Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đạo Phật Trong Tiểu Thuyết "Hồn Bướm Mơ Tiên"

10 Tháng Năm 201422:40(Xem: 14092)
Đạo Phật Trong Tiểu Thuyết "Hồn Bướm Mơ Tiên"

ĐẠO PHẬT TRONG TIỂU THUYẾT "HỒN BƯỚM MƠ TIÊN"


Hoàng Như Mai


blankTiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên đã là cuốn sách làm say mê độc giả một thời, ấy là vì nó là lời tự bạch của một thế hệ, trong số đó có Khái Hưng là đại diện - một thế hệ bị khủng hoảng tinh thần, khủng hoảng niềm tin trước thời cuộc, hoang mang trước cái nguy cơ tự đánh mất mình, tự huỷ hoại và đã tìm thấy niềm tin, sự tế độ trong đạo Phật.

Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng, cũng là cuốn tiểu thuyết đăng nhiều kỳ trên báo Phong Hóa của nhóm Tự Lực văn đoàn được độc giả nhiệt liệt hoan nghênh. Cuốn tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên tạo ra một uy tín lớn cho tờ báo Phong Hóa và nhóm Tự Lực văn đoàn, khích lệ các nhà văn của nhóm sáng tác, và tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn đã giành được vị trí hàng đầu trong phong trào văn học trong một thời gian dài; cho đến nay, âm vang của tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn vẫn còn đọng trong ký ức độc giả, trong đó, được cảm tình sâu sắc nhất là tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên.

Thế nhưng, đối chiếu với tôn chỉ mục đích của Tự Lực văn đoàn và khuynh hướng chung của tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn thì tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên lại đứng ở môt vị trí độc lập, biệt lập nếu không nói là đối lập.

Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên hướng về đạo Phật rất rõ.

Sau thế chiến thứ nhất, thực dân Pháp ra sức khai thác các thuộc địa để bù vào những tổn phí trong chiến tranh. Ở Việt Nam, cuộc khai thác thuộc địa này là lần thứ hai ( lần thứ nhất được tiến hành sau khi xâm lược Pháp đã chiếm xong cả ba miền Nam, Trung, Bắc ).

Từ 1924 đến 1929 là thời kỳ hoàng kim trong lịch sử khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Nhưng giữa lúc đó thì xảy ra cuộc kinh tế khủng hoảng thế giới kéo dài từ 1929 đến 1933. Việt Nam không đứng ngoài cuộc.

Cuộc sống cực kỳ khó khăn. Nạn thất nghiệp trầm trọng, người chết đói như rạ:

Một đồng được chín mười thương
Mẹ con chết đói vì chưng không tiền.

Trong cuộc tranh giành nhau cái sống, những tệ nạn xã hội diễn ra khủng khiếp.

Năm 1929, nổ ra cuộc bạo động do Việt Nam quốc dân đảng tổ chức. Các cuộc khởi nghĩa ở Yên Bái, Hưng Hóa, Phú Thọ, Sơn Tây,... vào đầu năm 1930. Không thành công; bọn cầm quyền tiến hành đàn áp đẫm máu.

Năm dấy lên phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh càng khiến cho thực dân Pháp lo sợ. Chúng không ngần ngại mở ra những cuộc khủng bố tàn bạo.

Trong khung cảnh kinh tế và chính trị như vậy, nhân dân hoang mang, điêu đứng tột độ, tưởng chừng như sống trong địa ngục trần gian. Số người tự tử không ít.

Và người ta cần có niềm tin để sống và hi vọng. Người ta tìm đến đạo Phật từ bi phổ độ.

Một phong trào chấn hưng Phật giáo diễn ra mạnh mẽ. Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học được thành lập năm 1930, cho xuất tạp chí Từ Bi Âm. Ở miền Trung, hội An Nam Phật học được thành lập năm 1932, có tạp chí Viên Âm làm cơ quan ngôn luận. Ở Hà Nội sau một thời gian vận động, Hội Phật giáo Bắc Kỳ được thành lập (1934). Hội cho xuất bản kỷ yếu và tạp chí Đuốc Tuệ.

Sáng lập các hội là các thiền sư đạo cao đức trọng và các nhà trí thức đầy uy tín đương thời.

Nhà văn Khái Hưng, một người có tâm hồn nhạy cảm, có học vấn sống trong hoàn cảnh xã hội ấy chắc chắn có chịu ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo khi sáng tác tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên.

Sơ lược cốt truyện như sau:

Ngọc là sinh viên trường Canh Nông trong dịp nghỉ hè về ở với ông bác là sư tổ chùa Long Giáng. Chùa có một chú tiểu tên Lan. Thấy Lan là người có học, tính tình hòa nhã, Ngọc thân ngay. Nhưng Lan thực ra là gái, cha mẹ mất sớm, ở với chú bị chú ép gả chồng, mà Lan thì khuynh hướng về đạo Phật từ nhỏ do ảnh hưởng của mẹ, nên Lan bỏ nhà, cải dạng nam trang đến chùa Long Giáng xin tu. Khi Ngọc phát hiện Lan là gái, chàng từ tình bạn chuyển sang tình yêu. Vì Lan quyết chí tu hành như đã hứa với mẹ lúc lâm chung, cô khước từ tình yêu của Ngọc.

Câu chuyện giản dị, không có gì ly kỳ gay cấn. Tác giả củng không diễn tả, phân tích tình yêu phức tạp, éo le như ta thường thấy trong các tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn và các tiểu thuyết đương thời. Cả cái mô-tip: xung đột ái tình - tôn giáo cũng không được khai thác triệt để nhằm thu hút hứng thú của độc giả. Đọc tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên, ta cảm nhận rõ ràng Khái Hưng mượn câu chuyện để nói về đạo Phật, để trình bày cái nhìn của ông đối với đạo Phật. Quả là Khái Hưng có nhìn đạo Phật qua cái lăng kính thi vị hóa, nhưng ông nhìn đúng, với cái tâm của một người am tường, và mộ đạo.

Ngay từ đầu tiểu thuyết, tác giả đã miêu tả chùa Long Giáng, một ngôi cổ tự thanh u tịch mịch dễ cảm hóa lòng người, nâng người ta vươn lên tinh thần hướng thiện:

" Phía Tây sau dẫy đồi cỏ biếc sắc đồi đỏ, ửng lấp loáng qua các khe đám lá xanh đen. Mái chùa rêu phong đã lẫn màu cùng đất cùng cây, cùng cỏ. Khoảng khắc mấy bức tường và mấy cái cột gạch quét vôi chỉ còn lờ mờ in hình trong cái cảnh nhuộm đồng một màu tím thẫm. Lưng chừng một cái đồi cao, mấy nóc nhà rêu mốc chen lẫn trong đám cây rậm rạp, bốn góc, bốn gác chuông vượt lên trên từng lá xanh um.

... Trong làn không khí êm đềm, tiếng chuông thong thả ngân qua như đem mùi thiền làm tăng vẻ đẹp của cảnh thiên nhiên. Lá cây rung động, ngọn khói thiết tha, bông lúa sột soạt như cảm tiếng gọi của Mâu Ni muốn theo về nơi hư không tịch mịch".

Câu chuyện về sự tích Văn Khôi công chúa, con vua Lý Nhân Tôn, không chịu lấy chồng, đang đêm trốn khỏi cung, tìm đến tu ở chùa này, vì thế nhà vua nổi giận sai phóng hỏa đốt chùa; nhưng ngọn lửa vừa nhóm, có con rồng vàng hiện lên phun nước lửa tắt ngay, vì thế chùa mới có tên Long Giáng lại tôn thêm giá trị kỳ thú của ngôi chùa, làm nảy sinh trong lòng người môt niềm tin thành kính.

Tác giả dẫn độc giả đến với những sinh hoạt trong chùa được tác giả quan sát rất tinh tế:

"... Trên chiếc bục gỗ trải chiếc đậu sư cụ ngồi tụng kinh cặp mắt đăm đăm nhìn thẳng vào quyển sách có chữ to đặt trên cái kỷ nhỏ gỗ mọc.

Tay phải sư cụ cầm dùi gõ mõ như để chấm câu cứ đọc bốn chữ lại đánh một tiếng. Tay trái sư cụ đặt lên trên quyển kinh, thỉnh thoảng lại rời quyển sách, nhắc chiếi dùi gõ một tiếng vào cái chuông con trông hình dáng như cái lon sành.

Sư cụ có vẻ tôn nghiêm lắm. Bao nhiêu tâm trí hình như thu cả vào quyển kinh, không hề thấy cụ liếc mắt ra chỗ khác. Các pho tượng ngồi trên bệ gạch thì hình như đang lắng tai nghe, có vẻ trầm tư mặc tưởng.

Tiếng kinh du dương, mùi trầm ngào ngạt, Ngọc tưởng tượng sống trong một thế giới khác, thế giới mông ảo thần tiên.

... Chú ( chú tiểu Lan ) vẫn chăm chú vào phậnsự: cứ đọc một câu lại đánh mọt tiếng bớt, khi câu niệm chỉ còn it chữ thì hai tiếng kế tiếp lại thêm gần nhau cho tới khi chu tiểu đổ hồi.

Ngọc cố chờ đến mười lăm phút cho chú tiểu đánh dứt hồi chuông, cuối cùng đặt vồ xuống ván gác, rồi nghiêm trang hỏi rằng:

- Sao chú phải cầu kinh thế mới đánh được chuông ?

Lan cười:

- Đánh chuông phải đọc thần chú chứ.

- Thần chú ! Hay nhỉ.

- Nghĩa là mười sáu câu niệm Phật, ba hồi một trăm hăm ba tiếng.

- Vậy nhớ được cũng khó lắm nhỉ.

- Phải học thuộc lòng chứ.

- Những ba hồi, một trăm hăm ba tiếng ! Thảo nào mãi bây giờ mới dứt hồi ".

Những công việc này, đối với các nhà tu hành thì không có gì đáng để ý vì là quen thuộc; nhưng đối với những ai chưa ở chùa thì tác giả đã cho thấy chùa là nơi có quy củ, trật tự nghiêm chỉnh , mỗi hành vi đều có ý nghĩa, không phải là xô bồ luộm thuộm như nhiều người lầm tưởng.

Mấy trang tiểu thuyết diễn tả lễ làm chay thật là sinh động:

" Luôn hai tối, các nhà sư ở những chùa lân cận nhận được giấy mời của sư cụ Long Giáng tề tựu đến dự lễ rất đông.

Ngoài sân chùa,ở giữa bày ba tầng án thư chồng lên nhau theo hình thang. Hai bên cũng đều có án thư. Nến thắp linh tinh, ánh sáng phản chiếu vào những mặt kính tròn ở các mũ giấy bày la liệt kín cả mấy hàng án thư trông lấp lánh như các ngôi sao trên trời.

Tối nào các nhà sư cũng cắt lượt nhau tụng kinh đến tận hai ba giờ sáng, hoặc ngồi ở chiếu giữa hoặc đứng sát các án thư bên. Cứ xong một lần tụng niệm lại có đánh trống lớn , trống con, thanh la, não bạt,nghe rất là inh ỏi.

Đến tối thứ ba thì vào đàn giải kết.

... Sư ông ngồi ở chiếu giữa tụng kinh một lúc lại chạy vòng quanh đàn , nghĩa là đi lượn khắp các hàng án thư, theo nhịp nhanh hay chậm của tiếng trống và tiếng thanh la. Sau lưng sư ông gần hai chục người chạy theo, nào tiểu nào vãi, nào thiện nam tín nữ cùng là những người sự chủ.

... Chạy xong một tuần sư ông lại vào chiếu giữa múa mênh quyết ấn trông rất dẻo tay, rồi cầm kéo cắt những đồng tiền kết giấy thành hình người và treo lủng lẵng ở ba hàng dày chung quanh bàn. Cứ mỗi lần lại cắt bốn, năm đồng , kỳ cho hết là tan đàn.

Trong khi ấy thì những người tùy tùng hoặc vào ngồi lễ ở sau lưng sư hoặc đứng sang một bên lẫn vào chỗ người đi xem".

Đối với các nhà folklore học, đây là những tư liệu để nghiên cứu rất bổ ích và thú vị. Với sự thông thái, họ sẽ lượng giá được những đặc sắc của một nền văn hóa dân tộc không thể xem thường. Cuộc lễ làm chay có cả một cơ sở triết lý và biểu hiện một giá trị nghệ thuật đặc biệt.

Những người dân Việt Nam bình thường dự lễ được ghi nhớ, hiểu thêm về lễ nghi phong tục đậm đà bản sắc dân tộc, những truyền thống quý báu mà ông cha ta đã gây dựnglưu truyền lại cho con cháu. Họ được học một cách trực quan, sâu sắc bài học đạo hiếu đối với cha mẹ: một đạo lý thiêng liêng, một tín ngưỡng rất có ý nghĩa. Đạo Phật đi vào lòng nhân dân một cách tự nhiên như vậy.

Nhiều người vẫn cho rằng tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên nêu lên sự xung đột giữa Ái tìnhTôn giáo. Không hẳn như vậy, ấy chỉ là một tình tiết của câu truyện.Ta hãy bàn về tình tiết ấy trước và vấn đềxung đột hay không, sẽ bàn sau.

Khi phát hiện tiểu Lan là gái giả trai, Lan lại xinh đẹp, hiền hòa, dịu dàng, Ngọc đã nảy sinh tình yêu, điều này là có thể. Lan là cô thiếu nữ trẻ, có học , bấy lâu sống với những người trong chùa là dân quê chất phác, nay gặp Ngọc có học vấn, tính tình hòa nhã vui vẻ, tất nhiên cũng có cảm tình. Lan vì trốn một cuộc tình duyên ép buộc mà đi tu, cô mới tu được hai năm, chưa phải đã dứt bỏ được thế tục, mà Ngọc lại bộc lộ tình yêu tha thiết, chân thành, Lan làm sao tránh khỏi được đôi lúc phân vân ? Nhưng mỗi lúc nhận thấy mình chơi vơi, Lan vội cầu viện sự cứu trợ của đức Phật.

Lần thứ nhất, Lan leo lên thang gác chuông, bất thình lình gặp rắn, hoảng sợ ngã vào lòng Ngọc; sau đó Ngọc đứng canh rắn để Lan thỉnh chuông.

Sự đụng chạm giữa trai và gái, cùng lòng hào hiệp của Ngọc có tác động đến tình cảm của Lan. Lập tức đêm ấy, Lan thắp nhang tụng niệm cầu khấn đức Từ bi phù hộ cho có đủ nghị lực xa chỗ trầm luân.

Lần thứ hai, Lan đọc bức thư bày tỏ tình yêu của Ngọc ( Ngọc viết định đưa Lan nhưng không dám, xé đi, Lan vô tình chắp lại những mãnh giấy và đọc được ), Lan bị xúc động:

" Lan buồn rầu nghĩ ngợi, hai bên má có ngấn hai hàng nước mắt.

Bỗng có tiếng mõ tụng kinh ở chùa đưa tới.

Một nụ cười kín đáo trên cặp môi Lan thong thả trở về.

... Vào trong nhà chùa ngửi thấy mùi trầm ngào ngạt nghe thấy tiếng tụng kinh dịu dàng, Lan tươi cười thở dài, như kẻ ngã xuống sông vừa ngoi lên được mặt nước vậy.

Làn không khí êm đềm tịch mịch bao bọc, những pho tượng khổng lồ, nét mặt thản nhiên. Trên bục gỗ sư cụ khóac áo bốn thân ngồi ngay thẳng như pho tượng chỉ hơi mấp máy cặp môi và động đậy cánh tay gõ mõ.

Lan đứng sửng hồi lâu, nhắm mắt lim dim hai tay, chắp ngực, rồi thong thả nhẹ nhàng như cái bóng, mon men lại sau lưng sư cụ ngồi xệp xuống đất, lâm râm khấn khứa ".

Lần thứ ba, một cử chỉ không cố ý của Ngọc làm cho áo của Lan tuột cúc trễ vạt ra, Ngọc thoáng thấy ngực Lan quấn vải nâu. Lan sợ quá bỏ chạy và Ngọc cũng rất hối hận. Ngọc chạy tìm Lan và trấn an Lan là chàng không có tà tâm gì hết, thề với Lan sẽ về Hà Nội để Lan yên tâm tu hành.

Ngọc về Hà Nội. Lan bỗng cảm thấy sầu khổ: Lan đã yêu .

" Lan lẩm bẩm: " Ta rất có tội với đức Phật tổ ". Lúc ấy, Lan thoáng ngửi thấy mùi trầm. Thì ra lên tới chùa trên từ bao giờ mà Lan không biết vẫn tưởng còn ngồi trong buồng Ngọc. Ngước mắt trông lên các tượng thấp thoáng trong bóng đèn tù mù dầu lạc. Tuy không nhìn rõ, nhưng Lan cũng tưởng tượng ra cái vẻ tươi cười khoan dunglãnh đạm của những pho Bụt. Từ từ Lan cúi mặt như người vừa bị quở mắng, rồi rón rén tới bục gỗ quỳ xuống thì thầm khấn khứa ".

Lần thứ tư là sau khi chùa Long Giáng vắng bóng Ngọc. Ba bốn ngày sau khi Ngọc đi, chú chẳng thiết làm gì, chẳng muốn ăn uống gì...

Chiều hôm ấy, mặt trời đã lặn sau rặng đồi tây, Lan còn thơ thẩn ở trên vườn sau chùa. Ngồi trên bó cành lẫn lá để ngổn ngang chưa buộc cặp mắt lờ đờ nhìn về phía xa xa, linh hồn Lan như đương theo đám mây phản chiếu sắc hồng của vừng thái dương mà bay về nơi hư vô tịch mịch. Lan thở dài buột mồm thong thả nói: " Nát bàn ! Bồng lai ! ".

Hai ý tưởng " tôn giáo " và " ái tình " hình như đương công kích nhau ở trong tâm trí.

Bỗng Lan giật mình tỉnh bừng giấc mộng. Tiếng chuông như cất giọng từ bi vỗ về an ủi dỗ dành. Lan mỉm cười lẩm bẩm: " Thế nào cũng phải lánh xa nơi trần tục".

Tiếng chuông đổ hồi như vui mừng cười khanh khách vì đã giải thoát được tâm hồn Lan.

Lan cũng cười tiếp theo hồi chuông, tiếng cười lanh lảnh trong làn không khí yên lặng dưới ánh tà mù thảm đạm buổi chiều tà".

Xung đột giữa ái tìnhtôn giáo ? Không có. Bởi vì nếu là xung đột thì cuộc giao tranh sẽ quyết liệt, giằng co, đưa tới bi kịch. Ở đây, quả là có những lúc ái tình gợn lên trong Lan, tuy nhiên nó cũng như những lượn sóng gợn lên trên mặt hồ khi có hòn đá ném xuống, nhưng chỉ trong chốc lát mặt hồ lại trở về phẳng lặng; nó cũng như hạt sương còn đọng lại trên lá buổi sớm mai, nhưng mặt trời chiếu nắng là sương tan ngay.

Thế thì có thể nói: Đạo Phật đàn áp tình cảm ?

Không đâu.

Hãy đọc đoạn đối thoại của Lan và Ngọc ở phần kết thúc; khi Ngọc trở lại chùa thăm Lan:

-Vậy xin Lan cứ ở đây tu hành, rồi ngày Ngọc được nghỉ cho phép Ngọc phóng xe đạp lên đây thăm Lan, Lan có ưng như thế không ?

Lan mỉm cười:

- Nếu được mãi như thế ?

- Tôi xin thề với Lan rằng tôi giữ được mãi như thế. Tôi nêu Phật tổ tôi xin thề với Lan rằng suốt trong đời tôi, tôi sẽ chân thành thờ ở trong tâm trí, cái linh hồn dịu dàng của Lan.

- Thế nghĩa là thế nào ?

- Nghĩa là suốt đời tôi, tôi không lấy ai, chỉ sống trong cái thế giới mộng ảo của ái tình lý tưởng, của ái tình bất vong bất diệt.

Lan hai dòng nước mắt đầm đìa, dịu dàng bảo bạn:

- Không được. Còn gia đình của ông ?

Ngọc lạnh lùng:

- Gia đình ! Tôi không có gia đình nữa. Đại gia đình của tôi nay là nhân loại, là vũ trụ mà tiểu gia đình tôi là... hai linh hồn của đôi ta ẩn núp dưới bóng từ bi Phật tổ.

Lan tươi cười, ôn tồn bảo bạn:

- Tôi không ngờ Phật giáo đã cảm hóa ông được sâu xa đến thế.

Đương nhiên hai người trẻ tuổi ấy chưa hoàn toàn rũ sạch được trần tâm, chưa đạt tới được đỉnh " vô ngã ", nhân sinh thành Phật dễ đâu ( Truyện Nam hải Quan Thế Âm ), nhưng đích thật họ đã vượt qua được vũng bùn tình dục mê muội mà vươn lên tình yêu thuần khiết, tình yêu vị tha; ấy là bước đầu giải thoát.

Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên đã là cuốn sách làm say mê độc giả một thời, ấy là vì nó là lời tự bạch của một thế hệ, trong số đó có Khái Hưng là đại diện - một thế hệ bị khủng hoảng tinh thần, khủng hoảng niềm tin trước thời cuộc, hoang mang trước cái nguy cơ tự đánh mất mình, tự huỷ hoại và đã tìm thấy niềm tin, sự tế độ trong đạo Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4940)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5582)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5710)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5890)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
(Xem: 5079)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4489)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4794)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4799)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5954)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3383)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5373)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 3030)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(Xem: 4257)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(Xem: 5364)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 4352)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 3420)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 6466)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 5458)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(Xem: 4701)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(Xem: 6364)
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật.
(Xem: 6217)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(Xem: 4012)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(Xem: 6126)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
(Xem: 4725)
Về mặt ngôn từ, thì chữ “công đức” là được dịch nghĩa từ chữ “punna” trong tiếng Pali. Tiếng Anh dịch thành chữ “merit”.
(Xem: 4872)
Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
(Xem: 3493)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy
(Xem: 6370)
Uẩn, thuật ngữ Pāli là khandha (Skt: skandha) thường được dịch sang tiếng Anh là ‘aggregates’ uẩn.
(Xem: 5064)
Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh.
(Xem: 3643)
Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả.
(Xem: 3582)
Mọi hiện tượng và sự vật trên thế gianhoàn vũ này không bao giờ độc lậptồn tại, mà do nhân duyên hòa hợp tạo thành.
(Xem: 5817)
Quan điểm thống nhất trong kinh điển là: sát sanh vi phạm giới luật đầu tiên và chiến tranh là sai lầm ngay cả khi chiến đấu cho mục tiêu phòng thủ hay tấn công.
(Xem: 4369)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.
(Xem: 6099)
Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.
(Xem: 5334)
Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo,
(Xem: 3766)
Định hướng cuộc đời để đạt được mong muốn thích đángyếu tố quan trọng giúp cho ta thăng tiến trên đỉnh cao của sự giác ngộgiải thoát.
(Xem: 3877)
Hơn bao giờ hết, những bản dịch kinh điển rõ ràng dễ hiểu, được chú giải thận trọng, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi đến tay người học Phật đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan trọng.
(Xem: 3807)
Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì?
(Xem: 3611)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 5478)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 4143)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 4504)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 5913)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 3218)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 3172)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 3999)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 4974)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 3659)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
(Xem: 3127)
Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra.
(Xem: 4662)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 4861)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 3553)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
(Xem: 4094)
Nhà Phật thường nhắc đến đạo lý sống Trung Đạo. Cái gọi là Trung Đạo chính là không đi theo hướng cực đoan, quá mức.
(Xem: 4834)
Nhiều trường phái Phật Giáo ngày nay vẫn tụng Kinh Pali, ngôn ngữ của Đức Phật lịch sử.
(Xem: 3680)
Hiện nay, quý vị trẻ thường thích thể hiện mình theo nhiều cách mà mọi người vẫn thường gọi chung chung là muốn khẳng định cái tôi.
(Xem: 3684)
Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu
(Xem: 5227)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 4261)
Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo".
(Xem: 3377)
Buông bỏ phiền não, trước hết là để giải tỏa mọi ưu tư, khiến người ta hạnh phúc.
(Xem: 3061)
Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ.
(Xem: 3126)
Sự quán sát, quán chiếu khởi từ danh tướng - danh là hương, là vị; tướng là những tính chất đặc trưng của chúng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant