộ.
22. Phạm Thủy Ba, Phát hiện Ấn Độ, tập I, tr. 212. •

Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo số 152 | Nguyễn Huy

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10397)
Duy thức học là một học thuyết tuy được xác lập vào khoảng thế kỷ thứ tư...
(Xem: 7723)
Giáo huấn của Đức Phật nhấn mạnh rằng không có một linh hồn độc lập hay một tự ngã độc lập.
(Xem: 8533)
Trong một quyển sách nhỏ «Phật Giáo Nhập Môn» tác giả Fabrice Midal đã dành riêng một chương để tóm lược thật ngắn gọn một số các khái niệm căn bản...
(Xem: 10123)
Phật giáo vào Anh quốc bắt đầu từ thế kỷ thứ 19, qua các công trình dịch thuật kinh điển ở các nước Phật giáo Đông phương.
(Xem: 18527)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 14529)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 8828)
Nói đến “Tính Không” trong Đạo Phật là nói đến một vấn đề mà nhiều người còn thắc mắc, nhất là những người ngoại đạo...
(Xem: 8918)
Phẩm Quán Tứ đế của Trung luận, từ chỗ duyên khởi tức là không, cũng là giả danh về sau, tiếp theo nói: cũng là trung đạo.
(Xem: 8205)
Triết học Phật giáo Đại thừa có hai phương diện, đó là Triết học Phật giáo Đại thừa hay Tánh không luận và Du-già hành tông hay trường phái Duy thức...
(Xem: 9006)
Không là pháp quán chung của Phật giáo, nhưng pháp quán của các nhà Trung Quán không giống với pháp quán của các tông phái khác.
(Xem: 14179)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 8446)
Niệm tức là nghĩ nhớ, ức niệm, suy tưởng, chú tâm quan sát hay hướng tâm đến một đối tượng nào đó thuộc tâm thức và giữ cho đối tượng đó luôn luôn sinh động ở trong tâm...
(Xem: 15283)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13150)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 7815)
"Các thầy Tỷ kheo sau khi ta diệt độ, các thầy phải trân trọng, tôn kính tịnh giới, như người mù tối mà được mắt sáng, nghèo nàn mà được vàng ngọc..."
(Xem: 16670)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15512)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 8987)
Chấp nhận một hình thức Phật giáo rồi dấn thân bằng thực nghiệm, hành giả không cần phải dành quá nhiều công sức cho những vấn đề lý thuyết và những mục tiêu lý tưởng của các truyền thống khác nhau.
(Xem: 7933)
Pháp môn Tịnh độ được sáng lậptu hành dựa trên tư tưởng “Yếm ly Ta bà, hân cầu Cực Lạc”. Song vì sao phải yếm ly Ta bà và lại hân cầu Cực Lạc?
(Xem: 7102)
Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận giải Nobel Hòa Bình 21 năm trước, ngài nói, "Tôi chỉ là một thầy tu giản dị".
(Xem: 11263)
Đạo Phậtđạo nhân quả (nhân nào quả nấy) trên cơ sở lấy “Tâm” làm gốc và được ứng dụng vào trong cuộc sống.
(Xem: 14276)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ (trung Nam Ấn Độ), khi đó Vua Tần Bà Sa La nước Ma Kiệt (trung Bắc Ấn Độ)
(Xem: 10472)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20460)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 8792)
"Các người phải siêng năng tu tập các điều thiện, nhờ tu tập điều thiện mà được mạng sống lâu dài, nhan sắc thắm tươi, sống yên ổn, vui vẻ, của cải dồi dào, uy tín đầy đủ"
(Xem: 9286)
Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay Như Lai sẽ diệt độ. Này Ananda, hôm nay tại điện thờ Càpàla, Như Lai chánh niệm, tỉnh giác, từ bỏ thọ, hành...
(Xem: 24117)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12668)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 7804)
Giải quyết vấn đề thoát khổ, Đạo Phật lấy tâm thức của con người làm trọng tâm, bất cứ hệ tư tưởng Phật giáo nào nếu tách rời tâm thức của con người thì Phật giáo không còn đất đứng.
(Xem: 16250)
Mùa Thu năm 334 trước Tây Lịch (TTL), vua A-Lịch-Sơn Đại-Đế (Alexander the Great) của nước Hy-Lạp bắt đầu cuộc chinh phạt Đông tiến. Nhà vua thấy nhà hiền triết Aristotle...
(Xem: 15608)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 8739)
Indriya có nghĩa là căn, gốc, khả năng, làm chủ, cốt yếu... Bala là lực, là sức mạnh. Vậy ngũ căn là 5 trạng thái tâm căn bản, 5 yếu tố tâm lý căn bản có khả năng kiểm soát tâm, làm chủ tâm.
(Xem: 7646)
Nghiệp là một luật rất công bằng cho tất cả mọi loài, mình tạo thì mình hưởng. Làm phước được phước, làm tội chịu tội.
(Xem: 14610)
Không có người bạn nào tốt hơn cho tương lai hơn là bố thí - ban cho tặng phẩm thích đáng. Đối với tu sĩ, giáo sĩ, người nghèo, và bạn hữu - Biết những tài sản là chóng tàn phai và vô lực.
(Xem: 9306)
"Vô Ngã" là vấn đề tương đối hơi khó và khiến cho nhiều người nghiên cứu về Đạo Phật phải tốn nhiều công sức để truy cứu, tìm hiểu.
(Xem: 15503)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 15146)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16630)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 13473)
Khoa học hiện đại đã tiến đến một biên giới, nơi đó sự gặp gỡ của khoa học Tây phương với minh triết truyền thống tâm linh Đông phương là điều tất yếu.
(Xem: 15327)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 7836)
Tất cả đều được tiếp nối dưới một hình thức này hay một hình thức khác. Đám mây luân hồi ra thành cơn mưa và cơn mưa luân hồi ra thành ra nước trà.
(Xem: 7499)
Đức Phật trong thực tế đã không đưa ra các nghi thức và các nghi lễchúng ta đang thực hiện ngày hôm nay, Ngài cũng không vì vấn đề nghi thứcnghi lễ mà khuyến khích dân chúng...
(Xem: 7351)
Khi thực tập thiền Lạy, ta nhìn sâu vào thân ta để thấy rằng thân này không đích thực là ta, không phải là vật sở hữu của ta. Trong thân này không có cái gì gọi là cái ta riêng biệt để bám víu.
(Xem: 9019)
"Tôi nhất định phục hưng Chánh Pháp. Tôi chỉ cho phép Phật GiáoChánh Pháp chứ không có Mạt Pháp! Bất cứ nơi nào tôi đến, nơi đó sẽ có phước đức, trí huệ và được giảm bớt tai ương."
(Xem: 14030)
Tất cả chúng ta vì bị vô minh che lấp nên khi có mặt trên thế gian đều không có nhận thức sáng suốt, do đó ta chỉ lo thụ hưởng sự ăn uốngnhẫn tâm giết hại các loài vật.
(Xem: 8028)
Mục đích của bài viết này là để hổ trợ trong việc gia tăng sự hiểu biết tốt hơn về tôn giáo, sự khoan dungý nghĩa sâu sắc của các tôn giáo khác từ quan điểm của Phật giáo...
(Xem: 7843)
Dường như trong Kinh Tạng ít nhất có hai lần nhắc đến trường hợp Đức Phật từng cảm nhận các giác cảm đau đớn...
(Xem: 15805)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 10262)
Chúng ta luôn bị bất an, lòng lúc nào cũng nơm nớp lo sợ sinh mạng, quyền lợi, địa vị, vợ con, tiếng tăm, của cải… của mình bị thương tổn hay bị đe dọa.
(Xem: 7689)
Đạo Phật chủ trương trong hiện tại phải sống giải thoát cho chính mình và giúp đỡ mọi người vượt qua nỗi khổ niềm đau để đạt được an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
(Xem: 7510)
Trung-quán-luận hay Trung-quán Ngâm khúc (Madhyamaka-káriká) là một tập thơ của Nàgàrjuna để giảng Giáo lý của đức Phật.
(Xem: 12788)
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
(Xem: 7849)
Các thí dụ trình bày trong bản kinh này đều gần gũi với sự vật, hiện tượng xảy ra, liên hệ trực tiếp đến đời sống con nguời.
(Xem: 8102)
Bài chuyển ngữ dưới đây sẽ tiếp tục đưa chúng ta bước vào một thế giới khác của vấn đề này liên quan đến các hiểu biết khoa học tân tiến ngày nay.
(Xem: 14055)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên đã là cuốn sách làm say mê độc giả một thời, ấy là vì nó là lời tự bạch của một thế hệ...
(Xem: 7283)
Tổ Chức Y Tế Thế Giới (OMS / WHO) định nghĩa sức khoẻ là một "thể dạng an vui toàn diện, từ thể xác đến tâm thần và cả cuộc sống trong xã hội
(Xem: 9185)
Trong Thiện kiến tì-bà-sa cũng có thuyết này, nhưng vì độ người nữ xuất gia nên tổn chính pháp năm trăm năm.
(Xem: 9656)
“Sắc tức là không, không tức là sắc” được trích ra từ kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đã được tinh giản, công thức hóa và xem như một thành ngữ.
(Xem: 13102)
Hiện nay Phật giáo có tiếng nói vô cùng quan trọng đối với Liên hiệp quốc, vì đã đánh thức được lương tri, lương tâm con người.
(Xem: 7589)
Nếu không có ngã, sự liên quan giữa một hành nghiệp và kết quả của nó là điều không thể có, vì nếu tác giả của một hành nghiệp chết, ai sẽ có kết quả?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant