Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương IX: Rèn Luyện Đức Trầm Tĩnh

07 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 13139)
Chương IX: Rèn Luyện Đức Trầm Tĩnh


TẤM LÒNG RỘNG MỞ
LUYỆN TẬP LÒNG TỪ BI TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY

Tác giả Dalai Lama - Lê Tuyên biên dịch - Lê Gia hiệu đính
Dịch từ nguyên tác tiếng Anh: An Open Heart Practicing Compassion in Everyday Life

CHƯƠNG IX 
RÈN LUYỆN ĐỨC TRẦM TĨNH 
 (CULTIVATING EQUANIMITY) 

Để thật sự cảm thấy động lòng thương xót đối với mọi người, chúng ta phải xóa bỏ được sự thiên vị trong thái độ của chúng ta. Thái độ bình thường của chúng ta bị tác động ảnh hưởng bởi những cảm xúc biệt đải và luôn dao động. Chúng tacảm giác gần gũi dành cho người mà chúng ta yêu thương , đối với những người lạ chúng ta cảm thấy xa cách và lạnh nhạt. Và đối với những ai chúng ta căm ghét thì chúng tathái độ ác cảm và khinh miệt. Tiêu chuẩnchúng ta phân loại mọi người thành kẻ thù hay bạn bè rất rõ ràng. Nếu một người gần gũi với ta hoặc tốt bụng tử tế với ta, người đó là bạn của ta. Nếu một người gây hại hay gây khó khăn cho ta, người đó là kẻ thù của ta. Kèm với sự ưa thíchchúng ta dành cho những người thân thương của chúng ta là những cảm xúc như lòng lưu luyến và sự khao khát được gần gũi yêu thương.

Tương tự, chúng ta nghĩ về những người mà chúng ta không thích với những cảm xúc tiêu cực như: tức giận và căm thù. Do đó lòng từ bi của chúng ta dành cho mọi người luôn có giới hạn, thiên vị,thành kiến và được quyết định bởi một điều là liệu chúng ta cảm thấy gần gũi với họ hay không.

Lòng từ bi chân thật phải là "vô điều kiện", chúng ta phải trau dồi đức trầm tĩnh để vượt qua được những cảm xúc thiên vịphân biệt. Một cách để trau dồi đức trầm tĩnhchúng ta phải suy ngẫm về tính không chắc chắn của tình bạn. Đ ầu tiên, chúng ta phải cân nhắc nhận ra được rằng không có sự đảm bảo nào rằng người bạn thân của chúng ta hôm nay sẽ mãi mãibạn thân của chúng ta. Tương tự, chúng có thể hình dung rằng sự "không ưa thích" của chúng ta dành cho một người nào đó sẽ không nhất thiết phải tồn tại mãi mãi. Những suy nghĩ như vậy khuếch tán những cảm xúc mạnh mẽ của sự thiên vịphân biệt của chúng ta, làm suy yếu tính bất biến của tình cảm lưu luyến trong chúng ta.

Chúng ta cũng có thể suy niệm về những hậu qủa tiêu cực của lòng lưu luyếnchúng ta dành cho bạn bè và thái độ thù địchchúng ta đối với kẻ thù. Những cảm giác của chúng ta đối với bạn bè và người yêu đôi khi làm cho chúng tamù quáng. Chúng ta phóng đại những phẩm chất mà mình khao khát nơi người đó. Chúng ta tin chắc là mình không hề sai lầm. Sau đó, khi chúng ta nhận thấy sự việc không đúng với những gì mà chúng ta phóng đại, chúng ta kinh ngạc, chúng ta choáng váng. Chúng ta rớt từ đỉnh cao tột cùng của tình yêu và mơ ước xuống sự thất vọng, chán ghét và thậm chí là tức giận. Trong một số trường hợp, cảm giác hài lòng và thỏa mản trong mối quan hệ với một người nào đó mà chúng ta yêu thương có thể trở thành sự thất vọngcăm thù. Những người có tình yêu lãng mạn và lòng căm thù chính trực thường bị lôi cuốn bởi những cảm xúc này, niềm vui của họ chỉ là thoáng qua. Theo quan điểm Phật giáo, tốt hơn hết chúng ta nên tránh sự lôi cuốn của những cảm xúc như vậy ngay từ lúc đầu.

Những ảnh hưởng khi bị chế ngự bởi lòng căm thù là gì? Người Tây Tạng cho rằng lòng căm thù, "Shedang", là thái độ chống đối thù địch từ sâu thẳm trong lòng. Có một điều gì không ổn khi chúng ta phản ứng lại những điều bất công và những tổn thương bằng lòng thù địch. Lòng căm thù của chúng ta chẳng gây ảnh hưởng nảo lên kẻ thù của chúng ta cả; nó không gây tác hại cho họ. Đúng hơn, chính chúng ta phải chịu những hậu quả xấu và sự đau đớn do lòng căm thù của chúng ta gây ra. Nó gặm nhấm chúng ta từ bên trong. Khi tức giận, chúng ta ăn không ngon miệng, chúng ta không thể ngủ ngon, chúng ta chỉ trở mình qua lại mà không thể chợp mắt được. Nó ảnh hưởng đến chúng ta mạnh mẽ, trong khi đó kẻ thù của chúng ta vẫn tiếp tục sống hạnh phúc vui vẽ không hề biết tới những gì mà chúng ta đang gánh chịu.

Thoát khỏi lòng tức giận căm thù, chúng ta có thể xử lý mọi tình huống bằng những phản ứng sáng suốt và có hiệu quả hơn nhiều. Nếu chúng ta tiếp cận mọi vấn đề với một tâm trí điềm tĩnh, chúng ta sẽ nhìn nhận, quan sát mọi vấn đề một cách rõ ràng hơn và từ đó quyết định phương pháp tốt nhất để xử lý vấn đề. Ví dụ, nếu một đứa bé đang làm một điều gì đó gây nguy hiểm cho chính nó và cho mọi người, như là chơi với những que diêm, chúng ta có thể trừng phạt nó. Khi chúng ta đối xử một cách thẳng thắng như vậy, một điều rất có khả năng xảy ra- đứa bé sẽ không đáp ứng sự tức giận của chúng ta mà là đáp ứng thái độ khẩn cấp và lo ngại của chúng ta

Đây là cách để chúng ta nhận ra rằng kẻ thù của chúng ta thật ra là sự căm thù ở trong lòng chúng ta. Đó là tính ích kỹ, lòng lưu luyến và sự tức giận của chúng ta. Khả năng kẻ thù của chúng ta gây hại cho chúng ta rất hạn hẹp, trong khi đó thì nhũng cảm xúc ích kỹ, lòng lưu luyến và sự tức giận lại gây hại trực tiếp cho chúng ta. Nếu một người nào đó thách thức, kích động chúng ta, chúng ta nên suy ngẫm về bản chất của lòng căm thù, tức giận và kềm chế bản thân mình không trả đủa lại. Một điều khá rõ ràng là cho dù người đó có làm gì đi nữa thì khả năng mà những hành động của người đó gây hại cho chúng ta hầu như không đáng kể. Mặt khác, khi những cảm xúc mạnh mẽ như cực kỳ tức giận, căm thù hoặc ham muốn xuất hiện, chúng tạo ra sự bối rối trong tâm hồn chúng ta. Ngay lập tức, chúng phá hoại sự yên tĩnh trong tâm hồn chúng ta và tạo cơ hội cho buồn phiềnđau khổ phá hoại việc luyện tập tâm hồn của chúng ta.

Khi chúng ta rèn luyện tính trầm tĩnh bình thản, chúng ta có thể nhận thức được rằng những khái niệm về "kẻ thù"và "bạn bè" có thể thay đổi được và phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác. Không có ai vừa được sinh ra đã là bạn bè hay kẻ thù của chúng ta và cũng không có một đảm bảo nào cho rằng những người bạn của chúng ta sẽ mãi mãi là bạn của chúng ta. "Bạn bè" và "kẻ thù" được phân chia tuỳ thuộc vào thái độ cư xử của họ đối với chúng ta. Những người mà chúng ta tin rằng họ yêu thương, quan tâm chăm sóc chúng ta, chúng ta thường xem họ như là những người bạn và người thân của mình. Những người mà chúng ta tin rằng họ có những ý định xấu và những mục đích có hại cho chúng ta, chúng ta xem họ như là kẻ thù của mình. Chúng ta xem mọi người là bạn bè hay kẻ thù đều dựa vào tri giác về những suy nghĩcảm xúc mà họ dành cho chúng ta. Vậy thì, không có ai thật sự là bạn bè của chúng ta mà cũng không có ai thật sự là kẻ thù của chúng ta.

Chúng ta thường nhầm lẫn giữa hành vi của một người và con người thật của người đó. Thói quen này làm cho chúng ta quyết định rằng bởi vì một hành vi nào đó hoặc lời nói nào đó, người đó là kẻ thù của chúng ta. Tuy nhiên, thực ra người đó không phải là bạn mà cũng không phải là thù, không phải là Đức Phật cũng không phải là Đức Chúa, không phải là người Trung Hoa cũng không phải là người Tây Tạng. Trong nhiều trường hợp, cũng người đo,ù nếu chúng ta tiếp xúc lâu dài thì lại trở thành bạn thân của chúng ta. Chẳng có gì lạ khi chúng ta suy nghĩ: "Ồ! Bạn đã từng là kẻ thù của ta trong quá khứ, còn hiện tại chúng ta là những người bạn tốt của nhau!".

Một cách khác để rèn luyện đức trầm tĩnhvượt qua cảm xúc thiên vịphân biệtchúng ta suy niệm rằng mọi người đều bình đẳng như nhau, đều khao khát được hạnh phúcvượt qua đau khổ. Ngoài ra, tất cả chúng ta đều cảm thấy rằng nình có quyền thoả mãn khát vọng này. Chúng ta biện hộ cho đều này theo cách nào? Rất đơn giản! Nó là một phần trong bản chất thật sự của con người. Tôi không phải là người "duy nhất". Tôi không có một đặc quyền nào cả. Bạn cũng không phải là người "duy nhất". Bạn cũng không có một đặc quyền nào cả. Khao khát của tôi muốn được hạnh phúcvượt qua đau khổ là một phần trong bản tính của tôi, đó cũng là một phần trong bản tính của bạn. Vậy thì tất cả mọi người đều có quyền được hưởng hạnh phúcvượt qua đau khổ, đơn giản là vì mọi người có chung bản tính cơ bản này. Dựa trên nền tảng của sự bình đẳng này, chúng ta phát huy đức thư thái trâm tĩnh đối với mọi người. Khi chúng ta thiền định, chúng ta phải cố g?ng trau dồi tư tưởng "Chính bản thân mình mong muốn được hạnh phúcvượt qua đau khổ, mọi người cũng vậy; chính bản thân mình bẩm sinh đã có quyền thoả mãn khát vọng này và mọi người cũng có". Chúng ta nên lặp đi lặp lại nhiều lần suy nghĩ này khi chúng ta thiền định và cả trong đời sống hàng ngày cho tới khi nó thấm nhuần vào tâm hồn chúng ta.

Còn có một điều quan trọng nữa là đời sống của chúng ta phụ thuộc rất nhiều vào đời sống của mọi người. Chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự đóng góp của nhiều, rất nhiều sự tồn tại khác. Sự ra đời của chúng ta phụ thuộc vào cha mẹ chúng ta. Sau đó chúng ta cần được sự chăm sóc và tác động của cha mẹ chúng ta trong nhiều năm. Cách sinh nhai của chúng ta, nơi trú ngụ của chúng ta, phương tiện sinh sống của chúng ta, thậm chí sự thành côngdanh tiếng của chúng ta là kết quả của sự chung sức của cha mẹ chúng tavô số người khác. Hoặc trực tiếp, hoặc giáng tiếp, vô số người khác có liên quan đến sự tồn tại của chúng ta – đó là chưa kể đến hạnh phúc của chúng ta.

Nếu chúng ta mở rộng lối suy luận như vậy trong phạm vi một đời người, chúng ta có thể hình dung ra rằng xuyên suốt những kiếp trước của chúng ta – thật ra là kể từ lúc khai thiên lập địavô số người đã đóng góp vô số kể vào đời sống của chúng ta. Chúng ta có thể tự hỏi và kết luận: "Mình dựa vào đâu để mà đối xử phân biệt? Cớ sao mình lại có thể đối xử thânthiện với một số người và đối xử thù địch với một số người khác? Mình phải vượt qua mọi cảm xúc phân biệtthiên vị. Mình phải giúp ích cho mọi người như nhau".

 THIỀN ĐỊNH VỀ ĐỨC TRẦM TĨNH 
(MEDITATION FOR EQUANIMITY) 

Chúng ta rèn luyện tâm hồn để nhận thức được sự bình đẳng thiết yếu của mọi đòi sống bằng cách nào đây? Tốt nhất chúng ta nên trau dồi suy nghĩ về sự trầm tĩnh bằng cách trước hết chúng ta tập trung vào những người bà con lạ mặt và những người quen biết, đối với những người này bạn hoàn toàn không có những cảm xúc mạnh mẽ. Từ đó, bạn nên suy niệm một cách vô tư, bạn tiếp tục suy niệm về bạn bè rối đến kẻ thù. Khi có được thái đ? vô tư không thiên vị đối với mọi người, bạn nên thiền định về lòng yêu thương, về mong ước rằng mọi người sẽ tìm được hạnh phúc mà họ đang kiếm tìm.

Hạt giống của lòng từ bi sẽ lớn lên nếu bạn gieo nó trên một mảnh đất màu mỡ, một tâm hồn thấm nhuần lòng yêu thương. Khi bạn "tưới" lòng yêu thương vào tâm hồn mình, bạn có thể bắt đầu thiền định về lòng từ bi. Lòng từ bi, ở đây, đơn giảnmong ước mọi người vượt qua được mọi đau khổ.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4937)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5579)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5705)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5886)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
(Xem: 5073)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4479)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4781)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4791)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5951)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3375)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5367)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 3026)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(Xem: 4253)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(Xem: 5358)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 4347)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 3414)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 6459)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 5449)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(Xem: 4695)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(Xem: 6340)
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật.
(Xem: 6192)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(Xem: 3989)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(Xem: 6095)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
(Xem: 4702)
Về mặt ngôn từ, thì chữ “công đức” là được dịch nghĩa từ chữ “punna” trong tiếng Pali. Tiếng Anh dịch thành chữ “merit”.
(Xem: 4851)
Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
(Xem: 3480)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy
(Xem: 6361)
Uẩn, thuật ngữ Pāli là khandha (Skt: skandha) thường được dịch sang tiếng Anh là ‘aggregates’ uẩn.
(Xem: 5054)
Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh.
(Xem: 3631)
Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả.
(Xem: 3572)
Mọi hiện tượng và sự vật trên thế gianhoàn vũ này không bao giờ độc lậptồn tại, mà do nhân duyên hòa hợp tạo thành.
(Xem: 5811)
Quan điểm thống nhất trong kinh điển là: sát sanh vi phạm giới luật đầu tiên và chiến tranh là sai lầm ngay cả khi chiến đấu cho mục tiêu phòng thủ hay tấn công.
(Xem: 4359)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.
(Xem: 6093)
Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.
(Xem: 5328)
Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo,
(Xem: 3757)
Định hướng cuộc đời để đạt được mong muốn thích đángyếu tố quan trọng giúp cho ta thăng tiến trên đỉnh cao của sự giác ngộgiải thoát.
(Xem: 3863)
Hơn bao giờ hết, những bản dịch kinh điển rõ ràng dễ hiểu, được chú giải thận trọng, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi đến tay người học Phật đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan trọng.
(Xem: 3800)
Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì?
(Xem: 3603)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 5472)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 4136)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 4494)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 5908)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 3211)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 3168)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 3993)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 4967)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 3649)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
(Xem: 3115)
Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra.
(Xem: 4655)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 4854)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 3545)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
(Xem: 4087)
Nhà Phật thường nhắc đến đạo lý sống Trung Đạo. Cái gọi là Trung Đạo chính là không đi theo hướng cực đoan, quá mức.
(Xem: 4825)
Nhiều trường phái Phật Giáo ngày nay vẫn tụng Kinh Pali, ngôn ngữ của Đức Phật lịch sử.
(Xem: 3669)
Hiện nay, quý vị trẻ thường thích thể hiện mình theo nhiều cách mà mọi người vẫn thường gọi chung chung là muốn khẳng định cái tôi.
(Xem: 3680)
Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu
(Xem: 5222)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 4257)
Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo".
(Xem: 3371)
Buông bỏ phiền não, trước hết là để giải tỏa mọi ưu tư, khiến người ta hạnh phúc.
(Xem: 3056)
Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ.
(Xem: 3121)
Sự quán sát, quán chiếu khởi từ danh tướng - danh là hương, là vị; tướng là những tính chất đặc trưng của chúng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant