Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sinh Diệt Nương Nhau

18 Tháng Tư 201100:00(Xem: 4729)
Sinh Diệt Nương Nhau

CON ĐÃ CÓ ĐƯỜNG ĐI
Thích Nhất Hạnh
Nhà xuất bản Phương Đông 2010

Sinh diệt nương nhau

 

Năm cũ đi đâu mất rồi?

Chỉ còn vài giờ nữa là sang năm mới, và đây là bài pháp thoại cuối cùng của tôi trong năm 2008. Quý vị có tin không, có tin là chỉ còn vài giờ nữa là hết năm 2008 không? Tôi thì không tin. Khó tin quá. Năm 2008 đang chạy trốn. Bây giờ chúng ta thử chạy theo để kéo năm 2008 về nhé. Nhưng kéo không nổi đâu, khó lắm. Thôi, bây giờ để tôi hỏi quý vị câu này: “Sau khi rời chúng ta, năm 2008 sẽ đi đâu?”. Cái năm vẫn đang ở cùng với chúng ta, trong vài giờ nữa nó sẽ rời chúng ta thôi, mọi người đều nghĩ vậy. Nhưng câu hỏi của tôi là “khi năm 2008 đi rồi thì nó đi đâu? Nó đi hướng nào, và chúng ta tìm nó ở đâu?”. Đây là câu mà tôi thường tự hỏi.

Và năm mới, năm 2009 tới từ đâu? Đó là một câu hỏi rất sâu, rất hấp dẫn. Thiền quánchúng ta phải làm vậy, chứ không phải cứ ngồi lim dim hoài, thở vào thở ra, chỉ có vậy thôi thì đâu có được. Mình phải nhìn sâu, phải đặt những câu hỏi rất sâu để có thể tìm ra những câu trả lời rất sâu. Đó là những câu hỏi đủ thích thú.

Năm 2008 đã đi về hướng nào? và năm 2009 tới từ hướng nào? Chúng có thể tin là năm mới tới từ hướng Đông, tức là năm mới tới từ Việt Nam, Nhật Bản trước, vì chỉ còn khoảng 2 giờ nữa là năm mới đặt chân tới Việt Nam, sau đó năm mới sẽ đi thiền hành mất 6 tiếng nữa mới tới Pháp. Như vậy có nghĩa là năm mới nằm ở vùng Viễn Đông. Nhìn trên quả địa cầu, chúng ta đang ở Pháp thì Việt Nam, Nhật Bản, Thái Lan nằm ở phía Đông. Nhưng nếu chúng ta đang ở Việt Nam thì hướng Đông lại là ở bên Mỹ, bên Pháp. Thành ra khi nhìn kỹ thì ta không tin là năm mới tới từ hướng Đông. Bụt dạy, không có đến, không có đi, không có sau, không có trước.

Tôi sẽ nói cho quý vị nghe nhiều điều khác, để quý vị hiểu vấn đề này, giải quyết vấn đề năm 2008 đi về đâu và năm 2009 từ đâu đến. Chúng ta rất muốn biết 2008 rời chúng ta đi về đâu. Khi chúng ta nhìn xung quanh, chúng ta thấy có sự sống cùng khắp, và ánh sáng là một sự mầu nhiệm.

Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống dưới chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc, sự sống xung quanh tôi, sự sống ở ngay trong từng bước chân tôi, ngay nơi nào tôi đứng. Khi tôi ở Cốc Ngồi Yên tại Xóm Thượng, khi nào có dịp quý vị cũng nên đi thăm Cốc Ngồi Yên của tôi, tôi đi xuống Sơn Hạ, nơi mà thầy Pháp Sơntrụ trì, tôi đi theo một con đường nhỏ đầy những lá sồi, mùa thu rừng sồi rớt nhiều lá và tuyết rơi mấy bữa trước làm cho lá sồi ướt sũng rồi từ từ rữa ra trở thành một loại đất rất màu mỡ trở lại nuôi cây sồi.

Tôi đi rất chánh niệm và thấy rất rõ là những lá sồi này sẽ trở thành loại đất mịn, xốp, rất tốt, rất phì nhiêu để nuôi cây. Và tôi nghĩ nếu quý vị cũng đi mà nhìn sâu như tôi thì quý vị sẽ thấy đất mùn nằm ở trên mặt đất là nhờ những chiếc lá sồi hoại đi làm thành đất thịt màu mỡ, và mình có thể thấy những chiếc lá đang nằm trong lòng đất. Hiện giờ mắt thường chúng ta có thể thấy được những chiếc lá sồi đang hoại dần, nhưng vài tháng nữa thì không trông thấy hình dạng của lá nữa mà chỉ thấy đất thịt xốp mịn thôi vì chúng đã mủn thành đất hết rồi. Lúc ấy mình có thể cười và nói với những chiếc lá: “Này, đừng có tưởng thay hình đổi dạng mà tôi không nhận ra được em nhé, tôi biết là em đang nằm ở trong lòng đất ấy”.

Nhìn sâu thì ta sẽ thấy lá cây rụng xuống làm thành đất mùn, đất thịt bồi bổ cho cây, vì vậy mỗi năm cây rụng lá để làm cho đất màu mỡ thêm, sang năm cây sẽ cho nhiều lá hơn năm trước, đẹp hơn và tốt hơn năm trước. Tới mùa hè thì nó xanh mướt đầy nhựa sống, chất nhựa này nuôi cho cây to lớn, tới mùa thu nó lại rụng lá, rồi tới mùa đông nó mủn trở lại thành đất, đất trở lại nuôi cây, thành ra nếu mình nhìn sâu như vậy thì thấy rất là hấp dẫn.

Khi thấy như vậy thì tôi không sợ chết. Chết không là cái gì hết, chết chỉ là đổi thân, thay một chiếc thân mới mạnh khỏe hơn, đẹp đẽ hơn mà thôi. Vì vậy khi lá rụng khỏi cây, nó chết, nhưng nó không buồn rầu, nó nói: “sướng quá, mình sắp được trở về đất, trở về nhà mình rồi”. Mình sẽ ở đó vài tháng rồi sẽ lại chui vào thân cây trở lại, và thân cây sẽ đưa ra những cái lá mạnh khỏe, bụ bẫm hơn. Thành ra dù đi trên mặt đất, tuy không nhìn thấy những chiếc lá, nhưng mình biết chiếc lá đang có mặt trong lòng đất. Và mình nói: “Này, mấy cái lá của tôi ơi, tôi biết em còn đâu đó, và em sẽ lại trở thành những chiếc lá xanh, những chiếc lá rất đẹp trong mùa xuân, mùa hè, mùa thu”. Biết rõ như vậy thì khi rơi xuống đất lá chẳng sợ gì hết, nó vừa rơi vừa khiêu vũ múa ca, vừa thảnh thơi để làm một điệu vũ chót trước khi chạm xuống mặt đất, chuẩn bị một cuộc hành trình mới.

Cái chết và cái sống tưởng chừng chống đối nhau, là kẻ thù của nhau. Nhưng kỳ thực trong tuệ giác của đạo Bụt, cái sống và cái chết tương tức với nhau, nó dựa vào nhau để làm ra nhau. Không có cái chết thì không bao giờ có cái sống. Và không thể có cái sống nếu không có cái chết. Biết được điều đó chúng ta sẽ không sợ hãi nữa. Và chánh kiến mà ta đạt được làm cho ta không còn buồn đau, tủi hận, giận hờn, sợ hãi nữa. Nếu trân quý sự sống thì mình biết rằng sự chết là một phần của sự sống, nó là một nguyên tố để làm ra sự sống. Giống như cánh hoa phải chết đi để cho quả lớn lên. Cái vỏ cứng phải vỡ ra thì hạt mới nảy mầm. Chúng ta biết rằng trong cơ thể chúng ta có rất nhiều tế bào, các tế bào sinh diệt không ngừng. Ngày nào cũng có các tế bào cũ chết đi để các tế bào mới sinh ra. Lúc đó, mình thấy mình ôm hết cả cái chết và cái sống ở trong lòng. Khi mình thấy cần phải trân quý sự sống thì không có nghĩa là mình sợ chết. Và sự thực tập ở Làng Mai là chánh niệm. Trong mỗi bước đi, trong mỗi hơi thở mình đều thấy được rằng mình đang có mặt.

Ai cho ta sự sống?

Một khi mình có mặt hoàn toàn, rất sâu sắc thì mình thấy sự sống có mặt trong mình, có mặt xung quanh mình rất mầu nhiệm. Cho nên chúng ta rất may mắnchúng ta đang có sự sống từng phút từng giây, sự sống dàn trải xung quanh ta. Có người cho chúng ta sự sống, mà trong Kitô giáo, trong Do Thái giáo người ta tin rằng đó là Thượng đế.

Trong đạo Bụt chúng ta cũng nói không khác đâu, nhưng chúng ta dùng từ ngữ khác, cách trình bày khác. Khi bám vào chữ người cho và người nhận, thì mình nghĩ phải có người cho, người nhận và cái vật được cho, được nhận đúng không? Nhưng ví dụ bây giờ chúng ta nhìn kỹ vào thân thể mình rồi hỏi: “Tấm thân này từ đâu tới? Ai cho mình hình hài này?” Thì cha mẹ mình chứ ai! Mình được sinh ra từ tinh cha huyết mẹ, thân thể này do cha mẹ sinh ra. Thân thể này là một món quà, là một vật nhận. Vậy ai trao tặng? Nhìn vào là mình biết liền, cha mẹ trao cho mình chứ ai vào đây nữa. Học di truyền học mình thừa biết là cha mẹ tới với nhau tạo ra mình, cho nên mình mang cả di thể của cha và di thể của mẹ trong cơ thể mình. Nhìn sâu vào cơ thể mình, mình sẽ thấy rất rõ cha mẹ dưới hình thức di thể trong thân và tâm của mình. Nghĩa là cha mẹ là người cho và mình là người nhận đồng thời cũng là vật được cho và nhận. Thành ra nếu nói Chúa là người trao cho mình sự sống thì Chúa nằm ở trong mình chứ đâu phải ở ngoài, Chúa nằm trong từng di thể của mình. Nếu muốn tìm Thượng đế thì phải tìm trong chính mình.

Khi có vấn đề với cha, mình muốn lấy ông già này ra khỏi mình, nhưng lấy được không? Có người giận bố quá nói: “Ông ấy hả? Tôi không dính dáng gì tới ông hết”. Giận mẹ quá, có người nói: “Tôi không phải là con bà, tôi không liên quan gì tới bà hết”. Nhiều người Tây phương nghĩ như vậy đó, rất là vô lý. Anh không thể lấy cha mẹ ra khỏi anh được, chị không thể lấy cha mẹ ra khỏi chị được.

Khi nhìn vào bản thân, mình thấy mình là con của bố mẹ. Nhưng mình cũng chính là bố mẹ. Tại vì bố mẹ và tất cả tổ tiên cũng ở trong mình. Mình không thể lấy bố mẹ, tổ tiên ra khỏi mình được, không thể tách rời được. Đi đâu đứa con cũng mang cha mẹ tổ tiên đi theo. Vì vậy cho nên bố mẹ cho mình sự sống, nhưng kỳ thực bố mẹ đã trao bản thân của bố mẹ cho mình. Người cho, người nhận và vật được cho chỉ là một. Cái này ôm lấy cái kia. Không có cái này thì không có cái kia. Một người không có con thì không ai gọi người đó là mẹ được. Người đó chỉ có thể là mẹ khi người ấy có con thôi. Cho nên có con thì mới có mẹ và có mẹ thì chắc chắn phải có con. Nếu mình nghĩ con là con, mẹ là mẹ thì không đúng. Con và mẹ tương tức với nhau.

Khi còn là một tu sĩ trẻ, tôi được dạy “tam luân không tịch”, tức là người cho, người nhận, vật được cho chỉ là một, không thể tách rời. Bố mẹ cho mình cái gì? Cho di thể của người, di thể làm ra chú bé hay cô bé gọi là mình, như vậy thì mình là cái bọc quà mà bố mẹ cho, nhưng mình cũng là người nhận, nhận tất cả những di thể của bố, tất cả những di thể của mẹ, thành ra mình cũng vừa là bố mẹ luôn. Cái đó gọi là “tam luân không tịch”. Tam luân là ba thế hệ, chữ không trong đạo Phật có nghĩa là không có một cái ta riêng biệt, không một cái gì độc nhất, bất biến. Thành ra ba mà là một, trong một có cả người cho, người nhận và vật được nhận. Quý vị ráng nhìn sâu để thấy được điều đó. Chúng ta có thể thấy được trong mỗi giây phút của sự sống.

Chuyện này tôi đã kể cho quý vị nghe rồi, nhưng mà tôi sẽ kể lại một lần nữa. Đó là vào đầu năm 2008, khi cùng với 45 thầy và sư cô mở khóa tu tại Ý, có 800 thiền sinh tới tham dự và tôi đã tặng cho họ mỗi người một hạt bắp. Ở đó có gần 100 cháu nhỏ, tôi cũng phát cho các cháu luôn và dặn phải giữ gìn hạt bắp cho cẩn thận, đem về nhà trồng vào một cái chậu, mỗi ngày nhớ tưới nước cho nó, ít lâu sau nó sẽ mọc lên cây bắp nhỏ xíu. Tôi còn dặn thêm, khi cây bắp ra hai chiếc lá đầu tiên thì mình tới gần nó và hỏi:

- Này cây bắp ơi, cho tôi hỏi em một câu nhé, thế em có nhớ trước đây em là một hạt bắp không?

Hỏi xong thì lắng nghe cây bắp trả lời. Có thể lúc đó nó hơi bực, nó nghĩ: “Cái gì? Người ta là cây bắp xanh tươi xinh đẹp thế này mà nói người ta là hạt bắp nhỏ xíu hả? Còn lâu nhé!” Nó có thể khó chịu trước câu hỏi của mình vì nó quên, lúc ấy mình phải nhắc nó, mình nói:

- Chính tôi đã mang em về từ khóa tu, chính tay tôi trồng và tưới nước mỗi ngày em có nhớ không? Từ hạt bắp em bắt đầu nảy mầm, ra hai lá rồi ra bốn lá.

Khi nhớ ra cây bắp sẽ cảm ơn chúng ta nhiều lắm. Có thể nói hạt bắp là cha mẹ của cây bắp, cũng có thể nói, cây bắp là sự tiếp nối của hạt bắp. Trong chúng ta, nhiều người cũng quên rằng mình tới từ cha mẹ và cũng không biết rằng cha mẹ đang có mặt trong mình. Mình là con của cha mẹ, mình là sự tiếp nối của cha mẹ, mình cũng chính là cha mẹcha mẹ luôn có trong người mình.

Tôi mời quý vị nhìn vào cây thước. Nếu với cái tâm phân biệt mình sẽ nói: “Ô, đây là cây thước, đây là đầu bên phải, còn đây là đầu bên trái; bên trái và bên phải ngược hướng nhau, chúng chống đối nhau.” Cách mình nghĩ là như vậy. Nhưng nếu nhìn sâu thì ta thấy bên phải và bên trái luôn đi chung với nhau. Hễ có bên phải thì có bên trái. Chính bên trái sinh ra bên phải và bên phải sinh ra bên trái. Không có phải thì làm sao có trái? Trái và phải nương nhờ nhau, chúng cần nhau.

Về mặt chính trị, mình cho rằng nhóm người thủ cựuthủ cựu, người tiến bộtiến bộ. Mình thuộc về phe tiến bộ thì đừng mong phe thủ cựu chết hết đi, tại vì nếu phe thủ cựu chết hết thì mình cũng trở thành thủ cựu thôi. Vì trong nhóm tiến bộ thế nào cũng có những người thủ cựu của tiến bộ. Và khi mình cho rằng mình là phe tiến bộ, thì bên kia họ lại nghĩ họ mới là phe tiến bộ, trong mắt họ thì mình lại là thủ cựu. Cho nên thủ cựutiến bộ nương nhau. Tay phải và tay trái nương vào nhau, như đất thịt ôm lấy cây. Và những lá sồi dù nằm ở trên cao, nhưng nó cũng đang ôm lấy đất, nó nhận được những chất khoáng, những chất đạm từ đất, ánh sáng mặt trời, không khí rồi gửi về nuôi cây. Thành ra cái nào cũng tương tức, tương nhập với nhau, không có sự phân cách.

Con mắt kỳ thị của chúng ta thấy người này khác người kia, bên phải khác bên trái, cha khác với con. Nhưng nếu nhìn sâu để thấy được sự liên hệ chằng chịt đó thì ta sẽ thấy tất cả là một. Mẹ cũng là con, con cũng là cha, cha cũng là mẹ, bên phải cũng là bên trái, mình cùng nhau là một. Và mình không cố gắng trốn sự chết. Vì mình nghĩ chết là xấu, chỉ có sự sống mới quan trọng, nên lúc nào mình cũng trốn tránh cái chết để chạy theo sự sống mà quên rằng sống và chết nương vào nhau giống như bên phải và bên trái, có sống thì mới có chết và có chết thì mới có sống.

Như hạt bắp phải “chết” đi thì mới “sinh ra” cây bắp, nhìn lại ta thấy đâu có cái gì chết, đâu có cái gì sinh ra, chỉ là sự thay hình đổi dạng mà thôi. Cho nên, sự sống và cái chết ôm lấy nhau một cách miên mật, nhiệm mầu. Thấy được như vậy ta không còn lý do gì để mà ghét cái chết nữa, ta nghĩ rằng chết là buồn bã, khổ đau, nên nghĩ tới cái chết ta mới sợ hãi, tìm cách trốn chạy. Nhưng mà điều đó đang xảy ra từng phút từng giây trong mỗi chúng ta.

Mỗi giây phút trong cơ thể ta có trăm ngàn tế bào bị chết nhưng đồng thời cũng có cả trăm ngàn tế bào mới được sinh ra. Khi gãi ta thấy có những bụi trắng rơi xuống, đó là tế bào chết của da, mình cần có những tế bào chết đi để sinh ra những tế bào mới khỏe mạnh hơn. Vì vậy, mỗi lần một tế bào trong người mình chết, ta không cần làm đám ma, và mỗi lần có những tế bào mới sinh ra ta cũng không cần phải làm giấy khai sinh làm gì vì giây phút nào mà chẳng có các tế bào sinh ra và chết đi. Nếu không thì suốt đời mình chỉ lo đi làm giấy khai sinh và làm đám ma thôi!

Thương tức là cho. Sự sống là một cái gì rất quý mà mình có thể cho, cho mình, cho những người thương của mình, cho thế giới. Phải sống làm sao để mỗi phút, mỗi giây mình phải là người hiến tặng cho sự sống. Bụt đã dạy chúng ta rất rõ ràng cách để thương, mỗi phút trong sự sống chúng ta phải phát khởi niệm thương yêu. Khi mình có những tư duy đầy từ bi, tha thứ, đầy hiểu biết thì mình đang hiến tặng sự sống rồi. Khi đó người khác chưa được hưởng nhưng mình là người được hưởng trước. Nhờ có những tư tưởng từ bi, khoan dungthân tâm mình khỏe nhẹ, con người mình trở thành một khối thương yêu, ai tới gần cũng cảm thấy thoải mái.

Một tư tưởng đi về phía hướng suy nghĩ đẹp đẽ, đúng đắn, gọi là chánh tư duy. Nếu quý vị chế tác được rất nhiều chất liệu từ bi, tha thứ thì quý vị có thể gọi điện thoại cho người mà mình gặp khó khăn để tha thứ cho người đó, để thương người đó. Khi đã tha thứ được cho người ấy thì trong tâm mình được chữa lành, gia đình mình được chữa lành, xã hội được chữa lành và trái đất được chữa lành. Đó là cách tư duy của một đức Bụt. Điều này chúng ta phải làm liền tức thì chứ đừng chờ đợi, nghĩ tới người đó và phát khởi lòng thương: “Tội nghiệp quá, một người như vậy thì đáng thương quá đi, làm sao mà hạnh phúc được”. Tư tưởng từ bi ấy là ý nghiệp, có ý nghiệp rồi chúng ta tiến tới dùng khẩu nghiệp, điện thoại cho người ấy nói những lời dễ thương, và làm những hành động dễ thương (thân nghiệp). Thân, khẩu, ý đều dễ thương như vậy thì chúng ta đang là một vị Bụt.

Ăn mừng sự sống

Thường thường chúng ta hay chạy đi tìm những hạnh phúc đâu đâu trong tương lai xa xôi mà không thấy thỏa mãn trong giây phút hiện tại. Vì vậy chúng ta không có cơ hội để nhận diện những mầu nhiệm của sự sống đang có mặt trong giây phút hiện tại. Đức Thế Tôn dạy rằng chúng ta có thể sống hạnh phúc được ngay trong phút giây hiện tại mà không cần phải phóng tâm về tương lai tìm cầu một cái gì khác nữa. Giáo lý đó được gọi là giáo lý vô nguyện hay vô đắc. Giáo lý đó cũng không có gì khó hiểu lắm và cũng không khó thực tập lắm. Vô đắc hay vô nguyện là không chạy theo một bóng dáng hạnh phúc ở tương lai hoặc ở nơi khác mà có thể sống hạnh phúc liền ngay trong giây phút hiện tại. Chúng ta nên quyết tâm học và sống cho được như vậy.

Hạnh phúc là những gì có được ngay bây giờ, và ngay ở đây. Trước hết là với hơi thở, với bước chân chánh niệm. Ta thấy được rằng sự sống đang có mặt với tất cả những cái mầu nhiệm của nó. Sự sống đang có mặt trong cơ thể mình, trong tâm hồn mình. Sự sống đang có mặt ở chung quanh ta và ta phải tiếp xúc với sự sống. Tiếp xúc sự sống bằng năng lượng chánh niệm của một người tỉnh thức. Không có chánh niệm thì ta không tiếp xúc được với sự sống và những mầu nhiệm của sự sống. Khi đã nhận diện được sự sống với những mầu nhiệm của nó rồi thì ta thấy rằng mỗi giây phút rất là quý giá. Buổi sáng sớm, khi hít thở mình thấy không khí rất trong lành và điều đó đem lại hạnh phúc liền lập tức. Đó chính là tiếp xúc với sự sống mầu nhiệm.

Chúng ta nên biết rằng giờ phút chúng ta được sinh ra từ bụng mẹ là giờ phút vô cùng khó khăn. Ở trong bụng mẹ chúng ta thấy ấm áp và êm đềm lắm. Thai nhi nằm trong nước nên rất êm ái. Trong bụng mẹ thì không bao giờ quá nóng và cũng không bao giờ quá lạnh. Mẹ thở cho mình, mẹ ăn cho mình, mình khỏi làm gì hết, chỉ cần nằm yên ở trong đó thôi. Đó là những tháng tuyệt vời ở trong cung điện của đứa con. Tử cung tức là cung điện của con.

Đến khi sinh ra hài nhi bị sốc rất lớn. Đang từ chỗ rất êm ái, hài nhi phải đụng chạm đến những cái cứng và điều quan trọng nhất là phải thở, phải tự mình thở. Khi ấy trong phổi của em bé có những chất nước và em bé phải hắt hơi để cho nước từ trong phổi thoát ra. Em bé bắt đầu thở vào hơi đầu tiên. Đó là giây phút rất quan trọng của đời bé. Nếu lúc ấy bé không thở được thì bé sẽ chết. Đây là giây phút rất khó khăn. Để thở được hơi thở đầu tiên thì phải hắt hơi, đẩy ra những chất nước có sẵn ở trong phổi. Lúc đó em bé phải tự thở lấy. Bây giờ mình đã vượt qua giai đoạn ấy rồi, giai đoạn đó chỉ diễn ra chừng mấy giây thôi. Ta sống hay chết tùy thuộc vào mấy giây đó. Nay thì ta có thể thở tự do bằng hai lá phổi của mình, chỉ nội chuyện được thở không khí trong lành thơm tho thôi đã đem lại hạnh phúc rồi.

Mỗi khi bước đi, mình bước những bước chân nhẹ, tiếp xúc được với cỏ, với cây, với sỏi, với đá. Rồi tiếp xúc được với màu sắc, hình ảnh, âm thanh. Và những mầu nhiệm của sự sống mình vẫn chưa thể giải nghĩa được. Mỗi cọng cỏ, mỗi cành hoa đều rất là mầu nhiệm. Trăng, sao, mây, suối… tất cả những cái đó đều rất là mầu nhiệm. Nếu sống quên lãng, không có chánh niệm, thì mình không nhận diện được những điều kỳ diệu ấy, rồi mình tự giam mình trong cái vỏ của sự buồn khổ, giận hờn, lo lắng, tuyệt vọng. Mình đánh mất hết tất cả những mầu nhiệm đó của sự sống tại vì mình không tiếp xúc được với chúng. Cho nên giáo pháp hiện pháp lạc trú của đạo Bụt rất hay và quan trọng. Mình không cần phải chạy về tương lai để đuổi bắt một hạnh phúc xa xôi. Hạnh phúc vốn có sẵn trong mình và xung quanh mình, chỉ cần mình trở vềtiếp xúc với nó bằng chánh niệm thì hạnh phúc sẽ xuất hiện ngay trước mặt mình. Những cái mà mình đang tìm kiếm nó đang sờ sờtrước mặt mình đó thôi.

Khi chúng ta trở về được với giây phút hiện tại, thì chúng ta sẽ tiếp xúc được với biết bao mầu nhiệm của sự sống, và biết bao những điều kiện hạnh phúcchúng ta đang có. Ví dụ như là chúng ta đang được thở, thở ra, thở vào dễ dàng, không có nguy hiểm như cái thời mới sinh nữa, đó là một điều kỳ diệu. Chúng ta có thể bước những bước chân bình an trên thảm cỏ xanh. Chúng ta có thể ngồi uống trà. Chúng ta có thể ngắm nhìn những đám mây trắng bay, thấy trái trăng vàng huyền diệu lơ lửng trên bầu trời. Chúng ta có thể mỉm cười nhìn nhau. Tất cả những cái đó là những cái ta đang có và ta có thể sử dụng được để đạt tới hạnh phúc. Ta đã sẵn có một kho tàng hạnh phúc trước mặt. Tuy rằng sức khoẻ của ta không tuyệt hảo (thật ra thì không có gì là tuyệt hảo hết), nhưng ta có đủ, có dư điều kiện để có hạnh phúc trong giây phút hiện tại ăn mừng sự sống.

Mỗi bước chân thiền hành là ta đang ăn mừng sự sống. Mỗi hơi thở bình an là ta đang ăn mừng sự sống. Mỗi khi nâng ly nước lên uống là mình đang ăn mừng sự sống. Khi rửa bát, nấu cơm đó đều là những hành động ăn mừng sự sống. Ăn mừng sự sống trong mỗi giây phút của đời sống hàng ngày. Sướng quá, mình đang có mặt, sự sống đang có trong mình và chung quanh mình.

Sống được như vậy thì tự nhiên đời sống hàng ngày của mình trở thành một cái gì rất thiêng liêng. Mình không cần phải trở thành người khác, không cần phải thành Phật hay thành Tiên, không cần có bằng cấp, hay một địa vị nào cả. Chỉ cần tỉnh dậy, tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống thì tự nhiên mình có được cái mà mình đang mải miết rong ruổi kiếm tìm.

Phải sống như thế nào để mỗi phút giây trở thành phút giây của sự ăn mừng. Sống như thế nào để mỗi giây phút của đời sống đều trở thành một huyền thoại cho con cháu của mình. Để sau này mình tự tin nói với con cháu của mình rằng: “Đó, ông bà của các con ngày xưa sống như vậy đó. Giây phút nào cũng vui, giây phút nào cũng hạnh phúc”. Và điều này có thể làm được với giáo lý của đức Thế Tôn.

Ai cũng có khả năng sống hạnh phúc và khả năng sống hạnh phúc là cái đức hạnh, cái quý nhất nơi một con người. Người nào mà có khả năng sống hạnh phúc, người đó là người có giá trị cao nhất. Có những người rất giàu, có những người rất quyền thế, có những người nhan sắc rất mặn mà nhưng mà họ không có khả năng sống hạnh phúc thì tất cả những thứ đó: quyền hành, tiền bạc, nhan sắc cũng bằng không. Thành ra có khả năng sống hạnh phúc đó là cái quý giá nhất. Và cái đó chúng ta có thể tập được.

Khi sống hạnh phúc rồi thì một cách rất tự nhiên, ta làm hạnh phúc cho những người chung quanh thật dễ dàng. Mỗi nụ cười, mỗi ánh mắt, mỗi lời nói của ta đều tỏa chiếu bình an và ta trở thành một nguồn suối hạnh phúc cho những người khác. Chúng ta nên phát tâm sống như thế nào để mình có thể có hạnh phúc ngay ngày hôm nay. Mình vốn có đủ hết rồi, không cần thêm một điều kiện nào khác nữa.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10156)
Chúng ta lễ lạy để tịnh hóa mọi tình huống trong quá khứ khi ta không kính trọng người khác... Nguyên tác: Lạt Ma Gendyn Rinpoche; Liên Hoa dịch Việt
(Xem: 7211)
Sau khi Đức Phật diệt độ, Tôn giả Maha Kassapa đã triệu tập 500 vị A-la-hán vân tập tại thành Rājagaha để kiết tập kinh điển... Chúc Phú
(Xem: 30916)
Tăng đoàn bắt đầu hoạt động rộng rãi và có ảnh hưởng kể từ khi Phật niết bàn... Thích Nữ Trí Nguyệt dịch
(Xem: 21994)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 8091)
Thiều Chửu và Đoàn Trung Còn đều không giải thích được lý do tại sao chữ VẠN quay theo chiều này thì cát tường, quay theo chiều ngược lại thì nguy hại... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 7751)
Một trong những nền tảng quan trọng của đạo đức Phật giáotuân theo tinh thần bất bạo động... Tác giả: Charles K. Fink; Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 8859)
Đức Phật đã thuyết giảng như thế nào về sự đau đớn? Ngài bảo rằng sự bất an của chúng ta gồm có hai thể dạng khác nhau... Ajahn Brahmavamso, Hoang Phong dịch
(Xem: 7158)
Không là một khái niệm xuất hiện khá sớm trong thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy, trải dài đến Phật giáo Đại thừa... Thích Nữ Nhuận Bình
(Xem: 9385)
Tác phẩm “Tuệ Sanh Định” là một trong số ít tác phẩm được viết bởi Bậc Thầy Maha Boowa (Bhikkhu Ñanasampanno)... Nhất Như dịch Việt
(Xem: 8800)
Nguyên tác tiếng Anh của Darwinism, Buddhism and Christanity được đăng trong tạp chí The Maha Bodhi, Sri Lanka, Tập 82 Dec 1974 Thích Nữ Liên Hòa dịch
(Xem: 10262)
Trong Kinh Duy-Ma-Cật, khi Phật bảo Ngài Duy-Ma-Cật thị hiện cõi nước Diệu-Hỷ có Vô-Động Như-Lai, các Bồ-Tát, và đại chúng nước ấy cho đại chúng xem... Toàn Không
(Xem: 8248)
Chân Nguyên kết luận: “Đức Phật Thích Ca đã tự chính mình đem thánh hiệu mà dạy cho hai người già, điều đó không còn có thể nghi ngờ gì nữa”... Thích Phước An
(Xem: 9570)
Một sự kết hợp thú vị giữa đạo đức chính trực, sự phục tùng, lòng khoan dung, cầu nguyện, khả năng tự lực, tự thanh lọc và tình yêu... Mai Thục
(Xem: 6983)
Mũi tên biểu trưng cho một sự đau đớn trên thân xác, nhưng cũng có thể là nguyên nhân gây ra một sự hoảng sợ trong tâm thần... Hoang Phong
(Xem: 8037)
Yết-ma, được phiên âm từ karmam[1] của tiếng Phạn. Hán dịch là “biện sự tác pháp”, được định nghĩa: “Vạn sự do tư thành biện cố”... Thích Minh Cảnh
(Xem: 8399)
Quảng bản kinh được Pháp Nguyệt dịch năm 732, rồi đến Bát NhãLợi Ngôn tái dịch năm 790. Cho đến Thi Hộ đời nhà Tống dịch lần chót là có tất cả 7 bản... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 8661)
Bồ tát hành đạo bắt đầu từ giữa lòng xã hội nên sự tiếp cận với mọi thống khổ nhân sinh là lẽ tất nhiên... Thích Tuệ Sỹ
(Xem: 8424)
Thiền sư Vĩnh Bình Đạo Nguyên, hoặc Đạo Nguyên Hy Huyền (1200-1253), là vị tổ sáng lập ra dòng Tào ĐộngNhật Bản... Ngọc Bảo dịch
(Xem: 8533)
Một cách vắn tắt, đó là vị trí của nữ giới trong Phật Giáo. Người phụ nữ xứng đáng có một chỗ đứng danh dự ngang hàng với nam giới... Piyadassi Mahathera; Dịch giả: Phạm Kim Khánh
(Xem: 11265)
Người vợ cần quán chiếu tâm mình thật cẩn thận trong một thời gian và từ đó đi đến quyết định đúng cho cuộc đời của mình... Mithra Wettimuny; Diệu Liên Lý Thu Linh chuyển ngữ
(Xem: 8579)
Đức Thế Tôn là người đầu tiên đòi quyền lợi cho giới nữ, đưa vị trí giới nữ ngang bằng nam giới... Thích Hạnh Bình
(Xem: 10714)
Hội Phật giáo Trung Quốc ước tính rằng hiện có khoảng 180,000 tăng niTrung Quốc... Nguyên tác: Tịnh Nhân; Thích Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 9482)
Ngài đã gọi dứt khoát, rõ ràng “tự phá thai mình” là một tội, phải chịu quả báo hết sức nặng nề và kéo dài... Chân Minh
(Xem: 9283)
Làm thế nào để những cha mẹ Phật tử có thể dạy tốt lời dạy của Phật giáo cho con em của họ?... Helmuth Kalr; Thích Minh Diệu
(Xem: 9585)
Rồi lần lượt không bao lâu, khi Ðức Phật đúng 80 tuổi đời, 45 tuổi đạo, Ngài cũng giã từ Tứ chúng để an hưởng quả vị Vô Dư Niết-bàn... Thích Thiện Minh
(Xem: 10377)
Con người không bao giờ ngưng tìm kiếm trong thiên nhiên để mong thâu thập được nhiều thứ hơn nữa nhằm chất đầy cái nhà kho mãi mãi thiếu thốn của mình... Tuệ Sỹ
(Xem: 16291)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19243)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 8704)
Long Thọ (Nagarjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán mà ngài còn được coi là vị Phật thứ hai sau đức Thế Tôn trong lịch sử phát triển Phật giáo.... Vũ Thế Ngọc
(Xem: 8056)
Như thế giải thoát cho vô số vô biên chúng sinh, nhưng thực ra không có chúng sinh nào được giải thoát... Vũ Thế Ngọc
(Xem: 24171)
Cúng dườngbố thí vốn cùng một nghĩa "cho". Cái gì của mình mà có thể đem ra "cho" người khác, thì gọi là "cho"... TT Thích Nhất Chân
(Xem: 9434)
Lịch Sử Văn Học Phật Giáo Tiếng Sanskrit (Literary History of Sanskrit Buddhism - Nguyên tác: J. K. Nariman; Thích Nhuận Châu dịch Việt
(Xem: 7662)
Yết-ma là phiên âm từ karman của tiếng Phạn. Hán dịch là «biện sự tác pháp», và thường được các luật sư Trung quốc giải thích rằng «Vạn sự do tư thành biện cố.»... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 10594)
Chúng ta có thể thấy được đức tính của những khóm tre cây trúc, của những dòng sông, của cây mai, của đất, của áng mây... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17767)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 6977)
Giáo dục Phật giáo – nền giáo dục minh triết, vốn ở cao, ở trên triết học... Minh Đức Triều Tâm Ảnh
(Xem: 8930)
Đọc công trình của Francois Jullien những độc giả "Tây giả" (Á và Âu) có thể thấy được rằng người bà con nghèo của triết học có những sở đắc... Nguyên Ngọc dịch
(Xem: 12413)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 7737)
Chúng ta thường nghĩ là mình đã hiểu nhưng thật ra có lẽ ta chưa hiểu rõ thế nào là quy y Tam Bảo... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 14657)
Tăng đoànhình ảnh của Đức Phật, mang trọng trách thừa Như Lai sứ, hành Như Lai sự... Thích Phước Sơn
(Xem: 8292)
Ðại Tạng Kinh là một công trình tập thành tâm huyết của bao nhiêu thế hệ Tổ Sư, cổ đức Ấn Ðộ, Trung Hoa, Nhật Bản, Cao Ly... Liên Hương kính ghi
(Xem: 7814)
Trong Phật giáo đại thừa nói rất rõ: Phiền não tức bồ đề, Niết bànsinh tử. Niết bànsinh tử là một cặp bài trùng, không có cái này thì không có cái kia...
(Xem: 8875)
Có thể nói “tâm” là cơ sở và động lực giải nghiệp, giải hạn khổ ách đối với con người trong mọi không giannăng lực chuyển nghiệp.
(Xem: 14843)
Tổ tiên ta đã Phật hóa gia đình, giáo dục con cháu phải biết chia sẻ hạnh phúc, ban rải tình thương đến mọi người, mọi loài... TT Thích Lệ Trang
(Xem: 9302)
"Khi cúng dường tứ sự đến cho một vị tỳ-khưu, hai vị tỳ-khưu, cận sự nam nữ đừng nghĩ đến cá nhân vị ấy mà cứ khởi tâm cúng dường Tăng..." Tâm Tịnh
(Xem: 12359)
Từ Trạch Pháp này rất quen thuộc trong Phật Giáo, nhưng đã có mấy người Phật tử chịu tìm hiểu tận tường... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 8528)
Theo Phật giáo, con người sinh ra từ vô thủy (thỉ) đến giờ đã trải qua vô lượng đời, và sẽ còn tiếp nối vô số đời nữa ở tương lai cho đến vô chung... Toàn Không
(Xem: 14542)
Hoa dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền-Trang; Việt dịch: HT Thích Trí-Quang; Anh dịch: Buddhist Text Translation Society
(Xem: 12522)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 8439)
Chúng tôi xin bàn về một số điểm liên hệ, nhất là làm rõ về niên đại Hán dịch của tác phẩm, từ đó chúng tôi xin ghi nhận một số từ ngữ, thuật ngữ Phật học đã được Hán dịch vào thời ấy... Đào Nguyên
(Xem: 10178)
Dù tâm mộ đạo, nhưng Phật tử còn theo nghi lễ xa xưa và kinh điển cổ ngữ, nên việc tu tập không còn phù hợp với nhu cầu của thời đại mới... Johan Galtung, Đỗ Kim Thêm
(Xem: 7778)
Trong việc quảng bá sự hiểu biết, vai trò của người Thầy thật hết sức cần thiết, thế nhưng người Thầy thì cũng phải có đầy đủ khả năng... Hoang Phong
(Xem: 16061)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý. ... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 8246)
Nói đến văn hóa tức là nói đến tổ chức đời sống của một dân tộc, trong đó bao gồm các mặt kinh tế, xã hội, luật lệ, văn chương, mỹ thuật, tôn giáo, v.v... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 8303)
Chân: chân thật, không hư vọng. Như: như thường, không biến đổi, không sai chạy. Chân Như tức là Phật Tánh, cái tánh chân thật, không biến đổi, như nhiên, không thiện, không ác, không sanh không diệt... Lâm Như Tạng
(Xem: 7895)
Thủy Giác: mới tỉnh giác. Cái bổn tánh của hết thảy chúng sanh sẳn có lòng thanh tịnh tự tánh, đủ cái đức vốn chiếu sáng tự thuở nay, đó kêu là Bổn Giác... Lâm Như Tạng
(Xem: 11220)
“Bản Giác : Tâm thể của chúng sinh tự tánh thanh tịnh, lìa mọi vọng tưởng, sáng tỏ vằng vặc, có đức giác tri. Đó chẳng phải do tu thành mà như thế, mà chính là tính đức tự nhiên bản hửu, nên gọi là Bản Giác... Lâm Như Tạng
(Xem: 9152)
Thượng tọa Thích Thuyền Ấn trình bày tại Viện Đại Học Vạn Hạnh vào ngày 9-4-1967. Sau đó, bài diễn thuyết này được in trong tập Diễn Đàn Vạn Hạnh, số 1, do Ban Tu thư Đại Học Vạn Hạnh ấn hành năm 1967.
(Xem: 9298)
Bản Chất Của Tâm Thức - Tác giả: His Holiness the Fourteenth Dalai Lama, Anh dịch: Alexander Berzin, Tuệ Uyển chuyển ngữ
(Xem: 8418)
Niết bàn, nirvana (S), nibbana (P), trong Sanskrit và Pali có nghĩa bóng là, một "thể trạng dập tắt". Hình ảnh của một ngọn lửa đã bị dập tắt qua việc không còn nhiên liệu nữa... Tác giả Alexander Berzin; Tuệ Uyển dịch
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant