Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

312 Câu Tụng Căn Bản Duy Thức Học

25 Tháng Hai 201400:00(Xem: 17686)
312 Câu Tụng Căn Bản Duy Thức Học


312 câu tụng

CĂN BẢN DUY THỨC HỌC

 

HẠNH CƠ Tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận:

- Duy Thức Tam Thập Tụng, nguyên tác Phạn văn của Bồ-tát Thế Thân, pháp sư Huyền Trang dịch ra Hán văn;

 - Bát Thức Qui Củ Tụng, nguyên tác Hán văn của pháp sư Huyền Trang.

chan-dung-duc-phat


1. DẪN NHẬP

 

Thế gian NGÃ và PHÁP,

gồm muôn hình vạn trạng,

tất cả không thật có,

đều do THỨC chuyển biến.

 

Thức (năng biến) có ba:

Tàng thức (A-lại-da),

Tư-lương thức (Mạt-na),

và Liễu-biệt-cảnh thức.

 

2. THỨC A-LẠI-DA (Thức Thứ Tám)

 

Thứ nhất: A-lại-da,

thường gọi tên Tàng thức,

cũng gọi Dị-thục thức,

hay Nhất-thiết-chủng thức.

 

Tánh vô phú vô kí.

Huân tập mọi chủng tử,

chứa giữ và chuyển hiện,

căn thân, khí, nhận thức.

 

Cách nhận thức: hiện-lượng.

Đối tượng là tánh cảnh

(gồm chủng tử, căn thân,

cùng vô tình thế gian).

 

Tương ưng năm biến-hành:

xúc cùng với tác-ý,

xả-thọ, tưởng,tư,

đều vô phú vô kí.

 

Biển Tàng thức mênh mông,

sâu thẳm khó nghĩ lường,

từ đó bảy chuyển thức

hiện khởi và sinh tồn.

 

Không thể nào nhận biết

sự hoạt động thâm tế

của tất cả chủng tử

trong thức A-lại-da.

 

Cũng không biết đường lối

A-lại-da chấp thọ;

liễu biệt; và thọ sinh

vào ba cõi, chín địa.

 

Hằng chuyển như dòng thác.

Đi sau, đến trước tiên.

A-la-hán, Bất-động,

rời bỏ tên “Tàng thức”;

 

đến địa vị Diệu-giác,

“Dị-thục thức” sạch không;

chủng tử thuần vô lậu,

chuyển thành “Vô-cấu thức”.

 

Đó là trí “Đại-viên”,

tuệ giác Phật-đà,

chiếu sáng mười phương cõi,

độ muôn loài chúng sinh.

 

3. THỨC MẠT NA (Thức Thứ Bảy)

 

Thứ nhì: thức Mạt-na,

được gọi tên là Ý.

Bản chấthành tướng

hằng thẩm tư lương.

 

Chuyển hiện từ Tàng thức,

lại bám chặt Tàng thức,

chấp làm Ngã, Ngã-sở,

ngày đêm đắm hôn mê.

 

Bốn phiền não căn bản:

ngã-singã-kiến,

ngã-mạn cùng ngã-ái,

luôn đeo dính ngăn che.

 

Tương ưng năm biến-hành

(thọ đây là xả-thọ);

tâm sở tuệ (biệt-cảnh);

tám phiền não đại-tùy.

 

Mạt-na (và tâm sở)

tánh hữu phú vô kí.

Chỉ duyên cảnh đới-chất.

Cách nhận thức: phi-lượng.

 

Mạt-na làm chỗ nương

cho cả sáu chuyển thức

theo đó thành nhiễm, tịnh,

nên gọi “nhiễm-tịnh-y”.

 

địa vị phàm phu,

A-lại-da sinh đâu,

Mạt-na sinh theo đó,

“hằng, thẩm” luôn chấp ngã.

 

Hoan-hỉ-địa, bắt đầu

chuyển thành “Bình-đẳng-tánh”;

La-hán, Diệt-tận-định,

Bát-địa: hết chấp Ngã.

 

Chứng quả vị Phật-đà,

hiện thân “tha thọ dụng”,

Bồ-tát và chúng sinh

thấm nhuần ơn hóa độ.

 

4. THỨC LIỄU BIỆT CẢNH (Sáu Thức Trước)

 

Thứ ba: Liễu-biệt-cảnh,

gồm sáu thức khác nhau:

Nhãn, Nhĩ, Tị, Thiệt thức,

Thân thứcÝ thức.

 

Do từ Căn-bản thức,

nương căn, trần làm duyên,

sáu thức này hiện khởi,

như sóng nương trên nước. 

 

4a. Ý THỨC (Thức Thứ Sáu)

 

Do Ý căn (Mạt-na)

tiếp xúc với pháp trần,

chủng tử từ Tàng thức

chuyển hiện ra Ý thức.

 

Tánh: thiện, ác, vô-kí.

Đối tượng gồm ba cảnh:

tánh-cảnh, đới-chất-cảnh,

đặc biệt độc-ảnh-cảnh.

 

Duyên cảnh bằng ba cách:

hiện-lượng (chân và tợ),

thường xuyên là tỉ-lượng,

nhiều trường hợp phi-lượng.

 

Hoạt động dễ nhận biết

ở cả hai hình thái:

Ý thức ngũ-câu;

Ý thức độc-đầu.

 

Bốn trạng thái độc-đầu:

Ý thức tán-vị,

Ý thức trong thiền định,

trong mộng, và điên loạn.

 

Thức này thường tương ưng

năm mươi mốt tâm sở:

năm tâm sở biến-hành

(đủ cả ba cảm thọ);

năm biệt-cảnhdục,

thắng-giải, niệm, định, tuệ,

mỗi một tâm sở này

đối tượng duyên khác nhau;

mười một thiện tâm sở:

tín, tàm, quí, vô-tham,

vô-sân và vô-si,

cần, an, bất-phóng-dật,

hành-xả bất-hại;

sáu căn-bản phiền-não:

tham, sân hận, si mê,

mạn, nghi, và ác-kiến;

hai mươi tùy-phiền-não,

chia ra tiểu, trung, đại:

mười phiền não tiểu-tùy:

phẫn, hận, phú, não, tật,

xan, cuống, siểm, hại, kiêu;

hai phiền não trung tùy:

vô-tàm vô-quí;

tám phiền não đại-tùy:

trạo-cử với hôn-trầm,

bất-tín cùng giải-đãi,

phóng-dậtthất-niệm,

tán-loạn, bất-chánh-tri;

bốn tâm sở bất-định:

hối, miên, tầmtừ,

mỗi loại tâm sở này

có thể thiện hay ác.

 

Ý thức luôn biến đổi:

hết thiện sang bất thiện,

lại đến lúc vô kí;

đang khiDục giới,

cũng vào định Sắc giới,

hoặc định Vô-sắc giới;

vui, buồn... bao tâm hành

thay nhau đến rồi đi...

 

Nương tánh “thẩm” của Ý,

làm động lực mạnh mẽ,

sai khiến thân và miệng

tạo các nghiệp dẫn, mãn.

 

Dùng chánh niệm quán sát

hoạt động của Ý thức,

có thể biết dễ dàng

quả báo trong ba cõi.

 

Ý thức thường hiện khởi,

trừ ở trời Vô-tưởng,

trong hai định vô-tâm,

ngủ say, và bất tỉnh.

 

Khi lên Hoan-hỉ địa,

Bồ-tát chỉ đoạn trừ

phân-biệt ngã pháp chấp;

nhưng câu-sinh vẫn còn.

 

Bước lên Bất-động địa,

Ý thức thuần vô lậu,

thành trí “Diệu-quán-sát”,

sáng soi cõi đại-thiên.

 

4b. NĂM THỨC TRƯỚC (tiền ngũ thức)

 

Nhãn, Nhĩ, Tị, Thiệt, Thân,

gọi chung “năm thức trước”,

cũng gọi “năm thức thân”,

năm thức cảm giác.

 

Do năm căn phù-trần

đối trước năm trần cảnh,

chủng tử từ Tàng thức

nương nơi tịnh-sắc-căn

phát hiện ra năm thức;

hoặc chung, hoặc không chung.

Người thường khó phân biệt

thứccăn khác nhau.

 

Khi hoạt động độc lập:

hiện lượng; duyên tánh cảnh;

đầy đủ cả ba tánh;

năm tâm sở biến-hành.

 

Thời thường hoạt động chung

cùng ý thức ngũ-câu:

về lượng, cũng như cảnh,

đều tùy thuộc Ý thức;

 

ba mươi bốn tâm sở:

biến-hành, biệt-cảnh, thiện,

hai trung, tám đại-tùy,

cùng với tham, sân, si.

 

Nhãn thức chín duyên sinh;

Nhĩ thức tám duyên sinh;

Tị, Thiệt và Thân thức

chỉ cần bảy duyên sinh.

 

Nhãn, Nhĩ, Tị, Thiệt, Thân:

hai trước căn cảnh lìa,

ba sau căn cảnh hợp,

để nhận rõ trần thế.

 

Ngũ-thú-tạp-cư địa:

đủ năm thức hiện hành;

Sơ-thiền: Nhãn, Nhĩ, Thân;

từ Nhị-thiền: không hiện.

 

Khi được trí Hậu-đắc,

năm thức duyên chân như

qua thế giới hiện tượng,

nhận rõ sanh, pháp không.

 

Trí Đại-viên phát sinh,

năm thức thuần vô lậu,

chuyển trí “Thành-sở-tác”,

độ sinh thoát khổ luân.

 

5. DUY THỨC

 

Các thức ấy chuyển biến,

phân biệt (kiến phần),

bị phân biệt (tướng phần),

đó là Ngã và Pháp.

 

Ngã và Pháp nếu lìa

sự biến hiện của thức,

thì đều không hiện hữu;

nên tất cả là THỨC.

 

Do thức Nhất-thiết-chủng

hằng chuyển biến trùng trùng,

nhờ năng lực triển chuyển,

mọi thứ phân biệt sinh.

 

Do tập khí các nghiệp,

tập khí hai thủ,

dị thục trước vừa hết,

liền sinh dị thục sau.

 

6. BA TỰ TÁNH và BA VÔ TÁNH của VẠN PHÁP

 

Do tánh biến-kế-chấp

biến kế tất cả vật,

“biến-kế-sở-chấp” này,

vốn không có tự tánh.

 

Vạn pháp đều nương nhau,

phát sinh và hiện hữu;

nên tự tánh của chúng

gọi là: “y-tha-khởi”.

 

Do quán chiếu thấy rõ

vạn pháp “y tha khởi”,

xa lìa tánh biến kế,

hiện tánh “viên-thành-thật”.

 

Tự tánh viên-thành-thật

cùng tánh y-tha-khởi

không khác, không không khác;

cả hai không tách rời.

 

Không thấy tánh vô-thường,

không đạt cảnh niết-bàn;

không thấy tánh y-tha,

không đạt viên-thành-thật.

 

Từ ba tự-tánh này

lập nên ba “vô-tánh”;

mật ý Phật dạy rằng:

vạn pháp không tự tánh.

 

Trước hết “tướng vô tánh”:

Tướng biến-kế-sở-chấp

hư vọng không thật có,

nên không có tự tánh.

 

Kế, “vô tự nhiên tánh”:

Các pháp do duyên sinh,

không phải tự nhiên có,

nên không có tự tánh.

 

Sau, “thắng-nghĩa vô tánh”:

Do lìa biến-kế chấp,

viên-thành-thật hiện tiền,

nên không có tự tánh.

 

Thắng nghĩa của vạn pháp

cũng tức là Chân-như,

(tánh nó là như thế),

tức Thật tánh Duy-thức.

 

7. NĂM ĐỊA VỊ TU CHỨNG

 

Khi phát tâm bồ đề,

nhưng còn chưa an trú

trong thể tánh Duy-thức,

thuộc địa vị Tư-lương;

kiến chấp Ngã và Pháp

tạm ngưng trên Ý thức,

còn tùy-miên của chúng

chưa điều phục diệt trừ.

 

Do tu duy-thức-quán,

vừa an trụ phần nhỏ

trong thể tánh Duy-thức,

đó là Gia-hạnh vị;

nhưng vì thấy “có trụ”

(tức thấy có “sở đắc”),

nên chưa thật an trụ

trong thể tánh Duy-thức.

 

Khi đối cảnh sở-duyên,

trí không thấy sở đắc,

đã dứt trừ hai thủ

(ngã chấppháp chấp),

địa vị Thông-đạt;

năng, sở như huyễn hóa,

bấy giờ mới thực sự

an trụ Duy-thức tánh.

 

Cảnh giới “vô-sở-đắc”

thật không thể nghĩ bàn,

là trí xuất-thế-gian

(tức trí vô-phân-biệt).

Đó là Tu-tập vị,

dứt sạch sở-tri chướng,

tuyệt trừ phiền-não chướng,

thành tựu quả Chuyển-y.

 

Đây cảnh giới Vô-lậu,

địa vị Cứu-cánh,

cảnh giới không nghĩ bàn,

cảnh giới cực thuần thiện,

cõi thanh tịnh chân thường,

an lạc, giải thoát thân,

đại tịch mặc, pháp thân,

vô thượng chánh đẳng giác.

 

 

HẠNH CƠ

Miền Tây Gia-nã-đại, 2010

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9085)
Thần thông của Đức Phật là một trong những đề tài thu hút người viết và lôi cuốn người đọc. Từ trước đến nay, đã có nhiều bài viết đề cập đến vấn đề này.
(Xem: 7988)
Một số người tái-sinh lên làm người (sinh từ bào thai trong bụng mẹ), người độc-ác tái-sinh xuống địa ngục, người hiền-lành tái-sinh lên cõi trời, và người không-còn ô-nhiễm, sống hoàn-toàn an-lạc nơi cõi Niết Bàn.
(Xem: 16166)
Khoa học thần kinh ngày hôm nay đã chứng minh một cách khách quan và cụ thể rằng chánh niệm (samma-sati) là con đường trực tiếp nhất để gạt bỏ vọng tưởng về cái "ta"
(Xem: 15704)
Trong các ngành khoa học, rất có thể khoa học thần kinh (neurosciences) sẽ là ngành phát triển mạnh và gây nhiều ảnh hưởng nhất trong những thập niên tới.
(Xem: 7935)
Sự kiện Đức Phật nhập Niết-bàn thường được các giới Phật giáo tổ chức thành một lễ hội thiêng liêng.
(Xem: 7943)
Từ trước đến nay không có một tôn giáo, triết họctâm lý học nào phân tích tâm đầy đủ rõ ràng như Phật Giáo.
(Xem: 8663)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc.
(Xem: 7826)
Kinh Hoa sen pháp diệu là dịch nghĩa từ tiếng Phạn Saddharmapuṇḍarīka-sūtra, và được dịch ra tiếng Trung Hoa bởi nhiều dịch giả.
(Xem: 7428)
Chẳng đồng nhất, chẳng dị biệt, chẳng đoạn diệt, chẳng thường hằng: đây là các giáo pháp bất tử của chư Phật, chư thượng thủ của thế giới.
(Xem: 9272)
Theo Phật Giáo, tâm tư duy (Tâm phan, như vệ tinh quả đất, định tinh mặt trời, và vô lượng thiên hà) có thể sinh ra trong không gian thời gian...
(Xem: 8533)
Trong cuốn giáo thuyết về linh hồn của Phật Giáo, Soul theory of the Buddhist, Giáo Sư Stcherbatsky, ghi nhận rằng...
(Xem: 8565)
Bất kì một sự vật gì tùy thuộc vào một nguyên nhân thì duyên hội thành một hiệu quả.
(Xem: 11848)
Đức Phật đã giải thích nguồn gốc của thế giới, vũ trụ, vạn vật, là do nghiệp quả (cause & effect) hấp dẫn cùng với sức thu hút bởi 12 nhân duyên
(Xem: 7461)
Ngũ uẩn hay là Ngũ ấm chỉ là năm (pañca) nhóm (skandha) tượng trưng cho năm yếu tố tạo thành con người, toàn bộ thân tâm...
(Xem: 8243)
Tạng Quang Minhcon đường đi của ánh sáng, cùng với năng lượng (chân hỏa tam muội, energy) và sắc tướng (mass) là phương tiện thần thông để du hành trong vũ trụ.
(Xem: 11648)
Nguyên văn đoạn kinh trong phẩm Phật-đà, Tương ưng bộ, như sau: “Này các Tỳ-kheo, thế nào là lý duyên khởi?
(Xem: 7378)
Phật Pháp được chia ra làm bốn thể loại là Giáo, Lý, Hành và Quả.
(Xem: 8937)
Tâm người bị ba thứ độc tố trói buộc, chính vì vậy chúng ta không sao vượt thoát được cảnh trầm luân khốn khổ. Chúng ta bị mắc kẹt trong phiền não của ba độc
(Xem: 8378)
Trong ý niệm này là sự bất biến thiên được hiểu như là một sự tướng trạng hoá của thật tướng của các sự vật.
(Xem: 9994)
Mọi tôn giáo đều tin rằng có sự sống sau khi chết, tức có kiếp sau của một ‘linh hồn’ thật sự. Học thuyết Phật giáo nên được phân biệt trong...
(Xem: 9634)
"Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm" là một câu kinh rất ngắn trong cả quyển kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật rất nổi tiếng được giới học Phật trích dẫn nhiều nhứt.
(Xem: 9563)
Mọi tồn tại đều vốn có Tự tính (như là bản chất) của nó. Vì rằng cái thành lập ra nó là Nhân tạo tác (Nhân) và Điều kiện tạo tác (Duyên) cũng tồn tại,
(Xem: 10515)
Giai đoạn đầu của Phật giáo Đại thừa được thể chứng qua sự hình thành và phát triển một văn hệ đồ sộ là Bát-nhã ba-la-mật-đa (prajñāpāramitā).
(Xem: 10090)
Căn bản trung quán luận tụng (Mūlamadhyamaka-kārikā) là một bộ luận chính trong ngôi nhà đồ sộ tráng lệ Trung Quán.
(Xem: 8185)
Cộng đồng nhân loại đã đến một điểm nghiêm trọng trong lịch sử của nó. Thế giới ngày nay khiến chúng ta phải chấp nhận nhân loại là một.
(Xem: 20169)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 8049)
Trong thế giới này cá nhân không hiện hữu, ngã cũng không hiện hữu, bởi vì chúng là các sự vật duyên khởi.
(Xem: 8527)
Đối tượng chấp thủ của tâm chấm dứt (tâm hành xứ diệt), Con đường ngôn ngữ không có lối vào (ngôn ngữ đạo đoạn).
(Xem: 9394)
Đấng Toàn Giác biết đã đến lúc sắp kết thúc kiếp sống này của Ngài. Nhưng trước khi nhập diệt, Đức Phật muốn
(Xem: 9252)
Ngã được nói đến, Để phân biệt với vô ngã. Chư Phật dạy thật tướng các pháp, Không có ngã, không có vô ngã.
(Xem: 7697)
Để giúp độc giả, tôi sẽ trình bày một bản tổng hợp giáo lý của các thuyết phục chính yếu về tôn giáotriết học của ngài Long Thọ.
(Xem: 8323)
Đây là bốn Chân lý cao quý. Này chư tăng! Những gì là bốn?
(Xem: 8166)
Do vô minh che lấp, chúng sinh tạo ba hành, nên theo ba hành nghiệp (thân, ngữ, tâm) vào luân hồi sáu cõi.
(Xem: 8984)
Hiện nay, giới nghiên cứu Phật học đang lưu tâm đến vấn đề: “Bát kỉnh pháp do Đức Phật chế ra hay do người sau thêm vào trong Tam tạng giáo điển?”.
(Xem: 8728)
Chúng ta phải hỏi điểm xuất phát là gì, chủ đề là gì, và quan tâm tối hậu của bộ luận tuyệt vời này là gì.
(Xem: 8567)
Chúng ta đang tiến dần đến đỉnh cao vĩ đại của Giáo Pháp, và mặc dù có những nguy hiểm đáng sợ đang đe doạ thế giới chúng ta.
(Xem: 10142)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hoá dân gian như...
(Xem: 8094)
Năm giớimười điều thiện được xem là cơ sở thiết lập đạo đức Phật giáo thì giới thứ hai “Không trộm cắp” là nhằm đảm bảo tính công bình và hướng tâm con người đi đến sự vô tham, vô sân, vô si.
(Xem: 8798)
Một khi tâm giác ngộ đã phát sinh, hạt giống của giáo pháp sẽ tiếp tục lớn mạnh cho dù...
(Xem: 8976)
Năm pháp, cùng tự tính, Tám thức, hai vô ngã. Hết thảy nó đều thâu nhiếp Đại thừa.
(Xem: 8423)
Nếu chúng ta có một sự sân hận lớn dễ bùng nổ và chưa rèn luyện chính mình một cách thích đáng, thế nên khi chúng ta cố gắng để...
(Xem: 7591)
Nguyên lý ở đây, là nguyên lý vô ngã, của Pháp duyên khởi, nguyên lý này ở chỗ khác, Pháp Hoa còn gọi là “vốn thường hằng tịch diệt”:
(Xem: 7493)
Chư Phật thấy các hữu tìnhbản tính tự nhiênniết bàn / bản tính niết bàn (prakrtiparinirvana; natural nirvana), vượt ngoài sầu muộn...
(Xem: 9472)
Phật giáo không bao giờ có khái niệm cõi âm hay là âm phủ. Có thể đây là những từ ngữ của tín ngưỡng dân gian
(Xem: 9830)
Tự lựctha lực là những khái niệm được đề cập rất nhiều trong Phật giáo. Những khái niệm này bao trùm...
(Xem: 8504)
Ba truyền thống Phật giáo Ấn Độ, Trung Hoa và Tây Tạng đều cho rằng Phật tánh hay Như Lai tạng là lần thuyết pháp sau cùng và cũng là cực điểm của kinh điển.
(Xem: 12246)
Tại sao gọi Tánh không duyên khởi? Nhà Phật nói tất cả pháp Tánh không, do duyên hợp thành các pháp.
(Xem: 9599)
Trước khi trở lại Tâm Kinh, hãy thử tìm hiểu thuyết vô ngã qua kiến giải của nhiều bộ phái khác nhau trong Phật giáo để...
(Xem: 7533)
Giáo huấn được mở rộng vô hạn và được tuyên thuyết đến vô lượng chúng sanh khắp các loài đủ các tính khí.
(Xem: 8806)
Sự “chuyển phước” như chỉ là một phép ẩn dụ phần nào đẹp để chỉ những gì xảy ra đối với những ảnh hưởng của hành động có kết quả tốt (puṇya), điều được gọi là “thiện nghiệp”
(Xem: 16821)
Nhập Trung Quán Luận (PDF) - Tổ Sư Nguyệt Xứng - Chuyển dịch: Thích Hạnh Tấn, TN Nhật Hạnh
(Xem: 8969)
Theo quan điểm của Phật Giáo thì mục đích của lễ bái là nhằm giúp chúng ta đến gần hơn với Đức Phật.
(Xem: 13211)
Phật giáophương cách dùng lòng Từ Bi để xóa đi, diệt đi lòng sân hận oán hờn, đó là phương thuốc diệt khổ cho vui,
(Xem: 19723)
Phật GiáoVũ Trụ Quan (PDF) - Tác giả: Lê Huy Trứ
(Xem: 8596)
Dưới đây là một bài viết của học giả Phật giáo Philippe Cornu, và cũng là bài mở đầu trong tập san "Hướng nhìn Phật giáo" (Regard Bouddhiste)...
(Xem: 9181)
Đối với Phật giáo, dana - việc bố thí - giữ một vai trò thật quan trọng, bởi vì nếu ngay từ lúc mới khởi sự tu tập mà không thực thi việc bố thí thì sẽ ...
(Xem: 8272)
“Tất cả ba cõi chỉ là Một Tâm”. Phẩm Dạ-ma cung kệ tán nói, “Như tâm, Phật cũng vậy. Như Phật, chúng sanh đồng. Tâm, Phật, và chúng sanh. Cả ba không sai khác”.
(Xem: 10151)
“Theravāda Tantra”, hay “esoteric practices of Theravāda ” là những thuật ngữ mà các học giả phương tây sử dụng để gọi các pháp hành mang tính bí truyền của...
(Xem: 9793)
Nghiệp quả: Quả chín (trên năm uẩn), * Quả tương đương với nhân,# Nghiệp quả qua hoàn cảnh
(Xem: 14989)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant