Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Các Đế Vương Với Phật Giáo

20 Tháng Hai 201400:00(Xem: 12412)
Các Đế Vương Với Phật Giáo


NHÀ XUẤT BẢN VĂN HOÁ THÔNG TIN - 2002

CÁC ĐẾ VƯƠNG VỚI PHẬT GIÁO

VƯƠNG CHÍ BÌNH

Đào Nam Thắng dịch
Đức Niệm hiệu dịch


81cacdevuong


LỜI NÓI ĐẦU


Phật giáo ra đời vào quãng thế kỷ VI đến thế kỷ thứ V trước công nguyên ở vùng Ấn Độ cổ đại. Người sáng lậpThái Tử Kiều Đạt Ma -Tất Đạt Đa, con trai Tịnh Phạm Vương của nước Ca-tỳ-la-vệ vùng Ấn Độ cổ đại ( Ngày nay thuộc nước nêpan). Sau khi thái tử Tất Đạt Đa sáng lập nên đạo Phật, Thái tử liền được mọi người gọi là Thích Ca Mâu Ni ( tức là vị thánh của dòng họ Thích Ca). Sau khi Phật giáo ra đời, trong một thời gian dài đạo Phật chỉ lưu truyền ở vùng Ấn Độ cổ đại, hơn thế nữa ảnh hưởng của nó không lớn lắm, lại trải qua nhiều thăng trầm. Ngay trong nội bộ Phật giáo cũng dần dần phân hoá, hình thành rất nhiều hệ phái. Vào thế kỷ thứ III trước công nguyên. A Dục Vương, thế hệ thứ 3 của Quốc Vương thời Khổng Tước Vương đã thống nhất toàn bộ Ấn Độ. Tương Truyền khi mới lên ngôi, A Dục Vương vô cùng tàn bạo, sau đó ngài liền tôn thờ Phật giáo,” vứt bỏ gươm đao, lên ngôi thành Phật”. A Dục Vương đã từng cho xây dựng hàng vạn ngôi chùa có Xá lợi Phật ở vùng Ấn Độ cổ đại; đồng thời cũng cúng dàng cho tăng đoàn Phật giáo một khối lượng lớn của cải và đất đai hơn thế nữa ngài còn cử các cao tăng đi khắp nơi trong toàn quốc và ra cả nước ngoài để truyền bá Phật Giáo. Điều này đã giúp cho sự phát triển và truyền bá Phật giáo được nâng lên một bậc cao hơn. Đến thế kỷ thứ II trước Công nguyên, Vua Ca Nhị Sắc Ca, Vương triều Quý Sương của vùng bắc Ấn Độ cổ đại, một lần nữa lại tôn vinh Phật Giáo. Ngài cho xây dựng nhiều ngôi chùa thờ Phật, cúng dàng chư tăng, quí trọng các cao tăng, cử các tăng sĩ đi khắp nơi để truyền bá Phật Pháp; điều đó đã giúp cho Phật giáo đã được truyền xuống vùng nam và vùng Tây Bắc Ấn Độ. Việc hộ pháptruyền bá chánh pháp của lần này của Ca Nhị Sắc Ca Vương đã đặt nền móng cho việc Phật Giáo vẫn tiếp tục được truyền bá. Phật giáo được du nhập vào Trung Quốc vào thời kỳ lưỡng hán( vào đầu kỷ nguyên). Con đường truyền nhập là từ Tây bắc Ấn Độ truyền đến cùng Trung Á, sau đó lại du nhập vào vùng Tây Thành (ở vùng Tân Cương ngày nay và các nước ở vùng phía Tây núi Thông Sơn), sau đó dần dần được du nhập vào vùng Trung Nguyên. Vào thời kỳ Tam Quốc Đông Hán, khi Phật giáo vừa mới truyền vào Trung Quốc, từ các bậc phong kiến thống trị đất nước đến các thần dân trăm họ về cơ bản đều coi Phật giáo là một thứ thần tiênphép mầu nhiệm, do đó ảnh hưởng của Phật giáo và qui mô phát triển của Phật giáo đều rất hạn chế. Bản thân Phật giáo trong thời kỳ này chỉ chú trọng các hoạt động như biên dịch kinh sách và giải thíchmục đích cùng với giáo nghĩa của Phật giáo. Đến thời kỳ Nguỵ Tấn nam Bắc Triều, Phật giáo lại một lần nữa phát triển và hưng thịnh, do đó đã nảy sinh những mâu thuẫnxung khắc gay gắt với nền văn hoá truyền thống của Trung Quốc. Về mặt lý luận, sự xung khắc này chủ yếu tập trung vào sự bất đồng của nhận thức và tranh cãi về vấn đề như báo ứng nhân quả, luân hồi sinh tử, và” trung với vua, hiếu với cha mẹ”. Sự xung khắc gay gắt giữa Phật giáo và văn hoá truyền thống của Trung Quốc ở mức độ nhất định nào đó đã kích thích sự thay đổi, sự chuyển hoá của bản thân Phật giáo từ Phật Giáo Ấn Độ sang một nền Phật Giáo phù hợp với những nhu cầu về tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống của xã hội Trung Quốc. Chính trong thời kỳ này, về cơ bản Phật giáo đã hoàn thành qúa trình Trung Quốc hoá, và cũng cơ bản đặt nền móng cho sự phát triển mạnh mẽ của Phật GiáoTrung Quốc. Thời kỳ Tuỳ Đường, theo sự phát triển của xã hội chính trị, Phật giáo cũng bước vào thời kỳ phát triển mang tính cao trào. Theo đà dần dần hoàn thiện của Phật giáo, các Tông giáo của Phật giáo thời kỳ Đường cũng nhờ đó mà đưa nhau ra đời. Các tông giáo chủ yếu gồm có: Thiên Thai Tông, Tam Luận Tông, Từ Ấn Tông, Hoa Nghiêm Tông, Luật Tông, Tịnh Độ Tông, Thiền Tông, Mật Tông. Trong đó, Thiền Tông vào sau thời kỳ Trung Đường đã phân thành năm phái như Vi Ngưỡng, Lâm Tế, tào Động, Vân Ngôn, Pháp Nhãn. Thiền Tông cùng với năm phái ra đời sau đó đã từng ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài đối với lịch sử và phát triển của Trung Quốc. Cùng với sự giao lưu giữa Vương triều Đường và dân tộc Thổ Phiên ( một dân tộc thiểu số sống ở tỉnh Thanh Hải và vùng Tây Tạng) Phật giáo từ thời Trung Đường chuyển vào vùng Tây Tạng, sau đó dần dần hình thành giáo phái Lạt Ma( Phật giáo tạng truyền hoặc Phật giáo Tạng ngữ hệ). Cùng với sự phát triển rộng rãi ra ngoài lãnh thổ ở thời kỳ Tuỳ Đường, các tông phái Phật giáo thời kỳ Tuỳ Đường lập tức cũng được truyền bá rộng rãi ra bên ngoài lãnh thổ. Phật giáo thời kỳ Tuỳ Đường về cơ bản đã trở thành một bộ phận vô cùng quan trọng cấu thành nền văn hoá truyền thống của Trung Quốc. Thời kỳ Lưỡng Tống, Phật giáo được tiếp tục duy trì, nhưng Phật giáo cũng dần dần kém phát triển sau thời kỳ Phát triển cao trào, hưng thịnh. Đặc biệtthời kỳ Nam Tống, Phật giáo vẫn giữ được sự hưng thịnh nhất định, nhưng nền trính trị thời kỳ Nam Tống có biến động, do đó ngoài Thiền TôngTịnh độ ra, các tông phái khác cũng dần dần suy yếu so với thời trước. Song sự lưu hành của Phật giáo thời kỳ này cho ta thấy rõ những đặc trưng chứng tỏ của Phật giáo đã ăn sâu vào văn hoá truyền thống của Trung Quốc. Học thuyết Tống Nho đã hấp thụ được một phần tư tưởng của Phật giáo, từ đó làm phong phú thêm nội dung lý luận của học thuyết đó; Tín ngưỡng Phật giáo dân gian càng ngày càng đi sâu vào lòng người, một số quan niệm của tôn giáo đã biến thành phong tục tập quán của nhân dân. thời kỳ Nguyên, Minh, Thanh sự phát triển của Phật giáo tiếp tục suy thoái. Triều Nguyên thì vô cùng tôn sùng giáo phái Lạt Ma, Phật giáo ở đất Hán chỉ có một vài Tông phái đặc biệt được tiếp tục lưu hành và phát triển, nhưng ảnh hưởng của nó thì rất nhỏ, phạm vi hẹp. Vào thời Minh, phật giáo tiếp tục suy thoái nhưng do sự hoà hợp và liến kết giữa các giáo phái ngay trong chính bản thân Phật giáo và do sự giao lưu bên ngoài với Nho giáo, Đạo Giáo, Phật giáo đã nhận được sự hoan nghênh của đông đảo các sĩ phu và sự tôn sùng đông đảo của nhân dân; điều đó đã kích thích sự phát triển của Phật giáo. Sự phát triển của Phật giáo thời Thanh về cơ bản là sự tiếp nối sự phát triển Phật giáo thời Minh, nhưng vẫn có chiều hướng kém đi.

Trong lịch sử phát triển lâu dài của Phật giáo sau khi du nhập vào Trung Quốc, có một sự thật chính như sau: tức là Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương. Nói chung, các vị Đế Vương ở các triều đại phong kiến của Trung Quốc đều là những vị mong muốn hộ pháp. Các vị Đế Vương muốn bảo vệ và phát triển Phật giáo là vì Phật giáo khuyên chúng sinh hãy giữ tâm thanh tịnh và diệt đi mọi ham muốn, cố gắng giữ tâm thanh tịnh và làm điều thiện. Điều đó rất có lợi cho các vị giữ địa vị thống trị trong các tập đoàn phong kiến, họ lấy đó làm phương sách để trị quốc, giữ gìn hoà thuận trong nhân dân giữ bình an cho đất nước. Xét từ bản thân Phật giáo, sau khi du nhập vào Trung Quốc không được bao lâu thì Phật giáo cũng nhận ra mối quan hệ giữa sự phát triển của chính mình và nền thống trị của giai cấp phong kiến. Ngay từ thời Đông Tấn, một vị cao tăng nổi tiếng tên là Thích Đạo An đã từng công khai nói rằng: Không dựa vào vua thì không thể dựng nên phép tắc nhà nước. Một số các vị Đế Vương của giai cấp phong kiến về cơ bản cũng nhận thấy rằng: Phật giáo cũng có thể giúp ích cho công việc cai quản đất nước của mình. Hán Văn Đế thời bắc Nguỵ đã từng ca ngợi Phật giáo như sau” Luật nhà nước giúp Vua cai quản đất nước, làm tăng thêm tính thiện cho nhân và từ, bài trừ được cái xấu của xã hội, mở rộng sự hiểu biết chân chính”. Từ đó có thể tình hình mối quan hệ tương hỗ giữa Phật giáogiai cấp thống trị của Trung Quốc, sau khi các tôn giáo được du nhập vào. Do đó về mặt lịch sử mối quan hệ qua lại nương tựa lẫn nhau giữa các bậc Đế Vương của giai cấp phong kiến và các vị cao tăng của Phật giáo đã được ghi lại trong sử sách. Như sau thời kỳ 16 nước có mối quan hệ giữa Triệu Thạch Thị và Phật Đỗ Trừng, mối quan hệ giữa Lưu Tống Văn Đế thời Nam Triều với Thích Tuệ Lâm, mối quan hệ giữa Nguyên Minh Đế thời Bắc Nguỵ với Tăng Pháp Quả mối liên hệ giữa Văn Thành Đế thời Bắc Nguỵ với Thích Đàm Diệm, mối liên hệ giữa Văn Hiếu Đế thời Bắc Nguỵ với Thích Đạo Đăng, mối liên hệ giữa Tuỳ Văn Đế với Thích Đàm Thiên, mối liên hệ giữa Đường Thái Tông và Đường Huyền Trang,...vv. Đó đều là những ví dụ rõ ràng về mối liên hệ chặt chẽ, thân tình giữa các vị cao tăng của Phật giáo với những người đứng đầu giai cấp thống trị phong kiến, nó đã tỏ rõ mối quan hệ nương nhờ giữa Phật giáoquyền lực tối cao của giai cấp phong kiến.

Mối quan hệ giữa Phật giáo và các vị Đế Vương Trung Quốc là một vấn đề vô cùng thú vị, nhưng đó cũng là một vấn đề vô cùng phức tạp. Bởi vì về mặt lịch sử, các mối quan hệ giữa các bậc Đế Vương và Phật giáo vừa là mối quan hệ về mặt trính trị, vừa là mối quan hệ về mặt tín ngưỡng; vừa có các nhân tố mang tính chất nhà nước vừa có các nhân tố mang tính chất tất nhiên, vừa có các nhân tố mang tính chất ngẫu nhiên. Đa số các vị Đế Vương Trung Quốc cổ đại đều có một nguyên tắc chung như sau: đó là quyền lực của giáo phái không được cao hơn quyền lực của Vua, các sinh hoạt trong đời sống tôn giáo không được phép quấy nhiễu hoặc phá hoại đời sống trính trị quốc gia. Đường Thái Tông – Lý Thế Dân - người xưng đạo thế hệ sau những năm Trịnh Quán hưng thịnh – ông ta quan hệ khá thân thiết với nhiều vị đại đức cao tăng Phật giáo, nhưng về mặt trính trị ông lại dùng quyền lực của Vua để giữ gìn hoà thuận giữa ba tôn giáoNho Giáo, Thích Ca Giáo (1)Đạo Giáo, điều đó giúp cho ba tôn giáo này đồng tâm hiệp lực cùng nhau phục vụ công việc cai quản đất nước của giai cấp phong kiến. Cùng thời gian này, ông ta đặc biệt cảnh giác cao với hai tôn giáo Thích Ca Giáo và Đạo giáo, khiến cho sự phát triển của hai tôn giáo này không lấn át, không uy hiếp quyền lực của Vua. Có một vị hoà thượng tên là Pháp Lâm, do trong một tác phẩm của mình có đoạn có ý nói xấu vương triều Lý Đường, suýt nữa bị Lý Thế Dân xử tội chém đầu, cuối cùng bị đưa đi đầy ải. Về sau, Chu Thế Tông Sài Vinh tại thế, là thời kỳ nạn đao binh nổ ra triền miên, việc quản lý các tăng ni có phần lỏng lẻo, do đó các chùa triền được xây dựng tràn lan, gây ảnh hưởng trực tiếp đến thuế khoá và việc sai dịch. Do đó ông ta liền hạ chiếu chỉnh đốnquản lý chặt chẽ các chùa chiền, tăng ni, dùng quyền lực của nhà Vua công khai cấm Phật giáo hoạt động, từ đó gây ảnh hưởng phá hoại Phật giáo một cách nghiêm trọng. trong lịch sử Trung Quốc có rất nhiều vị Đế Vương tôn sùng Phật giáo, thực sự mong muốn qui y cửa Phật, chuyện này nói chung bị quần thần phản đối và con cháu thế hệ sau chê cười. Lương Vũ Đế thời Nam Triều đã thành kính tôn thờ Phật pháp, đã từng bốn lần xả thân vào chùa chiền, không muốn làm Thánh Chúa mà muốn làm Pháp vương, bị các thuộc hạ phản đối gay gắt. Đường Hiến Tông thường xuyên đến tế lễ ở các chùa có xá lợi Phật và tạo thành một không khí sôi nổi chưa từng thấy, hồi đó nhà thơ Hàn Dũ đã có “ Gián Nghênh Phật Cốt Biểu”( Biểu khuyên can về việc nghênh đón cốt Phật) lấy đó làm lời can ngăn. Có một số vị Đế Vương thời kỳ phong kiến lúc đầu vô cùng tôn sùng Phật Pháp, về sau tín ngưỡng của họ đối với tôn giáo có sự thay đổi, họ lại hạ lệnh công khai cấm Phật giáo hoạt động. Như Thái Vũ Đế thời bắc Nguỵ và Đường Vũ Tông lúc đầu vô cùng tôn sùng Phật Giáo, về sau chuyển sang tôn thờ Đạo Giáo. Họ công khai đả kích Phật Giáo, từ đó làm ảnh hưởng to lớn đến nguyên khí của Phật Giáo ( bản chấtdanh dự của Phật Giáo). Trong lịch sử Trung Quốc có một số vị Đế Vương do những lý do cá nhân và những nhu cầu trính trị của Quốc gia, họ dành rất nhiều công sức vào việc hộ pháp. Tuỳ Văn Đế Dương Kiên ra đời ở một Am ni cô, đồng thời được các ni cô nuôi nấng khôn lớn, Võ Tắc Thiên đã từng đội tóc tu hành ở chùa Cảm Nghiệp, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương xuất hiện là một hoà thượng...Từ sớm họ đã có liên hệ với Phật giáo; điều này đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến thái độ của họ đối với Phật giáo sau khi họ đăng quang.

Phật giáo là một tôn giáo không bắt nguồn từ trung Quốc, sau khi du nhập vào Trung Quốc trải qua quá trình giao lưu và đấu tranh với nền văn hoá truyền thống của Trung Quốc, dần dần Phật giáo hoà nhập vào nền văn hóa của Trung Quốc. Vì vậy, bị nền văn hoá Trung Quốc đồng hoá. Do đó Phật giáo đã gây ảnh hưởng đến tất cả các phương diện đời sống sinh hoạt của xã hội Trung Quốc Thời cổ đại. Sự hiểu biết của mọi người về Phật Giáo ngày nay tất nhiên là không thể tách rời với sự hiểu biết về quá trình Phát triển của lịch sử Phật giáo, và cũng tất nhiên là không thể tách rời với sự hiểu biết về quá trình giao lưu đấu tranh, hoà hợp giữa Phật giáo và nền văn hoá truyền thống của Trung Quốc. Sự liên hệ giữa các Đế Vương trong nền Phong kiến Trung Quốc cổ đại với Phật giáo, ở một mức độ nào đó chắc chắn sẽ làm ảnh hưởng đến sự phát triển của Phật giáotrung Quốc. Do đó vấn đề quan hệ của Phật giáo với các Đế Vương qua các thời đại của Trung Quốc cổ đại là một vấn đề đáng được nghiên cứuthảo luận một cách nghiêm túc.

Quyển sách này muốn lấy sự phát triển của lịch sử, đặc biệt là sự phát triển mang tính chất lịch sử của Phật giáo trong xã hội cổ đại Trung Quốc làm hệ thống cơ bản, lấy mối quan hệ giữa các Đế Vương trong thời đại với Phật giáo làm căn cứ tài liệu, bằng cách phân tích và thuyết minh rõ đối với mỗi quan hệ giữa các Đế Vương và Phật giáo, đại để nêu ra sự gắn bó chặt chẽ giữa các quá trình phát triển của Phật giáo với quá trình phát triển của xã hội cổ đại Trung Quốc. Do chúng tôi không thể nêu rõ tất cả các mối quan hệ của các Đế Vương với Phật giáo ngay từ khi Phật giáo mới du nhập vào Trung Quốc, nên chúng tôi chỉ tiến hành phân tích và thuyết minh rõ mối quan hệ của một số vị Đế Vương với Phật giáo, nhưng mối quan hệ của các Đế Vương này với Phật giáoảnh hưởng to lớn đối với sự phát triển của Phật giáo trong quá trình phát triển của xã hội cổ đại Trung Quốc; hoặc là mối quan hệ này cũng đã từng có những ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của phật giáo trong quá trình phát triển của Trung Quốc cổ đại. Ngoài ra, chúng tôi còn chú ý đến mối quan hệ của sự phát triển lịch sử Trung Quốc cổ đại và lịch sử Phát Triển Phật giáoTrung Quốc. Chúng tôi đều chiếu cố đến các triều đại lịch sử kể từ khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc sau thời kỳ Lưỡng Hán, ở mỗi triều đại chúng tôi đều chọn ra một vị đế vương, phân tích đồng thời nói rõ mối quan hệ giữa họ với Phật giáo để cung cấp cho người đọc một quá trình lịch sử tương đối rõ ràng của Phật giáo Trung Quốc. Cách biên soạn quyển sách này đều chú ý đến việc nói rõ những sự kiện xảy ra có tính câu chuyện, các kiến thức mang nội dung tôn giáo, các vấn đề mang tính học thuật dùng để nghiên cứu chuyên đề, chúng tôi đã cố dung hoà các sự việc mang tính câu chuyện, các vấn đề mang tính kiến thức, các vấn đề mang tính học thuật là một hệ thống nhất để mang đến cho mọi người một cảm giác dễ hiểu.

Quá trình biên soạn quyển sách này đã tham khảo rất nhiều tác phẩm luận văn có liên quan đến lịch sử phát triển của Phật giáo Trung Quốc. Do yêu cầu về đề tài và lượng chữ qui định trong mỗi chuyện nên chúng tôi không thể kể ra tất cả đầu đuôi, chúng tôi đã cố gắng liệt kê mục lụctác phẩm chúng tôi dùng biên soạn quyển sách này ở đằng sau quyển sách, với ý tỏ lòng cảm ơn các tác giả của các tác phẩm và luận văn này.

Tháng 10 năm 1996

Vương Chí Bình

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23118)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34695)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32269)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 30475)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 30754)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 21073)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20225)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19488)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24432)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30768)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15716)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
(Xem: 27872)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 19829)
Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt...
(Xem: 15618)
Qua tinh thần kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá...
(Xem: 23315)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23642)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 17591)
Năm uẩn của chúng ta -- thân thể, cảm giác, nhận thức, thúc đẩy, thức: chúng là đất sét mà chúng ta nhào nặn và tạo hình qua sự thực tập thành một vị bồ tát...
(Xem: 15762)
Giải thoát sanh tử không phải là hiện đời không chết, không phải là sống mãi ở vị lai, mà là những khổ sanh tửvị lai không còn sanh khởi nữa...
(Xem: 21978)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 38090)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 22238)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 23305)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 21421)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 28461)
Mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để đoạn trừ, hay tối thiểu làm giảm bớt những khổ đau của con người, đưa con người đến một đời sống an lạchạnh phúc...
(Xem: 32613)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 25248)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34740)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 23012)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27760)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 31361)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13636)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
(Xem: 25266)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27897)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 22150)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 20769)
Trước khi vào nội dung đề tài lần này thì có một nghi vấn đã được đặt ra như sau: "Mục tiêu của đạo Phật vốn là để giải thoát hành giảchúng sinh khỏi đau khổ luân hồi...
(Xem: 22242)
Đạo Phật đã hình thành và phát triển hơn 2500 năm, cho đến nay, tôn giáo này đã đang được sự chú ý nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học.
(Xem: 27220)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 24202)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 21999)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 14786)
Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại...
(Xem: 23250)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 24097)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 21186)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 14248)
Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia.
(Xem: 20002)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 22583)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 14119)
Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra...
(Xem: 28105)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 22926)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 28294)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 11065)
Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý.
(Xem: 28570)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 31650)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 26278)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 15045)
"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm.
(Xem: 28089)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
(Xem: 7510)
Phật GiáoTâm Lý Học Hiện Đại do ban biên tập của Bồ Đề Học Xã biên soạn, là một tài liệu giá trị cho những ai muốn tìm hiểu sự khác và giống giữa Phật PhápTâm lý Học Trị Liệu Tây phương.
(Xem: 25453)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 20765)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 21212)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant