Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đạo Phật Trả Lời Những Câu Hỏi Lớn

07 Tháng Bảy 201415:59(Xem: 7656)
Đạo Phật Trả Lời Những Câu Hỏi Lớn

Đạo Phật Trả Lời Những Câu Hỏi Lớn

 

 

blankTRONG MỘT CUỘC GẶP GỞ LIÊN TÔN Ở ẤN ĐỘ, cùng với một người Do Thái và một người Hồi Giáo Sufi mỗi chúng tôi đưa ra ba câu hỏi: Tự ngã là gì? Tự ngã có bắt đầu không? Tự ngã có bao giờ chấm dứt không? Những truyền thống khác nhau có những câu trả lời khác nhau đối với các câu hỏi này.

Trong việc trả lời cho câu hỏi thứ nhất, chúng ta đi đến một ranh giới thật sự giữa tư tưởng Phật Giáo và không Phật Giáo. Những truyền thống không Phật Giáo Ấn Độ - cho dù hữu thần hay vô thần - tất cả chấp nhận một loại lý thuyết linh hồn, một số đề cập về một tự ngã độc lập sở hữu thân thểtâm thức. Giáo huấn của Đức Phật nhấn mạnh rằng không có một linh hồn độc lập hay một tự ngã độc lập. Đó là, Đạo Phật phủ nhận bất cứ khái niệm nào về một tự ngã độc lập với những yếu tố vật lýtinh thần của con người. Chúng ta chấp nhận một tự ngã quy ước tồn tại được định rõ trong mối quan hệ với tâm thứcthân thể. Dĩ nhiên, khi đi đến việc xác định bản chất chính xác của tự ngã, có một phạm vi rộng rãi của những lập trường ngay cả trong truyền thống Phật Giáo.

 

Mỗi Sự Kiện Được Tạo Ra

Khi chúng ta hướng đến câu hỏi thứ hai, có một sự bắt đầu hay không, chúng ta đang đối diện với câu hỏi về sự tồn tại của Thượng Đế. Trong Ki Tô Giáo, thật sự có một sự bắt đầu - Thượng Đế tạo ra tất cả, cho nên chính đời sống này được tạo ra bởi Thượng Đế. Tôi nghĩ đây là một khái niệm tuyệt vời, một giáo lý vĩ đại, bởi vì mục đích, trung tâm, của Ki Tô Giáo là yêu thương, tình cảm. Việc biết rằng chính đời sống này được tạo ra bởi Thượng Đế đem đến một cảm giác mật thiết đầy năng lực, một ý nghĩa rằng Thượng Đế chính là bà mẹ của quý vị. Chúng ta biết rằng thân thể của chúng ta đến từ những bà mẹ của chúng ta; chúng đến từ cha mẹ chúng ta, nhưng đặc biệt từ bà mẹ của chúng ta. Ngay cả thú vật cũng cảm thấy rất gần gũi với mẹ của chúng. Trong cùng cảm giác thân mật ấy, khi quý vị cảm thấy rằng chính đời sống này là một tặng phẩm từ Thượng Đế, thế thì quý vị vì lý do ấy rất, rất gần gũi với Thượng Đế. Và qua cảm giác mật thiết này, quý vị trở thành quyết chí hơn đối với việc lắng nghe lời dạy bảo của Thượng Đế. Quý vị thật sự muốn biết những gì Thượng Đế muốn.

Trong những tôn giáo vô thần, kể cả Phật Giáo, thì không có một Thượng Đế thần thánh, thay vì thế chúng taluật nhân quả. Mọi thứ sinh khởi trong sự lệ thuộc vào các nguyên nhânđiều kiện (nhân duyên). Những nguyên nhân là đấng tạo hóa của kết quả - và mỗi nguyên nhân cũng là kết quả của nguyên nhân trước đấy. Theo như Đạo Phật quan tâm, thật vô lý để tưởng tượng về một sự bắt đầu không có nguyên nhân. Mỗi sự kiện phải có những nguyên nhân của chính nó.

Khi dạy về 12 nhân duyên, Tông Khách Ba đã giải thích sự thông hiểu của Đức Phật về nguồn gốc của mọi thứ. Ở đấy ngài đã trích dẫn giáo lý duyên sanh, mà trong ấy Đức Phật tuyên bố (1) vì cái này có cho nên cái kia có và (2) vì cái này sanh cho nên cái kia sanh[1]. Trong tuyên bố thứ nhất, Đức Phật chỉ ra rằng mọi thứ hình thành từ những nguyên nhânđiều kiện của chúng (nhân duyên sanh). Khái niệm này về điều kiện biểu thị sự thiếu vắng một ý định thông minh tiên quyết. Mọi thứ không phải hình thành như kết quả của một sự thông minh thần thánh nào đó, một trí thông minh trước đấy đã phác thảo chúng và đem chúng ra. Đúng hơn là mỗi thứ hình thành từ những nguyên nhân của chính nó.

Rồi thì, khi Đức Phật nói, "Vì cái này sanh cho nên cái kia sanh ", vấn đề là không chỉ mọi thứ hình thành từ nguyên nhân của chúng, mà những nguyên nhân tự chúng là vô thường. Những nguyên nhân của mọi thứ tự chúng là những sản phẩm của chính những nguyên tương ứng của chính chúng. Trong cách này, có một chuỗi nhân quả. Các sự kiện phát sinh từ những nguyên nhân nhất thời, những nguyên nhân tuần tự sinh khởi từ những nguyên nhân của chúng, và v.v…

Nếu truy nguyên chuỗi nhân quả từ quan điểm của Đạo Phật, quý vị chạm trán những vấn nạn nếu quý vị cố gắng để đặt ra một sự bắt đầu. Khi quý vị đặt để một sự bắt đầu, quý vị phải chấp nhận rằng tự sự bắt đầu này hoặc là được tạo ra hay sẳn có. Nếu quý vị nói rằng sự bắt đầu hoàn toàn không được tạo ra - sẳn có - thế thì quý vị có một vấn nạn. Quý vị giải thích thế nào cho sự kiện rằng mọi thứ bắt đầu tại một thời điểm nào đặc thù đúng lúc nào đó thay vì một lúc khác? Đó là, tại một thời điểm nào đấy - và không phải là một lúc khác - toàn bộ chuỗi nhân quả khởi động. Điều gì khác biệt giữa một tình trạng này và một tình trạng khác? Điều này dường như bắt buộc chúng ta chấp nhận sự hiện diện của một nguyên nhân nào đó, một điều kiện nào đó, đã làm nên một sự khác biệt trong trường hợp khi có một sự bắt đầu.

Thế nên nếu quý vị nói rằng có một sự bắt đầu tuyệt đối, sự kiện thứ nhất, quý vị chắc chắn phải chấp nhận rằng sự bắt đầu này thật có một nguyên nhân - một nguyên nhân thường hằng, một Đấng Tạo Hóa vĩnh cửu và không thay đổi. Ở đây một lần nữa, từ quan điểm của Đạo Phật, vấn nạn với một nguyên nhân thường hằngvĩnh cửu là quý vị rồi thì sẽ phải xác nhận rằng nguyên nhân này hoặc là (1) có thể hoàn toàn không bao giờ sinh ra một tác động, hay (2) phải sinh ra một ảnh hưởng liên tục. Chúng ta không thể nói rằng điều gì đấy là một nguyên nhân thường hằng, vĩnh cửu, không thay đổi nếu nó đôi khi cho sinh ra và đôi khi không cho sinh ra ảnh hưởng của nó, thế thì rõ ràng nó không thường hằng. Nó không phải không thay đổi. Nó đang thay đổi trong việc lệ thuộc vào sự hiện diện hay vắng mặt của một điều kiện nào khác đấy.

Trên những lý do ấy, Đạo Phật phủ nhận bất cứ khái niệm nào về một sự bắt đầu đối với một chuỗi nhân quả. Một sự bắt đầu tuyệt đối sẽ phải hoặc là sẳn có hay được tạo ra bởi một thực thể thường hằng - và cũng không là sự lựa chọn biện hộ hợp lý được.

Đức Phật dạy rằng do bởi si mê, hoạt động nghiệp sinh khởi[2]. Như chúng ta đã thấy, mọi thứ hình thành từ những nguyên nhânđiều kiện của chúng - và những nguyên nhânđiều kiện này tự chúng là vô thường. Nhưng xa hơn thế, không phải trường hợp mà bất cứ điều gì có thể sinh ra bất cứ điều gì khác, hay mỗi thứ sản sinh mỗi thứ khác. Đúng hơn, có một mối quan hệ tương ứng giữa các nguyên nhân và hệ quả vì thế những đặc điểm riêng biệt của những hệ quả tùy thuộc vào những đặc điểm và phẩm chất riêng biệt của các nguyên nhân.

Trong trường hợp của 12 nhân duyên, nguyên đầu tiên trong chuỗi ấy là si mê hay vô minh. Ở trình độ tự nhiên, không ai yêu thương khổ đau và mong ước nó - nhưng hoàn toàn không có gì khác, chúng ta tiếp tục tạo ra những điều kiện cho khổ đau. Cho nên nguyên nhân gốc rể của khổ đau là si mê. Nó là mắc xích đầu tiên của vòng nhân duyên.

 
Chúng Ta Không Có Sự Bắt Đầu Tuyệt Đối

Quan điểm của Đạo Phật chấp nhận một tự ngã quy ước tồn tại, một tự ngã được mệnh danh trong mối quan hệ đến phức hợp thân và tâm. Do vậy, nhằm để nói tự ngã có một sự bắt đầu hay không, chúng ta phải quyết địnhchúng ta có thể đặt để một sự bắt đầu cho dòng suối của những tập hợp uẩn vật lýtinh thần hay không? Dòng suối hay sự tương tục này là một cơ sở thật sự trong mối quan hệ đến điều mà khái niệm tự ngã sinh khởi. Trong dạng thức của một con người, những tập hợp uẩn là sắc, thí dụ, thân thể - là những đặc tính vật chất, và bốn uẩn tinh thần không phải vật chất và có bản chất kinh nghiệm chủ quan.

Trong khi cũng có một trình độ rất vi tế của sắc, chữ "sắc" thường liên hệ đến thân thể vật chất của kiếp sống này. Mỗi thân thể của con người thay đổi liên tục từng giây phút. Trong khi có nhiều loại đối tượng vật lý khác nhau, nếu chúng ta xem dòng suối của những yếu tố vật lý làm nên sự hiện hữu của chúng, thì thật khó khăn để thừa nhận một sự bắt đầu thật sự. Nhận thức khoa học hiện tại của chúng ta là, nguồn gốc của tất cả những hiện tượng vật lý trong thế giới tự nhiên, kể cả vật chất của thân vật lý của chúng ta, có thể được truy nguyên đến chính sự bắt đầu của vũ trụ. Đó là giả thuyết rằng sự bắt đầu này là sự nổ lớn - Big Bang.

Nhưng ngay cả ở đây, chúng ta phải hỏi, Big Bang đến từ chốn nào? Điều gì đã xếp đặt cho phạm vi hoạt động của sự kiện ấy? Phải có một năng lượng kinh khiếp cho một sự bùng nổ như vậy xảy ra. Năng lượng ấy được phối hợp với một loại vật chất nào đó chứ? Những nguyên nhânđiều kiện nào đem đến sự kiện ấy? Do thế, tôi nghĩ rằng thật khó khăn để chấp nhận một sự bắt đầu tuyệt đối với sự tồn tại vật chất. Mọi thứ sinh khởi từ những nguyên nhân từ những thời khắc trước đó trong một sự tương tục, dòng suối của sự thay đổi.

Chúng ta cũng có thể để ý đến vấn đề thức có một sự bắt đầu hay không? Vì thân thể chúng ta thay đổi từng thời khắc, cho nên càng tồn tại lâu dài cho sự hiện hữu của chúng ta thì càng liên hệ đến tâm thức, những uẩn tinh thần. Khi chúng ta nói rằng con người hay tự ngã được mệnh danh trong mối liên hệ đến sự tương tục của những uẩn, thì chính yếu chúng ta muốn nói rằng con người được mệnh danh trên căn bản của một dòng suối kinh nghiệm chủ quan. Sự tương tục của thức không có hình sắc. Nó không có hình thể hay màu sắc Tuy thế, nó thật sự có những ảnh hưởng rõ ràng; sự lựa chọn của chúng ta rõ ràng đưa đến những trải nghiệm của hạnh phúc và khổ đau.

Khi chúng ta cố gắng để thấu hiểu thức, chúng ta quy cho sự tồn tại của nó đối với dòng suối trước của kinh nghiệm với cùng những đặc trưng. Chúng ta có thể truy nguyên nguồn gốc và sự tương tục của thân thể vật lý đến những chất lỏng tái tạo của cha mẹ chúng ta, nhưng chúng ta không thể làm như thế để truy nguyên cội nguồn của thức chúng ta, của tâm chúng ta tới những tâm thức của cha mẹ chúng ta. Nguyên nhân chính, nguyên nhân thực tế, của thức của chúng ta phải là một thời khắc trước đó trong chính sự tương tục đó. Nếu chúng ta muốn thừa nhận một sự bắt đầu tuyệt đối với thức của chúng ta, thì chúng ta sẽ có hai sự lựa chọn. Chúng ta có thể nói rằng chính trường hợp cá biệt thứ nhất của thức không từ nơi nào đến như một hiện tượng hoàn toàn sẳn có. Hay khác đi chúng ta có thể thừa nhận rằng ở một điểm nào đó thức đã sinh khởi từ những nguyên nhân vốn không cùng bản chất và có những đặc trưng rất khác biệt. Cách nào đi nữa, dường như rất khó để thừa nhận một sự bắt đầu tuyệt đối đối với thức.

Không phải chỉ những Phật tử chấp nhận khái niệm những kiếp sống quá khứ, ý tưởng tái sanh; mà nhiều truyền thống triết học cũng tán đồng quan điểm này. Một trong những lý lẻ chính cho quan điểm này là chứng cứ kinh nghiệm của những cá nhân, những người nhớ lại kinh nghiệm của họ trong những kiếp sống quá khứ. Chính tôi đã gặp gở một bé gái Ấn Độ rất trẻ, bé nhớ lại kiếp sống quá khứ cực kỳ đáng tin cậy. Thật vậy, bé có bốn cha mẹ - hai trong kiếp sống này, cũng như cha mẹ chính trong kiếp sống trước. Cha mẹ của bé trong kiếp sống trước cũng chấp nhận cô bé này như con gái của họ. Những trường hợp như vậy cho một dấu hiệu rõ ràng rằng có những kiếp sống quá khứ. Tôi được nghe kể về một cậu bé Tây Tạng có thể đọc trước khi được dạy. Và chúng ta đã nghe một trường hợp về một người rất trẻ có một ký ức rất rõ ràng về kiếp sống quá khứ, nhận ra những người bạn, nhớ lại tên trước kia, và ngay cả nhớ lại những vật đặc biệt từ ngôi nhà của cậu, kể cả những quyển sách - mặc dù thế, trong trường hợp đó, cậu ấy không thể đọc. Chúng ta cần những cuộc điều tra nghiên cứu xa hơn nữa trong những trường hợp như vậy. Có cách nào đó để thấu hiểu những hoàn cảnh này trong những quan hệ của khuynh hướng di truyền học không? Tôi thật sự không biết. Nhưng câu trả lời theo quan điểm của Đạo Phậtkhông có một sự bắt đầu đối với sự tương tục của tâm thức.

Có Một Sự Chấm Dứt Không?

Câu hỏi thứ ba là Có một sự chấm dứt chứ? Trong Đạo Phật có hai luận điểm về vấn đề này. Có một trường phái tư tưởng xác nhận rằng khi một hành giả đạt đến niết bàn tối hậu, đại niết bàn, đây là vô dư y niết bàn. Với ý nghĩa ấy, chúng có nghĩa là con người - sự tương tục của tự ngã - hoàn toàn chấm dứt tồn tại. Nó giống như ngọn đèn đã cháy hết bơ. Tuy nhiên đây không phải là quan điểm của Tông Khách Ba.

Phật tử là người đã quy y tam bảo. Khi đối tượng của quy y được nói trong kinh luận, Đức Phật được diễn tả như "bậc siêu việt giữa loài người". Pháp được diễn tả như giáo huấn siêu việt hay chân lý siêu việt. Nó là chân lý tự do khỏi dính mắc; nó là tĩnh lặng. Nó là hòa bình. Tăng được diễn tả đoàn thể siêu việt. Tuy nhiên, nếu chúng ta thấu hiểu bản chất và đặc trưng của Ba Ngôi Tôn Quý chỉ ở trình độ ấy, nó không nhất thiếttính chất vô song của Đạo Phật. Những truyền thống tâm linh khác, quy y và những phẩm chất như vậy của đối tượng quy y có thể được trình bày trong những truyền thống khác. Hầu hết - có thể là tất cả - những truyền thống tâm linh thấy vị bổn sư (giáo chủ) như siêu việt trong nhân loại. Họ chắc chắn sẽ nói rằng giáo lý tâm linh của họ trình bày một chân lý là hòa bình và vượt khỏi dính mắc. Giống như thế, họ cũng có một khái niệm nào đó về một cộng đồng tâm linh.

Do vậy, nếu quý vị thấu hiểu Ba Ngôi Tôn Quý chỉ trên trình độ ấy mà thôi, thì sự thấu hiểu của quý vị không quá sâu sắc. Làm sao quý vị thậm chí có thể nói rằng quy y tam bảo là chỉ rõ tính chất của một người nào đó như thực hành Đạo Phật? Người ta thật đã nói như vậy, nhưng họ có thể giải thích nó thế nào? Chúng ta phải trau dồi một sự thấu hiểu sâu sắc hơn về bản chất của Phật và Pháp. Bản chất của Phật là gì mà chúng ta quy y? Và bản chất đặc thù của Tăng là gì mà chúng ta như những Phật tử xem như là một cộng đồng siêu việt?

Với sự tôn kính Đức Phật, có những quan điểm khác biệt trong truyền thống Đạo Phật. Như tôi đã đề cập, một số xác nhận rằng khi Đức Phật nhập niết bàn cuối cùng, toàn bộ sự tương tục tồn tại của Đức Phật đã chấm dứt. Một quan điểm khác, mà Tông Khách Ba cùng chia sẻ, liên hệ đến sự thấu hiểu Quả Phật trong những quan hệ của bốn hiện thân[3]. Ở đây, ý tưởng về sự chấm dứt hoàn toàn sự tương tục tồn tại của Đức Phật bị phủ nhận.

Long Thọ, đặc biệt trong Sáu Mươi Kệ Tụng Luận Lý, đã thực hiện một sự tranh luận rất rõ ràng chống lại ý tưởng cho rằng việc nhập niết bàn sau cùng của Đức Phật cấu thành việc chấm dứt tuyệt đối sự tồn tại của Đức Phật[4]. Long Thọ nói rằng nếu như vậy, thế thì toàn bộ khái niệm về việc nhập niết bàn vô dư y của ai đó sẽ là không mạch lạc. Khi người ấy đang còn sống, niết bàn vô dư y chưa hiện diện; tuy thế khi đạt đến niết bàn vô dư y, thì người ấy sẽ không hiện hữu ở đấy nữa. Vì vậy, ý tưởng về việc người nào đấy đạt đến niết bàn vô dư y là không mạch lạc nếu nó liên quan sự chấm dứt tuyệt đối đối với sự tương tục của một cá thể.

Những sự khác biệt vô vàn giữa những a la hán[5] và các Đức Phật không thể biện hộ được rằng toàn bộ con đường đến Quả Phật có thể chỉ bao gồm trong 37 phẩm trợ đạo bồ đề (pali)[6]. Chư Phật đơn giản không thể chỉ là những vị đã hoàn tất cùng các sự thực tập này trong những thời gian lâu dài hơn. Kết quả đạt đến của những vị la hán và của những Đức Phậtvô cùng khác biệt, đấy là thêm vào với 37 phẩm trợ đạo, con đường đến Quả Phật cũng phải bao gồm những sự thực tập khác chẳng hạn như 6 ba la mật[7].

Chúng ta có nhiều thể trạng tinh thần đã bị bóp méo qua việc bị đặt nền tảng trong một cung cách sai lầm của việc thấu hiểu và nhận thức thế giới. Những thể trạng tinh thần này có thể được dừng lại, đưa đến chấm dứt, bằng những phương pháp hóa giải đầy năng lực đối với cung cách thấu hiểu sai lầm này. Tuy nhiên, phẩm chất thiết yếu của tự tâmtrong sánghiểu biết. Không như trong trường hợp của si mênhiễm ô - là những thứ có thể được loại trừ - không có năng lực hay lý do nào có thể ngăn trở sự tương tục tự tâm tiếp diễn. Không có bất cứ điều gì phá hoại sự tương tục tồn tại phẩm chất thiết yếu của tự tâm.

Xa hơn thế, theo quan điểm của tantra yoga tối thượng, khi chúng ta thấu hiểu vấn đề thức hoạt động như thế nào trong trình độ vi tế nhất, thì chúng ta thấy hai đặc trưng[8]. Một khía cạnh hiểu biết. Và ngay với nó có một khía cạnh chuyển động, động lực; chúng ta có thể gọi đó là năng lượng. Hai khía cạnh này là không tách rời nhau, không thứ nào có thể tồn tại riêng biệt mà không có sự hiện diện của thứ kia. Thế nên thức tiếp diễn tồn tạitrình độ rất vi tế này ngay cùng với năng lượng này.

Điều gì xảy ra khi một cá thể đạt đến Giác Ngộ tròn vẹn? Thức tự nó, được phát khởi duyên sinh, căn bản của nó là trống không; tánh khôngbản chất cứu kính của tâm. Khi một cá thể đạt đến Quả Phật, tánh không này là thân tự nhiên của một Đức Phật, thân của một Đức Phật là chính bản chất của thực tại. Trong khi tâm của một người bình thườngtrong sạch và không nhiễm ô trong bản chất thiết yếu của nó, thì nó vẫn bị làm nhơ uế bởi những chất gây cấu bẩn và ô nhiễm ngẫu nhiên (khách trần phiền não). Khi một cá nhân đạt đến Quả Phật, những thứ nhiễm ô ngẫu nhiên này được tẩy sạch, vì thế tính thanh tịnh tự nhiên của tâm được hộ tống bởi một sự thanh tịnh đạt đến được qua việc trau dồi con đường tu tập. Do vậy, tánh không của tâm - chính bản chất tự nhiên của tâm con người - trở thành hóa thân tự nhiên của một Đức Phật, tự tánh thân.

Tại điểm này, thức của hành giả trở thành hiện thân sự thật của tuệ trí của Đức Phật, tuệ trí thân, và năng lượng đồng hành với tâm tuệ trí trở thành hiện thân sắc tướng của Đức Phật, hóa thân. Trong hiện thân của Đức Phật như hình tướng, có những phẩm chất của lời nóithân thể của một Đức Phật. Quả Phật vì thế là một thể trạng mà trong ấy thân thể, lời nói, và tâm ý đã trở thành hoàn toàn không thể tách rời, một bản tánh duy nhất, đơn tính chất, bởi vì tất cả chúng là những biểu lộ của thực thể thống nhất của chính tâm vi tế nhất và năng lượng vi tế nhất.

Nổ lực để đạt đến Quả Phật một cách cơ bản được động viên bởi một xu hướng vị tha làm việc vì lợi ích của vô lượng chúng sanh cho đến khi mà không gian vẫn còn tồn tại, đến những không gian xa xôi nhất. Một khi Quả Phật được đạt đến, vị Phật ấy không chấm dứt tồn tại. Động cơ cho việc thực hành trên con đường Bồ tát đạo là đến quả vị tối hậu của một chúng sanh Giác Ngộ, vị ấy sẽ tiếp tục hành động vì lợi ích của tất cả chúng sanh cho đến khi nào không gian vẫn còn tồn tại.

Việc thấu hiểu Quả Phật trong cách này thay đổi sự hiểu biết của quý vị về một Đức Phật như một đối tượng cua quy y. Trong Cứu Cánh Nhất Thừa Bảo Tính Luận của Di Lặc cho chúng ta biết rằng phẩm chất then chốt của giáo Pháp là nó không chỉ là giải thoát khỏi dính mắc - nó vượt khỏi mọi khái niệm, vượt khỏi mọi thứ mà chúng ta có thể tưởng tượng, vượt khỏi bất cứ biểu lộ nào của ngôn ngữ[9]. Tăng già là một cộng đồng của những hành giả, những người là hiện thân của giáo Pháp có những đặc tính phi thường. Khi quý vị có loại thấu hiểu ấy về tam bảo, nó sẽ tô điểm cho sự thấu hiểu của quý vị về những gì quý vị đi đến để quy y, nương tựa. Rồi thì, một cách ngấm ngầm, việc quy y Ba Ngôi Tôn Quý trở thành một sự khẳng định về bốn pháp ấn của Đạo Phật[10].Việc trở thành một Phật tử trong ý nghĩa triết lý đồng quy với hành động quy y tam bảo.

Trích từ quyển "From Here to Enlightenment"

Ẩn Tâm Lộ ngày 8/6/2014 



[1] ở đây Đức Thánh Thiện đang liên hệ đến sự giảng giải của Tông Khách Ba trong Tràng Hoa Vàng Hùng Biện

[2] ở đây Đức Thánh Thiện đang liên hệ đến lời dạy, vòng luân hồi hoạt động qua 12 nhân duyên.

[3] Đó là tự tánh thân, tuệ trí thân, báo thân, và hóa thân.

[4] Kệ tụng 4.8

[5] A la hán là những vị giải thoát luân hồi qua con đường tu tập không phải Đại Thừa Phật Giáo, những vị ấy tìm sự giải thoát cá nhân chứ không phải vì lợi ích của toàn thể chúng sanh.

[6] 37 phẩm Trợ Đạo Bồ Đề trong Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikaya)/ không phải 37 Phẩm Trợ Đạo Giác Ngộ của Tây Tạng do Tuệ Uyển dịch

[7] Hay sáu hoàn thiện

[8] Tông Khách Ba là trong những người phân chia luận điển thực hành mật tông thành bốn lớp.

[9] Xem bản dịch của Rosemarie Fuchs.

[10] Bốn pháp ấn là: chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, nhất thiết hành khổniết bàn tịch tĩnh/ xem bài Bốn Pháp Ấn của Đạo Phật do Đức Đạt Lai Lạt Ma giảng và Tuệ Uyển dịch có đăng trong thuvienhoasen.org

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3498)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
(Xem: 7355)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4525)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4579)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7352)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2971)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12221)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 4000)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3814)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4230)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3691)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5071)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6695)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4013)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4130)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5346)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3792)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4539)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3562)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3935)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4397)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5396)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3847)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3942)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3880)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4832)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4531)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4272)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3844)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4647)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4214)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6120)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4611)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4957)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4197)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4830)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5673)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3656)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4051)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4594)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5289)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3151)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4768)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4564)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4303)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4751)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4499)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4608)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7231)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5216)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 5011)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4601)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5621)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5282)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4164)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6024)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4722)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4885)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5495)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5625)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant