Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Khảo Cứu Tịnh Độ Luận Của Thế Thân

21 Tháng Sáu 201300:00(Xem: 8884)
Khảo Cứu Tịnh Độ Luận Của Thế Thân

Khảo Cứu Tịnh Độ Luận Của Thế Thân

Thích Nguyên Hiền


the_thanI. Tổng luận

 “Tịnh độ tam kinh nhất luận” là một thành ngữ rất phổ biến nói về những kinh luận y cứ của pháp môn Tịnh độ. Ba bộ kinh và một bộ luận vốn không phải nhiều, chưa nói luận thường phải nhiều hơn kinh. Ở đây có đến ba bộ kinh (Vô lượng thọ, Quán vô lượng thọPhật thuyết A Di Đà kinh) nhưng chỉ một bộ luận, (Vãng sanh Tịnh độ luận), và bộ luận ấy cũng chỉ vỏn vẹn có vài trang trong Đại tạng, thế nhưng đó là bộ luận quan trọng, làm chỗ y cứ của một tông phái, hẳn cần được khảo cứu xác đáng.

Thế Thân, tác giả của bộ luận này vốn là một khai sĩ có quá nhiều truyền thuyết và ít nhiều sương khói trùm lên tiểu sử của ngài, đến nỗi cho đến nay, các học giả cũng chưa xác định được Thế Thân là ai. Đâu là tác giả của Câu xá luận thuộc Hữu bộ và đâu là luận sư của Du già hành phái? Hơn nữa, anh em nhà Bà Tẩu Bàn Đậu vốn thiên hướng tín ngưỡng Di Lặc, Thế Thân sau soạn Tịnh độ luận thiên hướng vãng sanh Tịnh độ Cực Lạc của Phật A Di Đà, qua đó ít nhiều đọng lại chút hoang mang đối với người đọc Vãng sanh Tịnh độ luận của Thế Thân.

Tịnh độ không gì khác hơn là tịnh hóa nhân tâm và tịnh hóa quốc độ. Xu hướng này trở thành ý nghĩa căn bản của các học thuyết Đại thừa, từ Hoa Nghiêm đến Pháp Hoa, từ Duy Ma đến Thắng Man, cộng thêm chút huyền học Ấn Độ làm cho văn hóa bản tích đan xen vào nhau, đôi khi không phân biệt được đâu là bản môn đâu là tích môn. Đành rằng thùy tích hiển bản, đôi khi bản tích bất nhị. Từ đó dệt nên tông phái. Tư tưởng khai phóng có khi được chọn làm thực tiễn tu hành, tín ngưỡng bản địa kết hợp với năng lượng tu chứng đôi lúc trở thành chủ lưu của pháp môn giáo học, và người đời sau thông qua khả năng diễn dịch tuyệt vời của các bộ óc Trung Hoa, sự chân xác có khi làm hoang mang không ít những người có thiện tâm khảo cứu.

Người học Phật có thể bước qua huyền thoại, bước qua lịch sử để tìm đến áo nghĩa của những trang kinh luận mà người xưa để lại, bao nhiêu vị tổ đã thành tựu pháp môn. Khổ nỗi người học đời sau vẫn thích bới lông tìm vết, cái đầu óc nhị nguyên đã làm hao tốn bao nhiêu giấy mực của cuộc đời. Với người viết bài này, niềm thành tín vẫn bất tuyệt giữa bình sinh, chỉ xin góp nhặt đôi điều lượm lặt đó đây như một lần xác tín cho bản thân mình trên lộ trình quy hướng.

 II. Ai là tác giả của Vãng sanh Tịnh độ luận

Theo sử liệu và theo khảo chứng của các học giả hiện đại thì ta được biết có đến ba vị mang tên Thế Thân (Vasubandhu). Vị thứ nhất là tổ thứ 21 được phó pháp tạng. Ngài người thành La Duyệt, họ Tì xá khư. Cha ngài tên là Quang Cái, mẹ ngài tên là Nghiêm Nhất. Theo Phó pháp tạng nhân duyên truyện quyển 6, cha mẹ ngài vốn rất giàu có nhưng không có con nối dõi. Ông bà bèn đến tháp Phật khẩn cầu. Một đêm, mẹ ngài nằm mộng thấy bà nuốt hai viên ngọc, một sáng một tối, sau đó bà mang thai, sanh ra một người con trai, tức tôn giả Bà Tu Bàn Đầu. Năm 15 tuổi ngài cầu la hán Quang Độ xuất gia, cảm được bồ tát Tỳ Bà Ha trao cho giới pháp.

Khi chưa thờ ngài Xà Dạ Đa làm thầy, ngài thường ăn một bữa, ngồi và không nằm, ngày đêm sáu thời lễ Phật, thanh tịnh vô dục, làm chỗ nương tựa cho mọi người. Tôn giả Xà Dạ Đa muốn độ ngài, liền nói với chúng rằng: “Ta không cầu đạo, cũng không điên đảo; ta không lễ Phật, cũng không khinh mạn; ta không ngồi hoài, cũng không lười nhác; ta không ăn ngọ, cũng không tạp thực; ta không tri túc, cũng không tham dục. Tâm không mong cầu đó gọi là đạo” (Theo Cảnh đức truyền đăng lục, Đại 51, 213 thượng).

 Bà Tu Bàn Đầu nghe lời tôn giả nói liền phát sanh trí vô lậu, sau được kế thừa y bát của ngài Xà Dạ Đa, truyền bá kinh tạng độ khắp chúng sanh. Khi hành hóa đến nước Hậu Na Đề, ngài phó pháp cho ngài Ma Nô La rồi ngồi kiết già thị tịch.

Thực ra, hai mươi tám vị tổ được nói trong Phó pháp tạng nhân duyên truyện khá nổi tiếng và được lưu truyền rộng rãi, trong đó có danh hiệu Thế Thân, có thể khiến những người ít am tường sử liệu sẽ lầm lẫn, chứ vị tổ thứ 21 này chẳng dính dáng gì đến Tịnh độ luận, thậm chí cũng chẳng có tác phẩm nào để lại. Thiên Thai tôngThiền tông đều xem trọng Phó pháp tạng nhân duyên này của ngài Đàm Diệu dịch, thêm vào khá nhiều những giai thoại mang màu sắc truyền thừatư tưởng đốn ngộ như Cảnh đức truyền đăng lục đã ghi lại. Còn tính xác thực của tác phẩm này vẫn còn nhiều tranh cãi. Theo ngài Minh Giáo Khế Tung đời Tống, tác phẩm này có nhiều chỗ giống A Dục Vương truyện, có thể không phải phiên dịch từ bản Phạn, mà là theo khẩu truyền hoặc tham chiếu A Dục Vương truyện mà soạn ra. Vấn đề ở đây không bàn về tính xác thực của tác phẩm, mà điều quan trọng là ngài Thế Thân, tổ 21 được phó pháp tạng hoàn toàn không dính dáng gì đến Tịnh độ luận đã nêu cả.

Vị thứ hai được đề cập ở đây là Thế Thân, đại luận sư Ấn Độ, sống vào khoảng thế kỷ thứ 4, người thành Phú Lâu Sa Phú La, nước Kiền Đà La thuộc bắc Ấn Độ, là con thứ hai của quốc sư bà la môn Kiều Thi Ca. Lúc đầu, ngài cùng với anh là Vô Trước (Asanga) học Tát bà đa bộ (Hữu bộ), ngài Vô Trước học thẳng vào Đại thừa, ngài Thế Thân lại đi vào Kinh lượng bộ, lập chí cải thiện giáo nghĩa Hữu bộ. Ngài đến nước Ca Thấp Di La nghiên cứu luận Đại tỳ bà sa. Được bốn năm, ngài trở về nước, giảng dạy Tỳ bà sa cho đại chúng, đồng thời soạn luận A tì đạt ma câu xá. Lúc đầu ngài công kích Phật giáo Đại thừa, cho rằng Đại thừa chẳng phải là pháp do Phật nói. Sau nhờ ngài Vô Trước dùng phương tiện khai thị, ngài mới ngộ được lý Đại thừa, chuyển sang tin tưởng, tôn thờ và hoằng dương yếu nghĩa Đại thừa. Theo Bà Tẩu Bàn Đậu pháp sư truyện, trước đó ngài soạn 500 bộ luận Tiểu thừaphỉ báng Đại thừa. Sau khi được Vô Trước chuyển hóa, ngài dự định cắt lưỡi để sám hối tội lỗi của mình. Vô trước bảo: “Trước đây em dùng chính cái lưỡi này để phỉ báng Đại thừa, vậy thì bây giờ em dùng chính ba tấc lưỡi này để xiển dương Đại thừa”. Nhờ đó ngài được người đời sau tôn xưng là Thiên tạo luận chủ. Thế Thân được gọi là Thiên Thân cũng từ đó.

 Những tác phẩm ngài gồm hơn 40 loại, trong đó nổi tiếng là các bộ luận Câu xá (30 quyển), Nhiếp Đại thừa thích luận (15 quyển), Kim cương bát nhã ba la mật kinh luận, Quảng bách luận, Bồ đề tâm luận, Duy thức tam thập tụng luận, Đại Thừa bách pháp minh môn luận, Vô lượng thọ kinh ưu ba đà

Tất cả những điều ghi trên là rút ra từ Bà Tẩu Bàn Đậu pháp sư truyện do ngài Chân Đế dịch vào đời Trần thuộc Nam Triều, được xếp vào Đại chánh tạng tập 50. Ngài Chân Đế (Paramãrtha) sinh năm 499, viên tịch 569, cách xa thời đại của Thế Thân gần 200 năm. Chân Đế là một trong tứ đại dịch gia của Trung Quốc, từng tham học với nhiều danh sưẤn Độ, làu thông tam tạng, thấu suốt diệu lý Đại thừa trước khi sang Trung Quốc vào năm 546 đời Lương. Vì danh tiếng cũng như uy tín của ngài như thế, cho nên ít có ai đặt câu hỏi tác giả của những bộ luận do ngài dịch. Ngài dịch hầu hết các tác phẩm của Thế Thân và những đại luận sư khác, trong đó có luậnChuyển thức, luậnĐại thừa Duy thức, kinhKim quang minh, luậnNhiếp Đại thừa, Nhiếp Đại thừa luận thích, luậnNhị thập nhị minh liễu, luậnTrung biên phân biệt, luậnThập thất địa (bộ luận này rút ra từ luận Du già sư địa), Câu xá luận thích, luậnĐại thừa khởi tín. Ảnh hưởng của những dịch phẩm của ngài rất lớn, nhờ vậy mà ngài được tôn là tổ của Tông nhiếp luận.

Vấn đề đặt ra là đối với Thế Thân, người được ngài Vô Trước khai thị để chuyển từ Tiểu thừa sang Đại thừa, có thể khác nhau về tư tưởng trước và sau. Nhưng ngài Chân Đế là người đi sau, về tư tưởng tất nhiên là có chọn lựa, hà cớ gì phải dịch nhiều kinh luận có nội dung tư tưởng có khi mâu thuẫn nhau như thế? Phải chăng có đến hai người tên Thế Thân với hai nguồn tư tưởng khác nhau, do trùng tên nên bị ghép làm một, rồi được giai thoại hóa qua câu chuyện cắt lưỡi để giải thích sự mâu thuẫn này? Người soạn Câu xá luận với những pháp số khúc chiết so với tinh thần khai phóng triệt để của Đại thừa, hẳn phải cho ta ít nhiều hoài nghi về tác giả của nó. Học giả E. Frauwallner trong tác phẩm On the date of the Buddhist master of the Law Vasubandhu (Về niên đại của luận sư Thế Thân) đã chỉ ra điều này. Theo ông, tác giả luận Câu xáluận sư của phái Nhất thiết hữu bộ, tạm gọi là tân Thế Thân. Còn em của Vô Trướcluận sư của Du già hành phái, tạm gọi là cổ Thế Thân. Trong bộ Bà Tẩu Bàn Đậu pháp sư truyện, ngài Chân Đế đã nhầm lẫn hai người là một. Phần chủ yếu giữa sách là tư liệu của ngài tân Thế Thân, còn phần trước và sau là tư liệu của ngài cổ Thế Thân. Cổ Thế Thân là con của Kiều Thi Ca, ở thành Phú Lâu Sa Phú La, sau khi xuất gia theo học thuyết của phái Nhất thiết hữu bộ, sau chuyển sang tu theo Đại thừa, niên đại vào khoảng năm 320-380. Còn tân Thế Thân thì thờ ngài Phật Đà Mật Đà La làm thầy, thuộc Hữu bộ, nhưng lại có khuynh hướng Kinh lượng bộ. Theo truyền thuyết, ngài rất được Chính Cần Nhật Vương và thái tử Bà La Châu Để Dã (bàlàditya) đãi ngộ. Niên đại của ngài vào khoảng năm 400-480. Luận Câu xá, luận Thất thật chân thật đều do ngài tân Thế Thân soạn.

Như vậy đã rõ, Thế Thân em ngài Vô TrướcThế Thân tác giả luận Câu xá là hai người. Vấn đề ai là tác giả của Tịnh độ luận? Nhìn chung ai cũng có thể đoán định Tịnh độ luậntác phẩm của cổ Thế Thân. Ở đây chỉ xin góp thêm ý kiến để xác quyết tác giả của bộ luận ấy mà thôi!

Tịnh độ luậncòn gọi là Vãng sanh Tịnh độ luận, nhằm tránh nhầm lẫn Tịnh độ luận của ngài Ca Tài, vốn cũng là một tác phẩm nổi tiếng được soạn vào đời Đường, được xếp vào Đại chánh tạng tập 47. Ca TàiThiện Đạo là những vị cao tăng đều kế thừa Tịnh độ giáo của ngài Đạo Xước một cách sinh động. Nội dung đánh giá về báo hóa của Tịnh độ giáo, Cực Lạc và các phẩm vãng sanh, nêu ra lý chứng và các trường hợp có thật để nói về khả năng vãng sanh của phàm phu. Cách trình bày luận này bằng hình thức vấn đáp, hoàn toàn khác với luận Tịnh độ của Thế Thân trong đại tạng có tên gọi Vô lượng thọ kinh ưu ba đà xá nguyện sanh kệ.

Ưu ba đà(upadesá) có nghĩa là luận, luận nghĩa, chú giải chương cú. Tên tác phẩm cho thấy đây là những bài kệ nhằm luận giải kinh Vô lượng thọ, một bản kinh nói về Tịnh độ Cực Lạc của đức Phật A Di Đà. Anh em nhà Bà Tẩu Bàn Đậuxu hướng quy hướng về Tịnh độ rất rõ rệt. Tuy nhiên Tịnh độ của các ngài hướng đến là Tịnh độ Đâu Suất của bồ tát Di Lặc.

Theo điều A du đà quốc trong Đại Đường Tây Vực kí 5, thì cả ba vị Sư Tử Giác, Vô TrướcThế Thân từng dặn nhau: “Tất cả sự nghiệp tu hành của chúng ta đều nguyện được hầu cận đức Từ Thị, nếu ai xả bỏ thân này trước và được thành tựu tâm nguyện xưa thì nên trở lại báo tin cho nhau để biết có được sanh về Đâu Suất hay không” (Đại chánh tạng tập 51, 896 hạ). Về sau Sư Tử Giác tịch trước, nhưng đã ba năm sau mà vẫn chưa thấy về báo tin. Lúc này các học phái đều chê bai họ. Có phải đây là lý doThế Thân chuyển sang quy hướng Tịnh độ Cực Lạc của Phật A Di Đà?

Có một chi tiết trong Đại chánh tạng tập 26 khiến người viết để ý là hầu hết các bộ luận trong phần mục lục đều ghi là: “Thiên Thân bồ tát tạo”. Riêng Diệu pháp liên hoa kinh ưu ba đàVô lượng thọ kinh ưu ba đà lại được ghi là do Bà Tẩu Bàn Đậu bồ tát tạo. Rõ ràng Thiên ThânBà Tẩu Bàn Đậu là hai người khác nhau. Ba anh em nhà Vô Trước, Thế ThânSư Tử Giác đều cùng họ là Bà Tẩu Bàn Đậu. Nhưng Thế Thân quá nổi tiếng, các kinh luận chữ Hán thường gọi Vô TrướcSư Tử Giác bằng tên Hán, còn Thế Thân thì được gọi là Bà Tẩu Bàn Đậu. Đây là luận cứ mà người viết cho rằng tác phẩm Tịnh độ luận là của cổ Thế Thân, anh em nhà Bà Tẩu Bàn Đậu chứ không phải tân Thế Thân, tác giả luận Câu xá. Điều này cũng giải quyết được thắc mắc tại sao một bậc đại tác gia của luận Câu xá vốn thiên về Tiểu thừa lại soạn Tịnh độ luận quy hướng về Tịnh độ Cực Lạc, vốn không phải là truyền thống của các kinh điển Tiểu thừa.

 

III. Khảo cứu Tịnh độ luận

Như trên đã nói, Tịnh độ luận, tên gọi đầy đủ là Vô lượng thọ kinh ưu ba đề xá nguyện sanh kệ (Kệ phát nguyện vãng sanh của ngài Thế Thân khi luận giải kinh Vô lượng thọ). Nói một cách dễ hiểu, đại sư Thế Thân đã dùng hình thức kệ tụng để tổng thuyết toàn bộ chương cú trong kinh Vô lượng thọ, như phần cuối của kệ tụng ngài đã nói rõ. Như vậy, ở đây trước hết nên xem phần kệ tụng ấy như thế nào. Toàn bộ phần kệ tụng gồm 96 câu, cũng có thể hiểu nó gồm 48 câu (tương ứng với 48 nguyện của Phật A Di Đà), mỗi câu chia làm 2 cụm, tạo thành 96 câu, mỗi câu 5 chữ, tổng cộng 480 chữ. Ở đây người viết không có ý dịch sát từng chữ, bởi chữ Hán quá hàm súc, nên ở đây xin diễn dịch thành 7 chữ, cốt dễ hiểu và dễ diễn dịch ý tưởng của tác giả:

NGUYỆN SANH KỆ

Kính bạch Thế Tôn! Con nhất tâm

Quy mạng đảnh lễ khắp mười phương

Đức Như Lai hào quang vô ngại

Nguyện vãng sanh về nước An Lạc.

Con nguyện tu tập theo kinh này

Công đức tướng thanh tịnh chân thật

Con nói nguyện vãng sanh bằng kệ

Tương ưng những lời đức Phật dạy.

Quán tưởng chân tướng thế giới kia

Thù thắng hơn tướng của ba cõi

Cõi ấy rốt ráo như hư không

Rộng lớn vô biên không ngằn mé.

Con đường chánh đạo đại từ bi

Phát sanh thiện căn xuất thế gian

Đầy đủ ánh hào quang minh tịnh

Như mặt trời mặt trăng sáng tỏ

Chứa đầy tánh trân bảo quý giá

Viên mãn tánh trang nghiêm vi diệu

Ánh sáng không cấu nhiễm rạng ngời

Chiếu soi tất cả khắp thế gian

Tính quý báu của cỏ công đức

Mềm mại xoay khắp hướng phải trái

Chạm vào liền phát sanh niềm vui

Như lông chim ca chiên lân đà

Ở đó hàng vạn giống hoa quý

Mọc cả ở bờ ao mép suối

Mỗi khi có gió nhẹ thổi qua

Ánh sáng muôn hoa lung linh chiếu

Đứng trên lầu gác các cung điện

Thấy tất cả mười phương vô ngại

Những hàng cây báu sáng nhiều màu

Những hàng lan can báu bao quanh

Muôn ngàn của báu sáng giao nhau

Bủa khắp hư không như màng lưới

Âm thanh của vô vàn linh báu

Vang lên như tuyên xướng pháp âm

Áo hoa trên rải xuống như mưa

Xông lên mùi hương thơm bất tận

Mặt trời trí tuệ của đức Phật

Phá trừ si ám của thế gian

Âm thanh đại phạm vọng sâu xa 

Vang rền khắp tất cả mười phương

Bậc chánh giác hiệu A Di Đà

Đấng Pháp vương trụ trì chánh pháp

Chúng tịnh hoa của đức Như Lai

Từ nơi hoa chánh giác hóa sanh

Ưa thích hương vị của Phật pháp

Tam muộithức ăn ngon lành

Lìa xa phiền não của thân tâm

Hưởng thọ niềm an lạc bất tuyệt.

Đây là cảnh giới căn Đại thừa

Không có mảy may chút hiềm khích

Các hàng nữ nhân và căn thiếu

Đến Nhị thừa cũng chẳng vãng sanh

Nếu chúng sanh nào nguyện ưu thích

Tất sẽ được đầy đủ tất cả

Vì thế hôm nay con phát nguyện

Vãng sanh A Di Đà Phật quốc.

Đức Phật vô lượng đại bảo vương

Đài hoa vi diệuthanh tịnh

Tướng hảo soi sáng xa một tầm

Sắc tượng quang minh siêu khắp chúng.

Âm thanh vi diệu của Như Lai

Vang xa đồng vọng khắp mười phương

Trống trơn như đất nước gió lửa

Hết thảy vang rền không phân biệt .

Đại chúng bất động của cõi trời

Sanh từ biển trí tuệ thanh tịnh

Cao vút như đỉnh núi Tu Di

Thù thắng vi diệu không chi bằng.

Thánh chúng trượng phucõi trời

Cung kính nhiễu quanh cùng chiêm ngưỡng

Quán trông bổn nguyện lực của Phật

Độ khắp không bỏ chúng sanh nào.

Khiến những chúng sanh ấy đầy đủ

Công đức bao trùm như biển lớn

Sự thanh tịnh của cõi An Lạc

Thường xoay chuyển pháp luân vô cấu

Mặt trời hóa Phậtbồ tát

Sừng sững như thể núi Tu Di

Ánh sáng trang nghiêmvô cấu

Ngay trong một niệm trong một thời

Chiếu soi khắp các hội của Phật

Lợi lạc khắp tất cả quần sanh.

Áo hoa thiên nhạc rải như mưa

Sực nức hương thơm dâng cúng dường

Tán thán công đức của chư Phật

Không một mảy may tâm phân biệt.

Thế giới nào không có Phật pháp

Không có vô lượng công đức bảo

Con đều xin nguyện đến nơi đó

Khai thị Phật pháp như đức Phật.

Con nay làm luận và thuyết kệ

Nguyện thấy đức Phật A Di Đà

Nguyện cùng khắp tất cả chúng sanh

Vãng sanh về cõi nước An Lạc.

 Ngài Thế Thân đã dùng kệ để luận thuyết toàn bộ chương cú của kinh Vô lượng thọ. Từ cơ sở đó, tác giả bắt đầu luận giải ý nghĩa của kinh. Ý nghĩa của kinh là gì? Ngài giải thích: “Quán An Lạc thế giới thấy đức Phật A Di Đà, rồi nguyện vãng sanh về thế giới ấy”. Như vậy quán nghĩa là gì? Phát sanh niềm tin là như thế nào? Ngài viết: “Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân thành tựu ngũ niệm môn thì rốt ráo sẽ được vãng sanh nước An Lạc, thấy Đức phật A Di Đà”. Ngũ niệm môn gồm: Lễ bái, tán thán, tác nguyện, quán sát, hồi hướng.

Lễ báilà dùng thân nghiệp thanh tịnh nhất tâm cung kính lễ bái đức Phật A Di Đà, nguyện sanh về cõi nước của ngài.

Tán thán là dùng khẩu nghiệp thanh tịnh, xưng tán danh hiệu, công đức, trí tướng quang minh của đức Phật A Di Đà, tu hành chân thật cầu sanh về cõi nước của ngài.

Tác nguyệnlà tâm thường phát nguyện, tu hành pháp chỉ (xa ma tha) để dứt tâm tán loạn, cầu sanh về cõi nước của đức Phật A Di Đà.

Quán sátlà dùng trí tuệ chánh niệm quán tưởng ba điều sau đây:

a. Quán sát công đức trang nghiêm cõi nước của Phật A Di Đà.

b. Quán sát công đức trang nghiêm của đức Phật A Di Đà.

c. Quán sát công đức trang nghiêm của các vị bồ tát ở cõi đó.

Tu hành pháp quán Tì bà xá na (Vipasyama) để soi phá tâm mê mờ, cầu sanh Tịnh độ.

Hồi hướnglà không bỏ tất cả khổ não của chúng sanh, tâm thường cùng với tất cả chúng sanh nguyện sanh về nước An Lạc. Nếu có chút công đức thiện căn nào đều dùng phương tiện thiện xảo giúp họ tác nguyện hồi hướng, nhiếp thủ họ không xả bỏ tất cả chúng sanh, lấy hồi hướng làm đầu, thành tựu tâm đại bi.

Trên đây là ngũ niệm môn nói trong Tịnh độ luận của Thế Thân. Theo Vãng sanh lễ tán của ngài Thiện Đạo, thứ vị của 5 niệm môn là: 1. Thân nghiệp lễ bái môn; 2. Khẩu nghiệp tán thán môn; 3. Ý nghiệp ức niệm quán sát môn; 4. Tác nguyện môn; 5. Hồi hướng môn. Nói chung, ba môn trước là tu ba nghiệp thân, miệng, ý; hai môn sau là phát nguyện hồi hướng. Nghĩa là ba môn trước khởi hành; hai môn sau an tâm.

Nếu tu theo ngũ niệm môn thì được kết quả có năm môn công đức như sau:

Cận môn: Thân không trở lại đọa vào cõi mê mà được gần cảnh giới giác ngộ của Phật.

Đại hội chúng môn: Được xếp vào hàng thánh.

Trạch môn: Thành tựu được pháp Chỉ.

Ốc môn: Thành tựu được pháp Quán.

Viên lâm du hí môn: (còn gọi giáo hóa địa chi môn): Nghĩa là trở lại cõi mê, lấy việc cứu độ tất cả chúng sanh làm niềm vui.

Theo Tịnh độ luận, trong năm môn trên, bốn môn trước thành tựu nhập công đức, môn thứ năm thành tựu xuất công đức (Đại 26, 233 thượng). Lấy việc lễ bái đức Phật A Di Đà cầu sanh Phật quốc. Do được vãng sanh về thế giới Cực Lạc nên gọi là Nhập đệ nhất môn. Lấy việc tán thán đức Phật A Di Đà, tùy thuận danh nghĩaxưng tán danh hiệu Như Lai, nương theo ánh sáng Như Lai mà biết tướng tu hành, được nhập vào số đông của Thánh chúng nên gọi là nhập đệ nhị môn. Lấy việc nhất tâm niệm Phật, tác nguyện vãng sanh, tu xa ma tha, tịch tĩnh tam muội, được nhập vào thế giới Liên Hoa tạng nên gọi là nhập đệ tam môn. Chuyên niệm quán sát sự vi diệu trang nghiêm của cõi nước đó, tu tì bà xá na, đến được xứ đó, thọ dụng vô vàn pháp vị an lạc nên gọi là nhập đệ tứ môn. Xuất đệ ngũ môn là dùng tâm đại từ bi quán sát tất cả khổ não của chúng sanh, hiển bày ứng hóa thân, hồi nhập vườn sanh tử, rừng phiền não, du hí thần thông, đến cảnh giới giáo hóa, đem bổn nguyện lực hồi hướng, đó gọi là xuất đệ ngũ môn. Bồ tát nhập vào tứ chủng môn, thành tựu hạnh tự lợi. Bồ tát tu ngũ hạnh môn như thế, thành tựu hạnh tự lợi lợi tha, mau chứng được vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Ngũ niệm môn được xem như pháp môn cốt tủy được trình bày trong Tịnh độ luận. Trong năm môn trên, chúng ta thấy việc lễ báiđứng đầu. Điều đó có thể thấy người tu pháp môn Tịnh độ phải lấy việc lễ bái đức Phật làm chính. Tất nhiên việc lễ bái phải vận dụng cả thân khẩu ý. Thân lễ Phật, miệng niệm Phật và ý tác nguyện. Tuy nhiên người niệm Phật phải thành tựu cả năm môn. Quán tưởnghồi hướng cũng là những điều kiện thiết yếu, thiếu hai môn sau thì pháp môn không trọn vẹn. Người đời sau thường khuyến tấn niệm Phật là đủ, là chánh hạnh vãng sanh, nhưng nếu không quán tưởnghồi hướng phát nguyện thì khó có thể thành tựu được pháp môn. Đây là yếu tố quan trọng để người xiển dương Tịnh độ cần lưu ý. Không thể quá phương tiện để đánh mất hạnh viên mãn đối với người tu niệm Phật vãng sanh. Ở Việt Nam hiện nay, nhiều đạo tràng xiển dương chánh hạnh niệm Phật mà không hướng dẫn lễ bái, quán tưởngphát nguyện hồi hướng, từ đó dắt dẫn hành giả tới chỗ cực đoan. Có thể họ nhầm lẫn khái niệm quán tưởng như là một pháp môn dành cho hành giả tu thiền, nên giới hạn người tu niệm Phật trong sự hành trì thiếu giáo quán, một hạnh cực kì quan trọng trong năm hạnh, cho nên người niệm Phật lâu ngày trở nên trơ pháp, không phát khởi được pháp vị an lạc và ngày càng rơi vào chỗ cực đoan, chấp trước. Thái độ cực đoan chỉ có khi hành giả không thật sự thấy được niềm vui pháp lạc, hoàn toàn mù mịt về cảnh giới mà họ đang hướng vọng, đâm ra bán tín bán nghi. Người viết nghĩ rằng đạo tràng cần tìm người trực tiếp hướng dẫn hành giả tu quán một cách tích cực, chắc chắn lợi ích sẽ rất lớn lao.

Trở lại phần quán tưởng, nên biết ngoài ngũ niệm môn như nội dung chính của Tịnh độ luận, đại sư Thế Thân đã trình bày rất kĩ về quán sát môn, thông qua đó để giải thích những ý tưởng trong Nguyện sanh kệ. Như trên đã nói, quán sát là dùng trí tuệ chánh niệm quán tưởng công đức trang nghiêm của cõi nước Phật A Di Đà, của đức Phật A Di Đà và của các vị bồ tát ở cõi nước đó. Nhiều người cho rằng hàng hạ căn phàm phu thời nay khó mà tu quán cho được, nên chỉ dùng khẩu nghiệp chuyên niệm Phật. Đó là quan điểm sai lầm. Bởi ai cũng có thể tu quán được cả, vấn đề là bậc thầy có hướng dẫn cho họ không, bởi bất kỳ pháp môn nào cũng dựa trên nền tảng chỉ và quán. Định và huệ phải tương ưng, nhờ đó sẽ không rơi vào thiên chấp.

Như vậy Quán là quán những gì? Quán như thế nào? Luận (Đại 26, 231 trung) ghi: Thế nào gọi là quán công đức trang nghiêm của cõi Phật kia? Công đức trang nghiêm của cõi Phật kia thành tựu năng lực không thể nghĩ bàn. Như tính chất quý báu của ma ni như ý châu, tương tợ như vậy. Quán công đức trang nghiêm của cõi Phật kia có mười bảy y báo thù thắng:

Thanh tịnh công đức thành tựu: Đây là ý của câu kệ: “Quán tưởng chân tướng thế giới kia. Thù thắng hơn tướng của ba cõi”. Kinh Pháp hoa nói: “ Tam giới bất an do như hỏa trạch”. Ba cõi không yên như ở trong nhà lửa. Thế giới Cực lạc của đức Phật A Di Đà thanh tịnh thù thắng, an lạc không hề nghe tiếng khổ. Quán tưởng như vậy thì không có gì khó, chỉ cần người hướng dẫn tìm phương tiện thiện xảo để ví dụ cho hành giả hiểu được mà thôi. 

Lượng công đức thành tựu: Đây là ý nghĩa của câu kệ: “ Cõi ấy rốt ráo như hư không. Rộng lớn vô biên không ngằn mé”. Cõi nước Cực Lạc vô biên không giới hạn, rỗng rang như hư không, không bị gò nỗng nhấp nhô, không bị động đất sóng thần. Bản chú thích này trong Đại chánh tạng có ghi thêm chữ “vô” trước chữ “lượng”, chúng tôi cho rằng không đúng. “Lượng” ở đây là chất lượng, là năng lượng, không phải là số lượng, vì thế không thể thêm chữ “vô” ở trước được.

Tánh công đức thành tựu: Đây là ý nghĩa của câu kệ: “Con đường chánh đạo đại từ bi. Phát sanh thiện căn xuất thế gian”. Tánh của Ta bà là làm phát sanh những căn khí thế gian. Còn tánh của Cực Lạc là làm sanh trưởng những thiện căn xuất thế. Đây cũng chính là công đức thù thắng của thế giới Cực Lạc.

Hình tướng công đức thành tựu: Đây là ý nghĩa của câu kệ: “Đầy đủ ánh hào quang minh tịnh. Như mặt trời mặt trăng sáng tỏ”. Hào quang của chư Phật, chư bồ tát chói sáng như mặt trời mặt trăng, không bị chướng ngại, che lấp bởi mây mờ của thế gian.

Chủng chủng sự công đức thành tựu: Đây là ý nghĩa của câu kệ: “Đầy đủ tánh trân bảo quý giá, viên mãn tánh trang nghiêm vi diệu”. Những vật dụng, cảnh giớiCực Lạc đều do bảy báu trang nghiêm, vi diệu tạo nên.

Diệu sắc công đức thành tựu: Đây là ý nghĩa của câu kệ: “Ánh sáng không cấu nhiễm rạng ngời. Chiếu soi khắp tất cả thế gian”. Quán ánh sáng của Tịnh độđức Phật A Di Đà là vô cấu, chiếu soi tất cả. Vô cấu ở đây có nghĩa là không gay gắt, không làm ta khó chịu, không bị ngăn che bởi những chướng ngại vật lý.

Xúc công đức thành tựu: Đây là ý nghĩa của câu kệ: “Tính quý báu của cỏ công đức, mềm mại xoay khắp hướng phải trái. Chạm vào liền phát sanh niệm vui. Như lông chim ca chiên lân đà”. Dịch “phải trái” là muốn bám sát văn (tả hữu tuyền), nên hiểu là xung quanh. Mọi y báo của Tịnh độ đều do chánh báu lưu xuất. Cỏ cũng do công đức phát sanh ra, nên rất vi diệu. Người chạm vào cỏ này cũng phát sanh được niềm vui. Ca chiên lân đà (Kakilindi), Hán dịch là thật khả ái điểu, một loài chim có thể sống dưới nước, lông của nó mềm mịn, được dùng để dệt vải may áo. Trương truyền y phục may bằng lông chim này chỉ dành cho bậc chuyển luân thánh vương.

Trang nghiêm công đức thành tựu: có ba loại: Nước, đất và hư không. Nước trang nghiêm tương ưng với câu kệ: “Ở đó hàng vạn giống hoa quý. Mọc cả ở bờ ao mép suối. Mỗi khi có gió nhẹ thổi qua, ánh sáng muôn hoa lung linh chiếu”. Đất trang nghiêm tương ưng với câu kệ: “Đứng trên lầu gác các cung điện. Thấy tất cả mười phương vô ngại. Những hàng cây báu sáng nhiều màu, những hàng lan can báu bao quanh”. Hư không trang nghiêm tương ưng với câu kệ: “Muôn ngàn của báu sáng giao nhau. Bủa khắp hư không như mành lưới. Âm thanh của vô vàn linh báu. Vang lên như tuyên xướng pháp âm”. Đây đều là những y báo mà kinh Vô lượng thọ và kinh A Di Đà đều có nói rõ. Hành giả quán tưởng những cảnh giới này không khó. Quan trọng là phải thực tập loại trừ kiến chấp nhị biên, vật lý của thế gian để pháp quán dễ thành tựu.

công đức thành tựu: Đây là ý nghĩa của câu kệ: “Áo hoa trên rải xuống như mưa. Xông lên mùi hương thơm bất tận”. (Vũ hoa y trang nghiêm, vô lượng hương phổ huân). Câu này lẽ ra phải dịch là “mưa hoa y trang nghiêm…”, nhưng khái niệm mưa áo hoa có vẻ không đẹp, khó cảm, vì thế người viết tạm dịch là áo hoa rải xuống như mưa, dễ quán hơn.

Quang minh công đức thành tựu: Đây là ý nghĩa câu kệ: “Mặt trời trí tuệ của đức Phật. Phá trừ si ám của thế gian”. Khi ánh sáng trí tuệ chiếu soi, những phiền não tham sân si dứt bặt. Đây là phép quán rất căn bản, hành giả chỉ cần dụng tâm quán chiếu thì hiệu quả tức thì.

Diệu thanh công đức thành tựu: Đây là ý nghĩa câu kệ: “Âm thanh đại phạm vọng sâu xa. Vang rền khắp tất cả mười phương”. Phạm âm thanh tướng là một trong ba mươi hai tướng tốt của chư Phật. Đức Phật A Di Đà dùng phạm âm thanh tướng thuyết pháp, âm thanh vang rền, khắp chốn đều được nghe nhưng không bị chói tai.

Chủ công đức thành tựu: Đây là ý nghĩa câu kệ: “Bậc chánh giác hiệu A Di Đà. Đấng Pháp vương trụ trì chánh pháp”. Đức Phật A Di Đà là bậc Pháp vương khéo gìn giữ kho tàng chánh pháp. Trụ trì là “Trụ pháp vương gia, trì Như lai tạng”. Nhiều bản dịch đã hiểu sai ý này nên dịch là “Pháp vương khéo trụ trì”, không diễn rõ được ý nghĩa.

Quyến thuộc công đức thành tựu: Đây là ý nghĩa của câu kệ: “Chúng tịnh hoa của đức Như Lai. Từ nơi hoa chánh giác hóa sanh”. (Như Lai tịnh hoa chúng, chánh giác hoa hóa sanh). Chúng tịnh hoa nghĩa là chúng đã đạt được bảy loại tịnh hoa: 1. Giới tịnh; 2. Tâm tịnh; 3. Kiến tịnh; 4. Độ nghi tịnh; 5. Đạo phi đạo tri kiến tịnh; 6. Hành tri kiến tịnh; 7. Hành đạo tri kiến tịnh.

Thọ dụng công đức thành tựu: Đây là ý nghĩa của câu kệ: “Ưa thích hương vị của Phật pháp. Tam muộithức ăn ngon lành”. “Ái nhạo Phật pháp vị. Thiền tam muội vi thực”. “Thiền” (Dyanà) tĩnh lự, “tam muội” (Sanadhi) chánh định, dịch sát thì phải dùng cả hai, nhưng ở đây chỉ dịch chữ tam muội, thiết nghĩ cũng không làm mất nhiều ý nghĩa.

Vô chư nạn công đức thành tựu: đây là ý nghĩa của câu kệ: “Lìa xa phiền não của thân tâm. Hưởng thọ niềm an lạc bất tuyệt.” (Vĩnh ly thân tâm não. Thọ lạc thường vô gián). Vì niềm an lạc bất tuyệt nên cõi này được gọi là cõi An Lạc.

Đại nghĩa môn công đức thành tựu: Đây là ý nghĩa của câu kệ: “Đây là cảnh giới căn Đại thừa. Không có mảy may chút hiềm khích. Các hàng nữ nhân và căn thiếu. Đến Nhị thừa cũng chẳng vãng sanh”. Theo giải thích của Thế Thân (Đại 26,232 thượng): “Quả báo của Tịnh độ có hai loại cơ hiềm. Đó là thể và danh. Thể có ba loại: hàng nhị thừa; người nữ và hạng người các căn không đầy đủ. Ở Cực Lạc không có ba lỗi này nên gọi là “ly thể cơ hiềm danh”. Vả lại ba loại ở đây cũng chẳng phải có ba loại, mà là không nghe đến cái tên của ba loại (nhị thừa, nữ nhânchư căn bất cụ) ấy. Danh ở đây là lìa cả cái danh cơ hiềm (tư tưởng nhị biên của nhị thừa, tính dị nghị tật đố của người nữ và tính ngu ngơ của người sáu căn thiếu khuyết), bình đẳng nhất tướng.

Nhất thiết sở cầu công đức mãn túc thành tựu: Đây là ý nghĩa của câu kệ: “Nếu chúng sanh nào nguyện ưa thích. Tất sẽ được đầy đủ tất cả”. (Chúng sanh sở nguyện lạc. Nhất thiết năng mãn túc). Một trong những yếu tố cực kỳ quan trọng của người tu Tịnh độhân cầu, ưa thích. Nếu không hân cầu, ưa thích thì dù niệm Phật nhiều bao nhiêu cũng khó có thể thành tựu.

Như trên là lược nói mười bảy công đức trang nghiêm cõi nước Cực Lạc của đức Phật A Di Đà. Hiển bày thần lực công đức tự lợi của Như Lai, thành tựu công đức lợi tha. Sự trang nghiêm của cõi nước Phật Vô Lượng Thọ, đệ nhất nghĩa đế, diệu cảnh giới tướng đã được trình bày thứ tự trong 16 câu và một câu cuối.

Tiếp theo là trình bày phép quán thứ hai, quán công đức trang nghiêm của Phật A Di Đà. Có tám loại:

Tòa trang nghiêm: Đây là ý nghĩa của câu kệ: “Đức Phật Vô Lượng  Đại Bảo Vương. Đài hoa vi diệuthanh tịnh”. Tòa ngồi của đức Phật A Di Đàtòa sen vi diệu, thanh tịnh.

Thân trang nghiêm: Đây là ý nghĩa của câu kệ: “Tướng hảo soi sáng xa một tầm. Sắc tướng trang nghiêm siêu khắp chúng”. Đức tướng và sắc tướng của đức Phật trang nghiêm, đứng từ xa vẫn chiêm ngưỡng được sự trang nghiêm, sáng chói đó.

Khẩu trang nghiêm: Đây là ý nghĩa của câu kệ: “Âm thanh vi diệu của Như Lai. Vang xa đồng vọng khắp mười phương”. Khẩu trang nghiêm trong phần này tương đương với “Diệu thanh công đức tựu” trong phép quán trước.

Tâm trang nghiêm: Đây là ý nghĩa của câu kệ: “Hòa cùng đất nước gió và lửa, hết thảy vang rền không phân biệt ”. Vô phân biệt ở đây tức là tâm vô phân biệt.

Chúng trang nghiêm: Đây là ý nghĩa của câu: “Đại chúng bất động của cõi trời. Sanh từ biển trí tuệ thanh tịnh”. (Thiên nhân bất động chúng. Thanh tịnh trí hải sanh). Chúng bất động có nghĩa là thiên chúng đã thành tựu được Đại thừa căn, không còn bị giao động nữa.

Thượng thủ trang nghiêm: Đây là ý nghĩa câu kệ: “Cao vút như đỉnh núi Tu Di. Thù thắng thanh tịnh không chi bằng”.

Chủ trang nghiêm: Đây là ý nghĩa câu kệ: “Các chúng trượng phu trong cõi trời. Cung kính nhiễu quanh cùng chiêm ngưỡng.Thượng thủ trang nghiêmso sánh về sự cao tột. Còn chủ trang nghiêm là nói về nơi trọng tâm, giống mà khác.

Bất hư tác trụ trì trang nghiêm: Đây là ý nghĩa của câu kệ: “Quán trông bổn nguyện lực của Phật. Độ khắp không bỏ chúng sanh nào. Khiến những chúng sanh ấy được đầy đủ. Công đức bao trùm như biển lớn.” Nghĩa là thấy đức Phật cùng chư vị bồ tát chưa chứng tịnh tâm đều rốt ráo bình đẳng trong pháp thân. Bồ tát tịnh tâmbồ tát chưa chứng tịnh tâm cũng không khác. Tịnh tâm bồ tátthượng địa bồ tát (bồ tát thập địa) đều bình đẳng tịch diệt.

Trên đây là tám câu hiển bày công đức trang nghiêm tự lợi lợi tha của đức Như Lai thành tựu theo thứ lớp. Tám câu này cũng là đề mục quan trọng để hướng dẫn hành giả tu quán tưởng khi quy hướng Tịnh độ. Nói một cách dễ hiểu, mười bảy câu trước là quán y báo, tám câu sau là quán chánh báo của đức Phật A Di Đà. Tiếp theo là quán thánh chúng bồ tát ở cõi ấy.

Tức là quán công đức trang nghiêm thành tựu của bồ tát (Đại 26, 232 trung), cụ thể là quán bồ tát ở cõi ấy thành tựu công đức tu hành 4 chánh hạnh.

Trong mỗi cõi Phật, thân không hề lay động mà có thể ứng hóa vô vàn thân tướng trong khắp cõi mười phương, như thật tu hành, thường làm Phật sự. Đây là ý nghĩa câu kệ: “Sự thanh tịnh của cõi An Lạc. Thường xoay chuyển pháp luân vô cấu. Mặt trời hóa Phậtbồ tát. Sừng sững như thể núi Tu di”. Chư vị bồ tát này khai mở tuệ giác giác ngộ của chúng sanh như là khai mở hoa còn ứ đọng giữa bùn lầy.

 Ứng hóa thân của các bồ tát ở cõi ấy, trong tất cả thời không trước không sau, nhất tâm nhất niệm phóng đại quang minh, thảy đều đi khắp tất cả mười phương thế giới, giáo hóa chúng sanh, thi thiết bao nhiêu phương tiện tu hành, diệt trừ tất cả khổ não của chúng sanh. Đây là ý nghĩa của câu kệ: “Ánh sáng trang nghiêmvô cấu. Ngay trong một niệm trong một thời. Chiếu soi khắp các hội của Phật. Lợi lạc khắp tất cả quần sanh.”

Các vị bồ tát ấy, trong tất cả thế giới, không bỏ sót một thế giới nào, chiếu soi khắp đại chúng trong pháp hội của chư Phật, không bỏ sót một pháp hội nào, cúng dường rộng lớn, cung kính tán thán chư Phật Như Lai. Đây là ý nghĩa của câu kệ: “Áo hoa thiên nhạc rơi như mưa. Sực nức hương thơm dâng cúng dường. Tán thán công đức của chư Phật. Không một mảy may tâm phân biệt.”

 Các vị bồ tát ấy trong tất cả thế giới khắp mười phương, nơi nào không có tam bảo thì đến để trang nghiêm Phật, pháp, tăng tam bảo với công đức nhiều như biển lớn, thị hiện cùng khắp, khiến chúng sanh ở cõi ấy hiểu được Phật phápnhư thật tu hành. Đây là ý nghĩa câu kệ: “Thế giới nào không có Phật pháp, không có vô lượng công đức bảo. Con đều xin nguyện đến nơi đó. Khai thị Phật pháp như đức Phật”.

Như trên là bốn pháp quán công đức trang nghiêm của các bồ tátthế giới Cực Lạc. Như vậy là đã trọn vẹn niệm môn thứ tư trong ngũ niệm môn. Chỉ còn lại niệm môn thứ năm, cũng là niệm môn cực kỳ quan trọng đối với người tu pháp môn Tịnh độ. Đó là hồi hướng môn. Tịnh độ gọi là “Nhập nhất pháp cú”. (Đại 26, 232 trung): “Nhất pháp cú nghĩa là thanh tịnh”. Thanh tịnh ở đây có nghĩa là chân thật trí tuệ, vô vi pháp thân. Sự thanh tịnh này có hai loại: 1. Khí thế gian thanh tịnh. 2. Chúng sanh thế gian thanh tịnh.

Khí thế gian thanh tịnh: thành tựu mười bảy công đức trang nghiêm nói trên gọi là khí thế gian thanh tịnh.

Chúng sanh thế gian thanh tịnh: thành tựu tám công đức trang nghiêm của chư Phật nói trên gọi là chúng sanh thế gian thanh tịnh. Thành tựu 4 công đức trang nghiêm của chư vị bồ tát thì gọi là chúng sanh thế gian thanh tịnh. Như vậy trong một pháp cú mà nhiếp cả hai loại thanh tịnh. Như vậy bồ tát tu hành xa ma tha (chỉ) và tỳ bà xá na (quán) theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp, như vậy là thành tựu xảo phương tiện hồi hướng. Bồ tát xảo phương tiện hồi hướngbồ tát gom hết tất cả công đức thiện căn do tu ngũ niệm môn như lễ bái…, không cầu niềm vui an trụ của tự thân, vì muốn nhổ sạch gốc khổ của chúng sanh, khởi nguyện nhiếp thủ tất cả chúng sanh cùng sanh về cõi nước Cực Lạc của đức Phật kia. Đó gọi là bồ tát xảo phương tiện hồi hướng thành tựu. Bậc bồ tát như vậy khéo biết hồi hướng thành tựu, xa lìa ba pháp trái nghịch bồ đề.

Y theo trí huệ môn, không cầu tự lạc, xa lìa tâm tham của tự ngã, không tham đắm tự thân.

 Y theo từ bi môn, nhổ tận gốc khổ của chúng sanh, xa lìa tâm không an chúng sanh.

 Y theo phương tiện môn, thương xót tất cả tâm chúng sanh, xa lìa tâm cúng dường cung kính của tự thân.

Bồ tát xa lìa ba pháp trái nghịch trên thì sẽ trọn đủ ba pháp tùy thuận với bồ đề.

Vô nhiễm thanh tịnh tâm: không lấy tự thân để cầu an lạc.

 An thanh tịnh tâm: lấy việc nhổ tận gốc khổ của chúng sanh làm hạnh.

Lạc thanh tịnh tâm: khiến tất cả chúng sanh được đại bồ đề, nhiếp thủ chúng sanh vãng sanh về thế giới Phật.

Ba môn trí tuệ, từ bi, phương tiện ở trên nhiếp thủ bát nhã, bát nhã nhiếp thủ phương tiện.

Ba pháp xa lìa tâm tham cung kính của tự ngã, không tham đắm tự thân; xa lìa tâm không an chúng sanh; xa lìa tâm cúng dường tự thân, ở phần trên là xa lìa chướng tâm bồ đề.

Nếu gom ba tâm vô nhiễm thanh tịnh tâm, an thanh tịnh tâmlạc thanh tịnh tâm ở phần trên lại một chỗ thì thành tựu diệu lạc thắng chơn tâm.

Như vậy, đối với bồ tát, nếu có đủ trí tuệ tâm, phương tiện tâm, vô chướng tâm, thắng chơn tâm thì có thể vãng sanh cõi nước Phật thanh tịnh. Đó gọi là bồ tát ma ha tát, tùy thuận ngũ chủng pháp môn, tùy ý tự tại

 Phần trên, người viết thực chất là dịch trọn vẹn Tịnh độ luận. Nhưng nếu cứ dịch nguyên văn thì e rằng nặng nề, khó hiểu. Tuy có đôi chỗ, nhất là đoạn cuối, thiết nghĩ nếu dịch ra thì càng khó hiểu hơn, nên nhiều chủng loại danh từ, người viết để nguyên tiêu đề không dịch, âu cũng có dụng ý. Chỗ nào cần chú thích, chúng tôi đã chú thích, chỗ nào không cần thì để nguyên. Người viết đã chủ ý không kết hợp các bộ chú giải luận này như Tịnh độ luận chú của ngài Đàm Loan, cốt để tác phẩm được giữ nguyên hình thái ban đầu, giúp độc giả có cách nhìn chính xác hơn về nguyên văn của tác phẩm. Các bộ chú giải đã thêm quá nhiều ý tưởng, lại phân chương trích cú theo lối giải thích kinh viễn, đôi lúc làm người học càng mịt mờ thêm về nguyên tác.

Lâu ngày không viết lách, cách trình bày vụng về, chỉ là bòn mót chút công đức hồi hướng về Tịnh độ. Kính mong các bậc thức thức giả từ bi chỉ giáo.

 Vĩnh Minh Tự Viện, Quý xuân năm Nhâm Thìn.

Thích Nguyên Hiền

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10402)
Duy thức học là một học thuyết tuy được xác lập vào khoảng thế kỷ thứ tư...
(Xem: 7732)
Giáo huấn của Đức Phật nhấn mạnh rằng không có một linh hồn độc lập hay một tự ngã độc lập.
(Xem: 8540)
Trong một quyển sách nhỏ «Phật Giáo Nhập Môn» tác giả Fabrice Midal đã dành riêng một chương để tóm lược thật ngắn gọn một số các khái niệm căn bản...
(Xem: 10129)
Phật giáo vào Anh quốc bắt đầu từ thế kỷ thứ 19, qua các công trình dịch thuật kinh điển ở các nước Phật giáo Đông phương.
(Xem: 18561)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 14544)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 8842)
Nói đến “Tính Không” trong Đạo Phật là nói đến một vấn đề mà nhiều người còn thắc mắc, nhất là những người ngoại đạo...
(Xem: 8921)
Phẩm Quán Tứ đế của Trung luận, từ chỗ duyên khởi tức là không, cũng là giả danh về sau, tiếp theo nói: cũng là trung đạo.
(Xem: 8218)
Triết học Phật giáo Đại thừa có hai phương diện, đó là Triết học Phật giáo Đại thừa hay Tánh không luận và Du-già hành tông hay trường phái Duy thức...
(Xem: 9012)
Không là pháp quán chung của Phật giáo, nhưng pháp quán của các nhà Trung Quán không giống với pháp quán của các tông phái khác.
(Xem: 14198)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 8464)
Niệm tức là nghĩ nhớ, ức niệm, suy tưởng, chú tâm quan sát hay hướng tâm đến một đối tượng nào đó thuộc tâm thức và giữ cho đối tượng đó luôn luôn sinh động ở trong tâm...
(Xem: 15294)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13165)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 7818)
"Các thầy Tỷ kheo sau khi ta diệt độ, các thầy phải trân trọng, tôn kính tịnh giới, như người mù tối mà được mắt sáng, nghèo nàn mà được vàng ngọc..."
(Xem: 16692)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15545)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 8990)
Chấp nhận một hình thức Phật giáo rồi dấn thân bằng thực nghiệm, hành giả không cần phải dành quá nhiều công sức cho những vấn đề lý thuyết và những mục tiêu lý tưởng của các truyền thống khác nhau.
(Xem: 7936)
Pháp môn Tịnh độ được sáng lậptu hành dựa trên tư tưởng “Yếm ly Ta bà, hân cầu Cực Lạc”. Song vì sao phải yếm ly Ta bà và lại hân cầu Cực Lạc?
(Xem: 7113)
Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận giải Nobel Hòa Bình 21 năm trước, ngài nói, "Tôi chỉ là một thầy tu giản dị".
(Xem: 11278)
Đạo Phậtđạo nhân quả (nhân nào quả nấy) trên cơ sở lấy “Tâm” làm gốc và được ứng dụng vào trong cuộc sống.
(Xem: 14293)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ (trung Nam Ấn Độ), khi đó Vua Tần Bà Sa La nước Ma Kiệt (trung Bắc Ấn Độ)
(Xem: 10485)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20477)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 8802)
"Các người phải siêng năng tu tập các điều thiện, nhờ tu tập điều thiện mà được mạng sống lâu dài, nhan sắc thắm tươi, sống yên ổn, vui vẻ, của cải dồi dào, uy tín đầy đủ"
(Xem: 9296)
Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay Như Lai sẽ diệt độ. Này Ananda, hôm nay tại điện thờ Càpàla, Như Lai chánh niệm, tỉnh giác, từ bỏ thọ, hành...
(Xem: 24147)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12678)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 7819)
Giải quyết vấn đề thoát khổ, Đạo Phật lấy tâm thức của con người làm trọng tâm, bất cứ hệ tư tưởng Phật giáo nào nếu tách rời tâm thức của con người thì Phật giáo không còn đất đứng.
(Xem: 16271)
Mùa Thu năm 334 trước Tây Lịch (TTL), vua A-Lịch-Sơn Đại-Đế (Alexander the Great) của nước Hy-Lạp bắt đầu cuộc chinh phạt Đông tiến. Nhà vua thấy nhà hiền triết Aristotle...
(Xem: 15626)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 8757)
Indriya có nghĩa là căn, gốc, khả năng, làm chủ, cốt yếu... Bala là lực, là sức mạnh. Vậy ngũ căn là 5 trạng thái tâm căn bản, 5 yếu tố tâm lý căn bản có khả năng kiểm soát tâm, làm chủ tâm.
(Xem: 7651)
Nghiệp là một luật rất công bằng cho tất cả mọi loài, mình tạo thì mình hưởng. Làm phước được phước, làm tội chịu tội.
(Xem: 14621)
Không có người bạn nào tốt hơn cho tương lai hơn là bố thí - ban cho tặng phẩm thích đáng. Đối với tu sĩ, giáo sĩ, người nghèo, và bạn hữu - Biết những tài sản là chóng tàn phai và vô lực.
(Xem: 9315)
"Vô Ngã" là vấn đề tương đối hơi khó và khiến cho nhiều người nghiên cứu về Đạo Phật phải tốn nhiều công sức để truy cứu, tìm hiểu.
(Xem: 15530)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 15159)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16647)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 13485)
Khoa học hiện đại đã tiến đến một biên giới, nơi đó sự gặp gỡ của khoa học Tây phương với minh triết truyền thống tâm linh Đông phương là điều tất yếu.
(Xem: 15337)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 7847)
Tất cả đều được tiếp nối dưới một hình thức này hay một hình thức khác. Đám mây luân hồi ra thành cơn mưa và cơn mưa luân hồi ra thành ra nước trà.
(Xem: 7510)
Đức Phật trong thực tế đã không đưa ra các nghi thức và các nghi lễchúng ta đang thực hiện ngày hôm nay, Ngài cũng không vì vấn đề nghi thứcnghi lễ mà khuyến khích dân chúng...
(Xem: 7353)
Khi thực tập thiền Lạy, ta nhìn sâu vào thân ta để thấy rằng thân này không đích thực là ta, không phải là vật sở hữu của ta. Trong thân này không có cái gì gọi là cái ta riêng biệt để bám víu.
(Xem: 9025)
"Tôi nhất định phục hưng Chánh Pháp. Tôi chỉ cho phép Phật GiáoChánh Pháp chứ không có Mạt Pháp! Bất cứ nơi nào tôi đến, nơi đó sẽ có phước đức, trí huệ và được giảm bớt tai ương."
(Xem: 14043)
Tất cả chúng ta vì bị vô minh che lấp nên khi có mặt trên thế gian đều không có nhận thức sáng suốt, do đó ta chỉ lo thụ hưởng sự ăn uốngnhẫn tâm giết hại các loài vật.
(Xem: 8035)
Mục đích của bài viết này là để hổ trợ trong việc gia tăng sự hiểu biết tốt hơn về tôn giáo, sự khoan dungý nghĩa sâu sắc của các tôn giáo khác từ quan điểm của Phật giáo...
(Xem: 7857)
Dường như trong Kinh Tạng ít nhất có hai lần nhắc đến trường hợp Đức Phật từng cảm nhận các giác cảm đau đớn...
(Xem: 15829)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 10277)
Chúng ta luôn bị bất an, lòng lúc nào cũng nơm nớp lo sợ sinh mạng, quyền lợi, địa vị, vợ con, tiếng tăm, của cải… của mình bị thương tổn hay bị đe dọa.
(Xem: 7711)
Đạo Phật chủ trương trong hiện tại phải sống giải thoát cho chính mình và giúp đỡ mọi người vượt qua nỗi khổ niềm đau để đạt được an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
(Xem: 7531)
Trung-quán-luận hay Trung-quán Ngâm khúc (Madhyamaka-káriká) là một tập thơ của Nàgàrjuna để giảng Giáo lý của đức Phật.
(Xem: 12816)
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
(Xem: 7871)
Các thí dụ trình bày trong bản kinh này đều gần gũi với sự vật, hiện tượng xảy ra, liên hệ trực tiếp đến đời sống con nguời.
(Xem: 8129)
Bài chuyển ngữ dưới đây sẽ tiếp tục đưa chúng ta bước vào một thế giới khác của vấn đề này liên quan đến các hiểu biết khoa học tân tiến ngày nay.
(Xem: 14079)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên đã là cuốn sách làm say mê độc giả một thời, ấy là vì nó là lời tự bạch của một thế hệ...
(Xem: 7302)
Tổ Chức Y Tế Thế Giới (OMS / WHO) định nghĩa sức khoẻ là một "thể dạng an vui toàn diện, từ thể xác đến tâm thần và cả cuộc sống trong xã hội
(Xem: 9216)
Trong Thiện kiến tì-bà-sa cũng có thuyết này, nhưng vì độ người nữ xuất gia nên tổn chính pháp năm trăm năm.
(Xem: 9681)
“Sắc tức là không, không tức là sắc” được trích ra từ kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đã được tinh giản, công thức hóa và xem như một thành ngữ.
(Xem: 13128)
Hiện nay Phật giáo có tiếng nói vô cùng quan trọng đối với Liên hiệp quốc, vì đã đánh thức được lương tri, lương tâm con người.
(Xem: 7613)
Nếu không có ngã, sự liên quan giữa một hành nghiệp và kết quả của nó là điều không thể có, vì nếu tác giả của một hành nghiệp chết, ai sẽ có kết quả?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant