Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tìm Niết bàn trong sinh tử

18 Tháng Hai 201400:00(Xem: 7803)
Tìm Niết bàn trong sinh tử

TÌM NIẾT BÀN TRONG SINH TỬ
 
Thích Nhất Hạnh

Sinh Phật bất nhị

Những người Cơ đốc giáo thường đặt vấn đề: Thượng đế có phải là một con người hay không? Nếu Thượng đế không phải là một con người thì làm sao chúng ta có thể cầu nguyện? Đây là một vấn đề rất lớn trong Cơ đốc giáo. (God is a person or is not a person?)

Vào hạ bán thế kỷ thứ 20, những nhà thần học cho rằng: Tuy Thượng đế không phải là một con người nhưng Ngài cũng không ít hơn một con người. God is not a person but is not less than a person. Người ta đi tới quan niệm: Thượng đế không phải chỉ là một con người. Đó là một bước tiến rất lớn!

nietbantrongsinhtu_thichnhathanhTrong đạo Bụt chúng taquan niệm chúng sinh và Bụt. Chúng sinh là những người mê mờ đang đau khổ và Bụt là một người giác ngộ không còn đau khổ. Chúng ta thường phân biệt chúng sinh khác với Bụt. Ta thường có khuynh hướng nghĩ rằng khi đã thành Bụt thì không còn là chúng sinh nữa. Nhưng quan niệm đó không đúng với cái thấy của Phật giáo đại thừa. Theo cái thấy của Phật giáo đại thừa, nếu khôngchúng sinh thì không có Bụt. Đó là lý thuyết: Sinh Phật bất nhị 生 佛 不 二, tức Bụt và chúng sinh không phải là hai cái riêng biệt. Cái này không thể có ngoài cái kia. Chúng sinh và Bụt không phải là hai thực thể riêng biệt. Sở dĩ có Bụt là nhờ có chúng sinh, không có chúng sinh thì không bao giờ có Bụt. Bụt và chúng sinh là một cặp, tuy bề ngoài có vẻ như đối lập nhau nhưng phải nương nhau mà thành. Cũng như bùn và sen, không có bùn thì ta không thể có sen.

Theo giáo lý duyên khởi thì tất cả đều là duyên sinh. Nhìn vào con người ta thấy những yếu tố không phải con người như đất đá, cây cỏ, cầm thú. Những yếu tố như đất, nước, lửa, gió lâu ngày có đủ điều kiện thì sinh ra cây cỏ và những loài chúng sinh, rồi từ những loài chúng sinh phát sinh ra con người. Nếu lấy những loài khoáng chất, cây cỏ và cầm thú ra khỏi con người thì con người không còn nữa. Vì vậy con người cũng là đất đá, cây cỏ và cầm thú. Ta không thể cho rằng khi trở thành con người rồi thì ta không còn là đất đá, cây cỏ và cầm thú nữa. Ta vẫn tiếp tục làm đất đá, cây cỏ và cầm thú tại vì những yếu tố không phải con người vẫn còn trong ta. Tuy đã là Bụt rồi nhưng những yếu tố không phải Bụt vẫn còn trong Bụt. Trong Bụt có những yếu tố như: chúng sinh và những khổ đau, những phiền não, những si mê đã được chuyển hóa. Nhìn vào sen ta thấy những yếu tố không phải sen như là bùn. Nếu muốn tiếp tục làm bông sen thì sen phải sử dụng chất bùn để làm ra sen. Ta đã là con người, nhưng nếu không có đất đá, cây cỏ và cầm thú thì ta không thể tiếp tục làm con người. Vì vậy con người và cái gọi là sinh môi không phải là hai cái khác nhau, hai cái phải dựa trên nhau mà có. Chừng nào không còn chúng sinh thì cũng không còn Bụt. Chừng nào không còn đất đá, thảo mộc, cầm thú thì không còn con người. Vì vậy ta đừng nên hy vọng hão huyền là khi thành Bụt rồi thì ta vĩnh biệt chúng sinh. Sinh Phật bất nhị là cái thấy bất nhị (non dualistic) và cái thấy này phải được áp dụng cho tất cả mọi trường hợp như tay trái và tay phải, chừng nào có tay phải thì có tay trái. Tay phải không thể có mặt một mình mà không cần tay trái. Phật và chúng sinh hay con người và đất đá, cỏ cây, cầm thú cũng như vậy: không có cái này thì không có cái kia. Đó gọi là duyên sinh, là tương đãi.

Thành Bụt rồi có còn thực tập nữa không?

Trong Bụt có hạnh phúc, có tuệ giác, có bồ đề. Bồ đề ngược lại với phiền não, tuệ giác ngược lại với si mêhạnh phúc ngược lại với khổ đau. Nhưng theo tuệ giác mà ta có được do sự quán chiếu thì tất cả đều vô thường. Không phải chỉ có khổ đau là vô thườnghạnh phúc cũng vô thường. Không phải chỉ có phiền nãovô thườngbồ đề cũng vô thường. Tuy có bồ đề nhưng nếu ta không tiếp tục tu thì bồ đề của ta cũng hao mòn. Ta đừng tưởng một khi có bồ đề rồi thì ta sẽ có nó mãi mãi, tại vì bồ đề cũng vô thường. Có khi ta có giác ngộ nhưng vì ta không biết nuôi nấng nên giác ngộ đó lu mờ và ta không sử dụng được. Điều này ta thấy rất rõ: Có nhiều cái ta đã biết rồi nhưng ta không đem ra sử dụng, ta hành xử giống như ta không có tuệ giác.

Bụt cũng vô thường, vô ngã. Nếu muốn tiếp tục làm Bụt thì ta phải tiếp tục sử dụng chất liệu khổ đau, phiền nãosi mê để chế tác hạnh phúc, bồ đềtuệ giác. Chúng ta thường đặt câu hỏi: “Thành Bụt rồi có còn thực tập nữa không?” Câu hỏi này rất đơn sơ nhưng cũng rất quan trọng. Phần lớn trong chúng ta, có thể nói là 99% thường nghĩ rằng: Khi đã thành Bụt rồi thì ta khỏi tu nữa, tại vì thành Bụt là có bồ đề, có tuệ giác, có hỷ lạc. Sự thậtĐức Thế Tôn vẫn đi thiền hành, vẫn ngồi thiền, vẫn thực tập An ban thủ ý. Hạnh phúc, bồ đề, tuệ giác đều vô thường. Nếu muốn nuôi dưỡng nó thì Đức Thế Tôn phải tiếp tục thực tập và Ngài cũng sử dụng khổ đau, phiền não, si mê để tạo ra hạnh phúc, bồ đềtuệ giác. Bông sen, tuy đã thành bông sen nhưng vẫn không thể nhảy ra khỏi bùn. Muốn tiếp tục làm bông sen nó phải ở với bùn và tiếp tục sử dụng bùn.

Có thể nhận diện được Bụt qua những hình thái khác hay không?

Bụt Thích Cahình dáng của một con người. Ta biết rằng con ngườimột sinh vật sinh sau đẻ muộn, xuất hiện rất trễ trên địa cầu này, trễ hơn tất cả những chủng loại khác trên trái đất. Như vậy trước khi có Bụt thì không có tuệ giác, không có bồ đề, không có hạnh phúc hay sao? Trước khi có Bụt vẫn có tuệ giác, vẫn có bồ đề, vẫn có hạnh phúc, nhưng dưới hình thức khác. Bây giờ ta đặt một câu hỏi rất đơn sơ: "Có thể nhận diện được Bụt qua một hình thức khác, nghĩa là qua một hình thức không phải con người hay không?" Kinh Kim Cương nói rất rõ: "Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng." Nếu bị mắc kẹt vào tướng con người thì ta không thể thấy được Bụt. Bụt không phải chỉ là con người. Nếu đi tìm Bụt qua hình tướng, âm thanh thì sẽ không tìm ra được.

Nhược dĩ sắc kiến ngã 
âm thanh cầu ngã 
Thị nhân hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai

Ai đi tìm Bụt qua hình sắc, âm thanh thì người đó đang đi trên con đường tà và ít có cơ hội thấy được Như Lai. Vì vậy chúng ta đừng kẹt vào tướng Bụt là một con người. Bụt có thể là một hành tinh như trái đất. Trái đất của chúng ta là một vị Bụt. Trong trái đất có tuệ giác, có bồ đề, có hạnh phúc và nhiều đức tính khác. Vị Bụt này là một bà mẹ, Bụt không phải chỉ là đàn ông. Trong Cơ đốc giáo người ta thường nghĩ Thượng đế là đàn ông, Thượng đế không thể nào là đàn bà. Nhưng trong đạo Bụt thì có Phật bà. Trái đất là Phật bà, là một bà mẹ. Mẹ của ai? Mẹ của những vị Bụt dưới hình thái con người và mẹ của những vị Bụt dưới hình thái khác. Một cây thông hay một bông hoa hồng cũng là Bụt. Không những con người thành Bụt thuyết pháp mà cây thông cũng đang thuyết pháp, bông hoa cũng đang thuyết pháp. Nó thuyết pháp về cái gì? Nó thuyết về vô thường, vô ngã, Tứ diệu đế, Bát chánh đạo, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất bồ đề phần. Nhìn với con mắt của Phật giáo đại thừa ta thấy Bụt khắp nơi. Ta thấy Bụt nơi một đóa hồng, nơi một cây thông. Thấy được như vậy ta sẽ không có khó khăn để nhận diện trái đất là một vị Đại Bồ tát gọi là Bồ tát Thanh Lương Đại Địa, hay nhận diện mặt trời là một vị Bụt gọi là Bụt Đại Nhật Như Lai. Không bị kẹt vào cái tướng thì ta nhận diện được Bụt dễ dàng hơn.

Chúng ta hay có tính kỳ thị. Nói tới bùn và sen thì ta thích sen, không thích bùn, ta kỳ thị bùn. Nhưng nếu không có bùn thì sẽ không có sen. Vì vậy không những trong sen có Phật tánh mà trong bùn cũng có Phật tánh. Trong kinh Bát Nhã có nói Phật tánh đó không dơ cũng không sạch, không thêm cũng không bớt. Ta phải có con mắt vô tướng, (animitta) thì mới có thể nhận diện được sự có mặt của Bụt. Bụt không chỉ có hình thức của một con người. Bụt có thể là một hành tinh, một bông hoa hay một viên sỏi. Vì vậy trong kinh nói: Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh. Ta phải lấy đi cái ranh giới giữa Bụt và chúng sinh.

Bụt có trong ta, ta có trong Bụt

Trước khi lạy Bụt, ta được dạy phải quán chiếu tính duyên sinh của Bụt. Ta đọc bài "Năng lễ sở lễ tính không tịch." Đứng trước tượng Bụt ta nói:

Bạch Đức Thế Tôn, Ngài cũng duyên sinh như con vậy. Tự tánh của Ngài cũng là Không. Ngài được làm bằng những yếu tố không phải Ngài. Nhờ có phiền não, khổ đau mà Ngài có thể thành Bụt cũng như bông sen nhờ có bùn mới thành ra sen. Con thấy Ngài như vậy nên con thấy con trong Ngài.

Nhìn vào Bụt ta thấy tính Không (the nature of Emptiness) của Bụt. Ta thấy Bụt chứa đựng tất cả chứ không phải chỉ có trí tuệ, từ bi, bồ đề, hạnh phúc mà thôi. Nhìn lại mình, ta thấy mình không chỉ là chúng sinh, ta cũng có Phật tánh. Trong Bụt có ta và trong ta có Bụt. Thấy được như vậy rồi thì ta mới nên lạy xuống, lạy xuống như vậy mới có sự truyền thông. Nếu Bụt chỉ là Bụt và ta chỉ là ta thì không có sự truyền thông đích thực. Lấy đi ranh giới giữa ta và Bụt thì lạy Bụt mới có hiệu quả. Bụt không phải ở ngoài ta, Bụt ở trong ta, vì vậy khi lạy Bụt ta tiếp xúc được với Phật tánh trong mình. Nếu cho rằng Bụt khác với ta thì vĩnh viễn ta chỉ có thể là ta và Bụt chỉ là Bụt. Bụt không bao giờ trở thành ta và ta không bao giờ trở thành Bụt và không có sự thông cảm giữa Bụt và ta. Cảm ứng đạo giao nan tư nghì có nghĩa là sự cảm thông giữa Bụt và chúng sinh khó có thể diễn tả được, tại vì ta thoát khỏi cái thấy lưỡng nguyên phân biệt.

Trong kinh Kim Cương nói rất rõ: Ta có một ý niệm về ngã 我 , về nhân 人, về chúng sinh 眾 生, đó là ba ý niệm mà ta cần phải vượt thắng. Nhìn vào ngã ta phải thấy vô ngã, nhìn vào con người ta phải thấy những yếu tố không con người, nhìn vào chúng sinh ta phải thấy Bụt. Kinh Kim Cương dạy ta phải lấy đi bốn ý niệm là: ngã, nhân, chúng sinhthọ mạng. Thọ mạngđời sống của con người, lấy đi ý niệm về thọ mạng thì ta trở thành bất tử. Ta không chỉ có mặt ở đây trong 100 năm.

Không có ranh giới đích thực giữa hữu tình và vô tình

Ta cần phải thoát khỏi một ranh giới khác nữa, đó là ranh giới giữa hữu tình và vô tình. Hữu tìnhchúng sinh, vô tình là những cái không phải chúng sinh như đất, nước, lửa, gió, khoáng vật. Vô tình, tiếng Anh là inanimate things). Một thi sĩ người Pháp đã hỏi: Objets inanimés, avez vous donc une âme? Hỡi các vật vô tri kia, chúng bây có một linh hồn hay không? Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng có một câu tương tựLàm sao em biết bia đá không đau? Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau. Những vật vô tri đều có tình trong nó nên không thể gọi chúng là vô tình. Học về lịch sử của trái đất, ta thấy lúc bắt đầu chỉ có các loại vô tình. Trong nước cháo thời nguyên thỉ (primordial soup) từ từ sinh ra các loại hữu tình đơn tế bào. Những sinh vật đơn tế bào sinh ra những sinh vật đa tế bào. Những sinh vật này từ dưới nước bò lên trên đất và trở thành rong rêu, cây cỏ, các loại cầm thú và thành con người. Vì vậy không có ranh giới giữa các vật vô tình và hữu tình.

Hiện nay khoa học khám phá ra những vật mà ta cho là vô tình như những quang tử, những điện tử rất là thông minh. Nó có cái biết ở trong, ví dụ như nhìn vào một hột bắp ta không thể nói hột bắp là vô tình. Trong hột bắp có thức, có tài năng, có cái biết trong đó. Ta chỉ cần gieo hột bắp xuống đất thì nội trong bảy ngày nó biết nẩy mầm thành cây bắp con rồi tiếp tục làm lá, làm hoa và làm trái bắp. Hột bắp không vô tình, nó cũng là hữu tình.

Chúng ta được làm bằng những chất liệu vô tình. Giữa vô tình và hữu tình không có ranh giới đích thực. Vì vậy cho nên đất đá cũng có Phật tánh. Trong Thiền người ta thường hỏi: “Con chó có Phật tánh hay không?”. Không những con chó có Phật tánh mà cục đá kia cũng có Phật tánh.

Chúng ta phải tìm cách vượt thoát ý niệm: Bụt chỉ là một con người. Chúng ta có một bài thiền hướng dẫn: Mời Bụt thở, mời Bụt ngồi. Bài tập rất hay và tôi đã thực tập rất nhiều. Khi ngồi xuống ta nói:

Mời Bụt thở nhẹ, 
mời Bụt ngồi yên

Bụt ở đây không phải là một thực tại ở ngoài mình. Ta nói: “Lạy Đức Thế Tôn, xin Ngài hãy dùng lưng của con để ngồi, xin Ngài hãy dùng phổi của con để thở”. Bụt không phải là một cái ngã. Mỗi khi thở có an lạc, hạnh phúc, bình an là có Bụt. Mỗi khi ngồi có vững chãi, thảnh thơi là có Bụt. Bụt không phải chỉ là người, đồng nhất Bụt với con người là sai. Hễ có vững chãi, an lạc, thảnh thơi là có Bụt. Ta biết rằng Bụt không ngồi thì thôi, nếu ngồi thì Ngài ngồi rất thẳng và thoải mái; Bụt không thở thì thôi, nếu thở thì Ngài thở nhẹ và có ý thức. “Mời Bụt thở, mời Bụt ngồi”, ta đưa hai lá phổi cho Bụt thở, ta đưa lưng cho Bụt ngồi. Khi đó ta bắt đầu vượt thoát ý niệm: Bụt là một thực thể ở ngoài mình. Nếu Bụt thở bằng phổi của mình và ngồi bằng lưng của mình thì Bụt và mình rất là gần.

Bụt đang thở nhẹ, Bụt đang ngồi yên
Mình được thở nhẹ, mình được ngồi yên

Bụt đang dùng phổi của mình để thở, đang dùng sống lưng của mình để ngồi. Nếu Ngài đang thở nhẹ và đang ngồi yên thì mình cũng được thở nhẹ và cũng được ngồi yên. Ta không còn thấy Bụt là một cái gì ngoài mình nữa. Nếu ta thấy nhẹ và yên thì cứ như vậy mà thở. Bài tập này đưa tới thoải mái, hạnh phúc rất nhiều. Ta tiến thêm một bước nữa với bài tập thứ ba:

Bụt là thở nhẹ, Bụt là ngồi yên
Mình là thở nhẹ, mình là ngồi yên

Ta không thể tìm một vị Bụt ở ngoài “thở nhẹ và ngồi yên”. Là Bụt thì phải biết thở nhẹ và ngồi yên. Không biết thở nhẹ và ngồi yên thì không phải là Bụt. Bụt không phải là một hình hài, Bụt là sự có mặt của hơi thở nhẹ nhàng và dáng ngồi bình yên. Ta đi tìm Bụt ở đâu nữa? Ta thấy hơi thở đang nhẹ và dáng ngồi bình yên tức là đã có Bụt ngay trong giây phút hiện tại. Đó là cái nhìn vô tướng về Bụt. Mình cũng vậy, mình không có cái ngã riêng biệt. Mình là thở nhẹ, mình là ngồi yên. Vì vậy cái ranh giới giữa mình và Bụt được xóa liền lập tức.

Bụt là hơi thở nhẹ, Bụt là thế ngồi yên. Mình là hơi thở nhẹ, mình là thế ngồi yên. Như vậy ta và Bụt là một, ta vượt thoát cái nhị nguyên. Đi tới một bước nữa ta đốn ngã cái cây ngã chấp với bài tập thứ tư:

Chỉ có thở nhẹ, chỉ có ngồi yên
Không ai thở nhẹ, không ai ngồi yên

Đó là vô ngã. Có Bụt và có ta, nhưng ta và Bụt đều là hơi thở nhẹ, đều là dáng ngồi yên. Không cần phải có một chủ thể, một cái ngã. Với bài tập thứ tư ta vượt thoát ý niệm về một cái ta đang thở nhẹ và đang ngồi yên. Chỉ có sự thở nhẹ và sự ngồi yên đang xảy ra, mà không cần có một cái ta đang thở nhẹ hay đang ngồi yên.

Chúng ta thường nói: "Gió thổi" hay "Mây bay" hay “Mưa rơi”. Gió đã là thổi rồi, là gió thì không cần phải thổi nữa, nếu không thổi thì không phải là gió. Mưa mà không rơi thì không phải là mưa. Nhìn kỹ ta không thấy có một cái ngã chủ trương thổi hay chủ trương rơi. There is no blower, no rainer, there is only the wind and the rain. Không có Bụt và không có ta như những cái ngã, chỉ có thở nhẹ, chỉ có ngồi yên.

Nhìn về địa cầu của chúng ta, ta thấy địa cầu cũng đang thở nhẹ, cũng đang ngồi yên. Ta không cần phải tưởng tượng Bụt dưới hình dáng một con người. Khi có sự yên tĩnh và an lạc thì có Bụt. Bụt không phải là một chủ thể. Đi tới bài tập thứ năm ta thấy rất rõ:

An khi thở nhẹ, lạc khi ngồi yên
An là thở nhẹ, lạc là ngồi yên

Có an và lạc là tại vì có thở nhẹ và ngồi yên. Không cần phải có người an và người lạc mà vẫn có thể có an lạc. Không cần phải có cái ngã rồi mới có an lạc.

Nói tóm lại chỉ có thở nhẹ, ngồi yên và nhờ vậy có an và có lạc. Không cần có Bụt, không cần có ta mà an lạc vẫn có. Muốn tìm Bụt ta không cần phải trở về Ấn Độ của 2600 năm trước. Ta cũng không cần phải đi vô chùa, tại vì vô chùa ta chỉ thấy tượng Bụt bằng cẩm thạch hay bằng đồng. Nếu thấy Bụt bắt buộc phải là một con người có 80 vẻ đẹp và 32 tướng tốt là ta bị kẹt vì ta đi tìm Bụt qua hình tướngâm thanh. Nếu ta ngồi yên, thở nhẹ, chế tác hỷ lạcgiải thoát thì ta thấy được Bụt thật mà không phải là Bụt bằng đồng hay bằng đá.

Xử lý phiền não là chế tác hạnh phúc

Chính nhờ những phiền não, bất an, lăng xăng, rối loạn nên ta mới có khuynh hướng đi tìm Bụt. Từ những bức xúc, khổ đau, buồn tủi đó ta chế tác ra chất thảnh thơi, an lạc cũng như nhờ bùn mà ta làm ra được bông sen. Vì vậy ta đừng nên chạy trốn phiền não, khổ đau. Nếu biết cách thì ta có thể sử dụng những phiền não, khổ đau để chế tác ra hạnh phúc, bồ đềtuệ giác.

Câu hỏi “Thành Bụt rồi có cần tu nữa hay không?” rất là hay. Thành Bụt là có hạnh phúc, bồ đề, tuệ giác. Nhưng dù có rồi mà nếu ta không thực tập thì hạnh phúc, bồ đề, tuệ giác cũng đi mất từ từ. Vì vậy ta phải nuôi dưỡng nó bằng sự thực tập. Ta phải sử dụng khổ đau, phiền nãosi mê để chế tác hạnh phúc, bồ đềtuệ giác.

Trong Phật giáo đại thừa nói rất rõ: Phiền não tức bồ đề, Niết bànsinh tử. Niết bànsinh tử là một cặp bài trùng, không có cái này thì không có cái kia, cũng như mặt tráimặt phải là một cặp bài trùng, không có trái thì không có phải. Nghĩ rằng khi có Niết bàn rồi thì không còn sinh tử nữa là ta bị kẹt vào cái thấy lưỡng nguyên. Một người đệ tử hỏi một vị thiền sư:

Con phải đi tìm Niết bàn ở đâu?
Thiền sư trả lời:
Con đi tìm nó ngay trong sinh tử!

Nó là sinh tử, nhưng nhìn cho sâu thì nó cũng chính là Niết bàn. Sự thực tập hàng ngày của chúng ta phải thực tế. Với những bước chân, những hơi thở, những lời nói, ta phải tạo ra bình an, hỷ và lạc từ những chất liệu không bình an, không hỷ và không lạc. Ta phải luôn luôn sử dụng bùn để làm thành sen, sử dụng phiền não để chế tác bồ đề. Đó là công việc của chúng ta. Công việc chế tác hạnh phúcliên hệ tới công việc xử lý phiền não. Xử lý được phiền não là chế tác được hạnh phúc. Hai công việc đó tuy hai nhưng thật ra là một. Ta đừng nên chạy trốn khổ đau, ta phải nắm lấy khổ đau và tìm cách chuyển nó thành ra hạnh phúc. Ta ngã ở đâu thì chống ở chỗ đó mà đứng dậy.

Pháp thoại ngày 01.12.2013 tại Xóm Thượng trong khóa An Cư Kiết Đông 2013-2014
(Làng Mai)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6937)
... thuật ngữ nhất-xiển-đề có khi mang nghĩa là cực ác, hoặc mang nghĩa là một kẻ quá nhiều tham dục, tham luyến sanh tử, không cầu giải thoát.
(Xem: 9651)
Phật giáo không công nhận có một Đấng Thượng Đế Sáng Tạo, tiếng Anh là The Creator God và thường gọi tắt là God.
(Xem: 23143)
Đêm Rằm tháng Giêng, sân vắng, trăng sáng đầy trời. Trăng vẫn sáng đẹp như xưa, không có gì thay đổi...
(Xem: 8117)
Có ma hay không có ma ? Ma là gì ? Ma ở đâu ? Ma có làm hại được ta hay không ? Nếu phải trừ ma thì phải làm như như thế nào ?...
(Xem: 20541)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19552)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18423)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16279)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 15957)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 19108)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 14342)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 9668)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một vị Bồ tát nổi bật và được biết đến nhiều nhất trong tất cả các truyền thống Đại thừa, và đôi khi cả Tiểu thừa, như trường hợp ở xứ Tích lan và Thái lan cũng có thờ Ngài.
(Xem: 8766)
Philippe Cornu là một học giả uyên bác, thông thạo tiếng Tây Tạng, tiếng Phạn, tiếng Pali, tiếng Hán… Ông viết bảo, dịch thuật rất nhiều kinh sách, và thường được mời thuyết giảng về Phật giáo trên đài truyền hình Pháp.
(Xem: 8234)
Lý tưởng Bồ tátảnh hưởng lớn trên đời sống, tư tưởng và hành động của người Phật tử trong suốt hơn hai ngàn năm nay...
(Xem: 8928)
Đề tài của buổi giảng hôm nay là nhằm giới thiệu bức tranh ‘Địa Ngục Biến Tướng Đồ’, còn có tên là ‘Thập Vương Đồ’, do lão sư Giang Dật Tử vẽ tại Đài Trung, hiện nay đang được triển lãm tại Kinh Đô, Nhật Bản.
(Xem: 11011)
Phật giáo luôn nhắc nhở con người nên tin ở mình, tinh tấn tu hành để tự giải thoát. Thật chưa có tôn giáo nào xác nhận tinh tấnđộng lực chính giúp con người vươn đến cõi toàn thiện...
(Xem: 9165)
Tác phẩm Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo Giác Ngộ của Ngulchu Gyalsas Thogmed Zangpo là một trong những luận bản phổ biến nhất của Phật Giáo Tây Tạng...
(Xem: 8920)
Đức Phật đã dạy: “Chính sự khao khát là điều dẫn đến sự tái sinh. Đây chính là lần sinh thành cuối cùng của ta. Nay sẽ không bao giờ có sự tái sinh đối với ta”.
(Xem: 7988)
Đây là thắc mắc mà thanh niên Subha Todeyyaputta từng nêu ra cho Đức Phật với hy vọng tìm kiếm câu trả lời từ Ngài.
(Xem: 9111)
Mọi phương pháp dạy cho con người tránh né khổ đau hay trốn chạy khổ đau để tìm kiếm hạnh phúc đều không phải là những phương pháp giáo dục hoàn chỉnh.
(Xem: 35662)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 8592)
Việt Nam Đạo Phật vốn là một tôn giáo gắn bó với dân tộc, có nhiều ảnh hưởng sâu đậm đến lịch sử phát triển của đất nước, nhất là về mặt văn hóa giáo dục.
(Xem: 15131)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 8722)
Thiền định là một phương pháp hành thiền có nguồn gốc từ đạo Phật được phát triển vững mạnh trong 3 thập niên qua ở Mỹ và nhiều nước khác.
(Xem: 15328)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 9196)
Đại Tạng Kinh là một kho báu chung của mọi người Phật tử, nhưng do nhu cầu học Phật ở mỗi quốc gia mà có sự hình thành các Đại Tạng Kinh bằng những ngôn ngữ khác nhau.
(Xem: 8871)
Tâm Phật rỗng rang, không chất chứa gì cả. Tâm chúng sinh là một kho chứa khổng lồ chất đầy gánh nặng vui buồn, sướng khổ, hận thù, oan khiên nghiệt ngã của quá khứ.
(Xem: 9386)
Gót tu sĩ bốn phương trời rảo bước, Cõi Ta-bà đâu chẳng phải nhà ta, Một mình đi bình bát với cà sa, Đói xin ăn, dưới gốc cây nằm ngủ…
(Xem: 8509)
Hơn ba mươi năm, tôi làm ở hội Từ Tế. Bởi vì, tôi thường làm việc cứu trợ trong và ngoài nước, cho nên tôi cảm nhận được thiên tai, nhân họa liên tục ập xuống trái đất.
(Xem: 10327)
Báo Chánh Pháp số 34, tháng 9 năm 2014, do ĐLHT. Thích Thắng Hoan (CA) và Brodard Chateau, Brodard Restaurant & Bamboo Bistro ủng hộ ấn phí.
(Xem: 7693)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler
(Xem: 9578)
Những chướng duyên có thể giúp hành giả trên đường giải thoát. Ý niệm này, thường tìm thấy trong kinh Phật, dạy cách đánh giá cao những chướng duyên mà chúng ta gặp phải, vì nhờ chúng nên trí tuệtừ bi mới được nảy sinh.
(Xem: 7539)
Chất lượng của tâm niệm thiện lành sẽ tăng rất nhiều khi xưng danh tha thiết; vì thế, từ trạng thái nhớ nghĩ chuyển qua thực hành xưng danh niệm Phật là điều tất yếu.
(Xem: 17263)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15043)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 9540)
Kính thưa thầy, con có một thắc mắc về chơn tâmbản tánh. Sao gọi là chơn tâm? Sao gọi là bản tánh? Vậy giữa chơn tâmbản tánh giống nhau hay khác nhau?
(Xem: 20916)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 9230)
Mãi đến tận giờ, có lẽ ít người ngờ rằng Hòa thượng Thích Minh Châu ngoài phong cách một học giả có văn phong cổ kính, nghiêm túc và khô khan nhất trong làng Phật giáo Việt Nam, còn là một ngòi bút tân kỳ và thơ mộng đáng bậc thầy của không riêng Phật giáo.
(Xem: 7189)
Nếu chúng ta phân tích kinh nghiệm của chúng ta một cách cẩn thận, thế thì tôi nghĩ thật rõ ràng rằng hầu hết những quấy nhiễu tinh thần đến từ những tình trạng tinh thần tiêu cựcchúng ta gọi là phiền não.
(Xem: 17741)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17664)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 25854)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 7853)
Những người được gọi là "siêu việt" là những kẻ chân thành muốn làm tan biến tất cả khổ não của người khác bằng việc thấu hiểu nổi khổ đau của chính họ.
(Xem: 9945)
Cái không của A-hàm là xem trọng con đường giải thoát để tu trì. Cái không của Bộ phái dần dần có khuynh hướng bình luận, phân tích về ý nghĩa của pháp.
(Xem: 7286)
Tất cả mọi giáo huấn của Đức Phật đều hướng đến việc đem tới sự thực chứng nguyện vọng tức thời của chúng ta...
(Xem: 9674)
Chết là sự chấm dứt tạm thời của một hiện tượng tạm thời. Chết không phải là đoạn diệt hẳn, chết tại chỗ này nhưng lại sanh chỗ khác.
(Xem: 8163)
Thật là đại hạnh cho chúng tôi, nếu đức Thế Tôn cho phép nữ giới được sống đời xuất gia phạm hạnh thiêng liêng trong pháp và luật của đức Thế Tôn!
(Xem: 9130)
Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm...
(Xem: 7428)
Nếu bằng "cùng một nơi" chúng ta muốn nói thiên đàng[1] hay giải thoát khỏi vòng luân hồi, thế thì đấy là khó khăn...
(Xem: 8819)
Thực hành giáo lý không phải chỉ là đến chùa đọc kinh hay niệm Phật mà chính là áp dụng giáo lý của đức Phật trong đời sống hàng ngày...
(Xem: 7948)
Đức Phật nói lý nhân duyên là nói đến sự thật của đời sống con người và muôn loài vật trên thế gian này.
(Xem: 8378)
Sự hình thành các hệ tư tưởng của Phật giáo Bộ phái không ngoài mục đích đáp ứng nhu cầu thực tế của Phật giáo đương thời, xã hội hoá Phật giáo.
(Xem: 7557)
Suốt 49 năm giáo hóa độ sinh, Phật chỉ có ba y một bình bát, sống đời rày đây mai đó, tùy bệnh cho thuốc, giúp đỡ mọi người.
(Xem: 8755)
Chúng sinh trong cõi luân hồi vô thủy vô chung ấy đến rồi đi, đi rồi đến giống như hạt bụi nhỏ, phút chốc bỗng sinh trên trời, bỗng chốc sinh trên mặt đất...
(Xem: 8185)
“Ba cõi duy chỉ là tâm, muôn pháp duy chỉ là thức” là một chân lý, một sự thật được nói nhiều trong tông Duy thức, và rộng ra, có trong tất cả kinh, luận.
(Xem: 8904)
Dựa theo thuyết Thiên mệnh của Khổng Tử thì thiên mệnh là mạng lịnh của Trời. Thiên mệnh là chủ thuyết rất quan trọng trong triết lý của đạo Nho.
(Xem: 7321)
"Sau khi tôi nhập diệt, giới luật sẽ thay tôi để làm thầy của quí vị, ở đâu có giới luật thì ở đó có tôi..."
(Xem: 14028)
Tập hợp các bài viết của nhiều tác giả cùng 1 chủ đề: Tứ Diệu Đế, Bốn Chân Lý cao cả
(Xem: 7134)
... nghành Tâm lý học sẽ không bao giờ có thể giúp con người thấy đúng và rõ sự thật của tâm lý mình và tâm lý người khác.
(Xem: 10387)
Duy thức học là một học thuyết tuy được xác lập vào khoảng thế kỷ thứ tư...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant