Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 2: Điểm gặp nhau của Đông Tây

25 Tháng Hai 201520:16(Xem: 7392)
Phần 2: Điểm gặp nhau của Đông Tây
QUÁN CHIẾU VỀ SỰ TIẾP CẬN PHẬT GIÁO THỰC TIỂN 

Reflections on the Realistic Approach of Buddhism:
Talks to Former Dharamsala Residents from the West
His Holiness the Fourteenth Dalai Lama 
Dharamsala, India, November 2 – 3, 2010 
Ghi lại:  Sean Jones và Michael Richards 
Hiệu đính: Luke Roberts và Alexander Berzin
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển



PHẦN HAI: ĐIỂM GẶP NHAU CỦA ĐÔNG TÂY

Tri thức phương Đông và  khoa học  phương Tây

Những điểm gặp nhau giữa Đông và Tây là gì, tôi nghĩ 30 hay 40 năm trước tôi đã đề cập rằng tri thức phương Đông, chính yếuẤn Độ đây - một cách đặc biệt tri thức về những cảm xúctâm thức - là rất chi tiết; và đây là bởi vì có sự thực tập về tập trung [chỉ] và phân tích [quán]. Những thứ này không căn cứ trên tín ngưỡng hay ngoan đạo; chúng là để cho việc rèn luyện tâm thức.  Một cách tự nhiên, bất cứ giáo huấn nào với sự thực hành tập trung và phân tích sẽ có một sự giải thích về tâm thức: tâm thức hoạt động như thế nào, các cảm xúc hoạt động như thế nào.

Rồi thì Phật Giáo cũng có bát nhã hay tuệ [tỉnh thức phân biệt], và cũng trong Phật Giáo quan điểm then chốt là giáo thuyết vô ngã hay anatma. Cho nên nhằm để tranh luận về thuyết vô ngã, tự nhiên quý vị cần một sự thấu hiểu chi tiết hơn về si mê và những quan điểm bị bóp méo hay vọng tưởng. Và đối với những quan điểm vọng tưởng, năng lượng đối kháng duy nhất là cái thấy đúng đắn hay chánh kiến, không phải cầu nguyện, không phải chỉ sự thiền tập mà thôi. Rồi thì trong Mật thừa cũng có thảo luận về những cấp độ khác nhau của các thể trạng tinh thần - thể trạng tỉnh thức, thể trạng giấc mộng, thể trạng ngũ, hay thể trạng vào những lúc ngất xỉu. [đây là tất cả những thí dụ của tri thức phương Đông về tâm thức].

Dĩ nhiên, khoa học đến từ phương Tây. Những nhà khoa học, trong hầu hết mọi trường hợp, đến từ quá khứ Do Thái - Ki Tô giáo, thế nên một cách tự nhiên họ không để ý nhiều đến tâm thứccảm xúc và những thứ loại này. Trong truyền thống Do Thái - Ki Tô giáo, trình độ thực tập là giống [như những truyền thống tôn giáo phương Đông] - sự thực hành về bi mẫn, tha thứ, bao dung, cũng như toại nguyện và kỷ luật tự giác. Điều này là giống nhau trong tất cả những tôn giáo quan trọng. Nơi mà những tôn giáo này khác nhau là trong những cung cách thúc đẩy những giá trị nhân tính căn bản.

Có những tôn giáo căn cứ trên niềm tin vào một đấng tạo hóa, kể cả những truyền thống Ấn giáo [chấp nhận một đấng tạo hóa]; và bởi vì một cách tối hậu tùy thuộc vào đấng tạo hóa, chỉ niềm tin thôi là đã đầy đủ. Nhằm để giảm thiểu tự ngã của quý vị, thái độ vị kỷ, quý vị cần một niềm tin mãnh liệt vào Thượng đế tạo hóa. Quý vị hoàn toàn quy phục Thượng đế. Như vậy sẽ làm giảm thiểu thái độ vị kỷ của quý vị. Trái lại Phật Giáo không có khái niệm về Thượng đế - cũng như Kỳ Na giáo và một một bộ phận của phái Số Luận [kể cả Lão giáo] không có đấng tạo hóa - do thế tự quý vị phải thực hiện một nổ lực để thay đổi tâm thức quý vị. Không thể thay đổi những thứ này qua cầu nguyện.

Loài người đã phát triển niềm tin tôn giáo tối thiểu hơn ba hay bốn nghìn năm qua. Bất cứ khi nào người ta gặp khó khăn, họ sẽ cầu nguyện và đặt niềm hy vọng của họ vào đấng tạo hóa hay Thượng đế hay đặt niềm tin của họ vào Đức Phật. Giống như người Tây Tạng - chúng tôi chỉ đặt niềm tin vào Đức Phật, nhưng thiếu sót về những hành động ở trình độ con người, vì thế đó là tại sao chúng tôi đã đánh mất quê hương, có phải không?

Vậy thì trong vài nghìn năm lại đây - tôi nghĩ tối thiểu là bốn hay năm nghìn năm - con người đã đặt hy vọngniềm tin tột cùng của họ vào Thượng đế. Nhưng bây giờ, hai thế kỷ qua, khoa học và kỷ thuật đã phát triền và bắt đầu thỏa mãn nhiều hy vọng của con người. Trong vài nghìn năm trở lại đây, chúng ta hoàn toàn dựa vào niềm tin; nhưng bây giờ, không có niềm tin, những kết quả rõ ràng đang được sản sinh bởi khoa học và kỷ thuật. Con người, kể của phương Đông, đang dựa vào khoa học và kỷ thuật, và đúng là nhiều thứ đã hấp dẫn họ.

Nhưng càng về sau của thế kỷ hai mươi, càng nhiều người nhiều người đang trải nghiệm những giới hạn của việc chỉ có những giá trị vật chất mà thôi. Những sản phẩm vật chất cung cấp cho chúng ta sự thoải mái vật chất và thật sự cho chúng ta một loại hài lòng nào đó về cấp độ cảm giảc, nhưng không phải ở trình độ tinh thần thật sự. Nếu quý vị  so sánh kinh nghiệm trình độ tinh thầntrình độ cảm giác, kinh nghiệm trình độ tinh thần là quan trọng hơn nhiều. Tất cả chúng ta kinh nghiệm rằng khi thể trạng tinh thần của chúng ta hạnh phúc và tĩnh lặng, sự đau đớn vật lý có thể bị chinh phục. Nhưng sự thoải mãi vật chất không thể khuất phục thể trạng tinh thần của chúng ta khi chúng ta có quá nhiều đau đớn tinh thần, quá nhiều lo lắng. Thế nên rõ ràng thể trạng tinh thần của chúng ta là thiết yếu hơn.

Ngày càng nhiều nhà khoa học và bác sĩ nhận ra thể trạng tinh thần là rất rất quan trọng cho sức khỏe của chúng ta. Một tâm thức khỏe mạnh liên hệ rất nhiều đến một thân thể khỏe mạnh. Nhưng một tâm thức khỏe mạnh không thể được phát sinh từ thuốc men hay bia rượu hay ma túy. Một tâm thức khỏe mạnh không thể được ban cho qua tiêm thuốc hay mua từ siêu thị. Một tâm thức khỏe mạnh phải được phát triển từ trong chính tâm thức - từ niềm tin đến một sự mở rộng nào đóp nhưng không, không thực tế. Một niềm tin vững vàng chân thành có thể chỉ đến qua sự nghiên cứu và khảo sát.

Cho nên tôi cảm thấy điểm mà Đông và Tây gặp nhau không phải vì những lý do tôn giáo, mà chỉ đơn giản là vì khoa học về tâm thức.

Những Khía Cạnh Khoa Học Của Truyền Thống Na Lan Đà

Tôi đã từng tham dự những buổi gặp gở với các nhà khoa học trong 30 năm qua. Vào lúc đầu - tôi nghĩ là 40 năm trước đây - tôi đã phát biểu tới một số người bạn của tôi rằng tôi muốn có một cuộc đối thoại với các nhà khoa học. Một phụ nữ Mỹ đã nói với tôi, "Khoa học là kẻ giết tôn giáo. Hãy cẩn thận." Nhưng rồi thì tôi đã nghĩ về truyền thống Na Lan Đà. Họ có thể khảo sát và thể nghiệm với giáo lý, và nếu họ tìm thấy bất cứ sự mâu thuẩn nào họ sẽ phủ nhận một cách chính xác những lời của chính Đức Phật. Chính Đức Phật cũng nói một cách rõ ràng: "Không môn đệ nào của tôi phải chấp nhận giáo huấn của tôi vì niềm tin, do lòng sùng mộ, mà đúng hơn là qua một sự khảo sát và thể nghiệm toàn diện." Các vị đạo sư có tự do để tiến hành sự khảo sát thậm chí chính lời của Đức Phật. Và cũng thế những người Tây Tạng chúng tôitừ ngữ drangdon và ngedon - giáo lý nhất thời [bất liễu nghĩa] và giáo lý tuyệt hảo [liễu nghĩa]. Vì thế cho nên tôi nhận ra tầm quan trọng của truyền thống Na Lan Đà là trên sự khảo sát hơn là niềm tin.

Toàn bộ hệ thống của Phật Giáo là căn cứ trên thực tại, thực tế ngày nay. Hai chân lý [chân đếtục đế] là những giải thích về thực tại. Rồi thì căn cứ trên thực tại ấy, chúng ta có thể thực hiện sự phân biệt về chánh kiếntà kiến [thấy đúng và thấy sai]. Cho nên nhằm để chứng minh đây là những cái thấy sai, chúng ta phải khảo sát thực tại của chúng. Luôn luôn có một lổ hổng giữa những hiện tướngthực tại. Nhiều cái thấy sai căn cứ trên các hiện tướng, và hầu hết những cảm xúc tàn phá đến từ những cái thấy sai - dính mắc , chấp ngã. Thế nên trên căn bản ấy, chúng taý tưởng về Bốn Chân Lý Cao Quý. Chỉ dựa vào lời của Đức Phật nói. "Ô, Đức Phật tuyên bố về Bốn Chân Lý Cao Quý," là sai. Chúng ta phải chứng minh Bốn Chân Lý Cao Quý. Chúng ta phải biết hệ thống thật sự hay cấu trúc của Bốn Chân Lý Cao Quý.

[Xem: giới thiệu vắn tắt về Bốn Chân Lý Cao Quý]

Vì thế tôi nhận ra rằng khoa học cũng cố gắng để tìm ra thực tại, sự thật - chân lý, nhưng dĩ nhiên ở một lãnh vực khác. Người Phật tử cũng đang cố gắng để tìm ra thực tại. Tôi  nghĩ cả hai thật sự là sự bổ sung cho nhau, tuyên bố nổi tiếng của Đặng Tiểu Bình: "Hãy tìm sự thật từ những sự  kiện." Cả hai truyền thống qua khảo sát cố gắng đẻ tìm sự thật, những sự kiện. Vì thế cho nên tôi nhận thức rõ rằng không có sự mâu thuẩn. Cung cách của khoa học về tiếp cận, khảo sát, là để giữ một thái độ hoài nghi. Phật Giáo giống y như vậy.

Thực Hiện Một Sự Phân Biệt Giữa Khoa Học Phật Giáo, Triết Học Phật Giáo, Và Tín Ngưỡng Phật Giáo

Vì cuộc gặp gở và hội nghị của chúng ta với những nhà khoa học, một số người đã dùng những chữ: "Cuộc gặp gở của khoa học và Phật Giáo," nhưng điều này là sai lầm. Chúng ta không thảo luận với các nhà khoa học về Phật Giáo, mà chỉ về khoa học Phật Giáo. Vì thế tôi đã thực hiện một sự phân biệt giữa khoa học Phật Giáo [khoa học đến từ kinh luận Phật Giáo], triết lý đến từ kinh luận Phật Giáo, và Phật Giáo. Vì thế Phật Giáo là cho những người Phật tử; nhưng khoa học Phật Giáotriết học Phật Giáophổ thông.

Tôi cảm thấy rằng đã từng có một loại gặp gở nào đó của Đông và Tây. Những nhà khoa học hàng đầu của phương Tây bây giờ đang thật sự chú ý nhiều đến giá trị của việc rèn luyện tâm thức, bởi vì điều này rất quan trọng và rất liên hệ đến sức khỏe của chúng ta, cho dù cho xã hội, gia đình hay cá nhân. Giống như Đại học Wisconsin, dưới sự lãnh đạo của Richard Davidson. Ông đã tiến hành một số chương trình về rèn luyện tâm thức, những thứ như thế này; và cũng như Đại học Stanford, vài năm gần đây. Tôi vừa thăm viếng họ. Tất cả những sự thí nghiệm của họ là sự nghiên cứu thật tuyệt vời. Và rồi thì Đại học Emory. Vì vậy, giống như thế, những thứ này không liên hệ gì với tôn giáo. Nó chỉ đơn giản rút ra những thông tin từ kinh luận Phật Giáo để sử dụng như một phương pháp khoa học để rèn luyện tâm thức, để làm lớn mạnh những phẩm chất tốt đẹp của tâm thức chúng ta [như bi mẫn và tình cảm] đến từ những bà mẹ của chúng ta.

Cho nên, giống như thế, tôi nghĩ rằng đấy là vị trí thích đáng cho Đông và Tây gặp gở. Đấy là cảm nhận của tôi. Không có tôn giáo, chỉ khoa học.

Ẩn Tâm Lộ Wednesday, December 17, 2014

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7154)
Nghệ thuật Phạm-bối của Phật giáo ra đời trong không gian kỳ ảo của nhiều cung bậc âm thanh, từ các thể tán ca, ngâm vịnh của những tôn giáo mang ảnh hưởng Vệ-đà.
(Xem: 6947)
... thuật ngữ nhất-xiển-đề có khi mang nghĩa là cực ác, hoặc mang nghĩa là một kẻ quá nhiều tham dục, tham luyến sanh tử, không cầu giải thoát.
(Xem: 9677)
Phật giáo không công nhận có một Đấng Thượng Đế Sáng Tạo, tiếng Anh là The Creator God và thường gọi tắt là God.
(Xem: 23179)
Đêm Rằm tháng Giêng, sân vắng, trăng sáng đầy trời. Trăng vẫn sáng đẹp như xưa, không có gì thay đổi...
(Xem: 8153)
Có ma hay không có ma ? Ma là gì ? Ma ở đâu ? Ma có làm hại được ta hay không ? Nếu phải trừ ma thì phải làm như như thế nào ?...
(Xem: 20588)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19580)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18460)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16308)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 15971)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 19134)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 14362)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 9675)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một vị Bồ tát nổi bật và được biết đến nhiều nhất trong tất cả các truyền thống Đại thừa, và đôi khi cả Tiểu thừa, như trường hợp ở xứ Tích lan và Thái lan cũng có thờ Ngài.
(Xem: 8773)
Philippe Cornu là một học giả uyên bác, thông thạo tiếng Tây Tạng, tiếng Phạn, tiếng Pali, tiếng Hán… Ông viết bảo, dịch thuật rất nhiều kinh sách, và thường được mời thuyết giảng về Phật giáo trên đài truyền hình Pháp.
(Xem: 8239)
Lý tưởng Bồ tátảnh hưởng lớn trên đời sống, tư tưởng và hành động của người Phật tử trong suốt hơn hai ngàn năm nay...
(Xem: 8943)
Đề tài của buổi giảng hôm nay là nhằm giới thiệu bức tranh ‘Địa Ngục Biến Tướng Đồ’, còn có tên là ‘Thập Vương Đồ’, do lão sư Giang Dật Tử vẽ tại Đài Trung, hiện nay đang được triển lãm tại Kinh Đô, Nhật Bản.
(Xem: 11025)
Phật giáo luôn nhắc nhở con người nên tin ở mình, tinh tấn tu hành để tự giải thoát. Thật chưa có tôn giáo nào xác nhận tinh tấnđộng lực chính giúp con người vươn đến cõi toàn thiện...
(Xem: 9171)
Tác phẩm Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo Giác Ngộ của Ngulchu Gyalsas Thogmed Zangpo là một trong những luận bản phổ biến nhất của Phật Giáo Tây Tạng...
(Xem: 8941)
Đức Phật đã dạy: “Chính sự khao khát là điều dẫn đến sự tái sinh. Đây chính là lần sinh thành cuối cùng của ta. Nay sẽ không bao giờ có sự tái sinh đối với ta”.
(Xem: 7996)
Đây là thắc mắc mà thanh niên Subha Todeyyaputta từng nêu ra cho Đức Phật với hy vọng tìm kiếm câu trả lời từ Ngài.
(Xem: 9127)
Mọi phương pháp dạy cho con người tránh né khổ đau hay trốn chạy khổ đau để tìm kiếm hạnh phúc đều không phải là những phương pháp giáo dục hoàn chỉnh.
(Xem: 35682)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 8600)
Việt Nam Đạo Phật vốn là một tôn giáo gắn bó với dân tộc, có nhiều ảnh hưởng sâu đậm đến lịch sử phát triển của đất nước, nhất là về mặt văn hóa giáo dục.
(Xem: 15150)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 8738)
Thiền định là một phương pháp hành thiền có nguồn gốc từ đạo Phật được phát triển vững mạnh trong 3 thập niên qua ở Mỹ và nhiều nước khác.
(Xem: 15340)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 9202)
Đại Tạng Kinh là một kho báu chung của mọi người Phật tử, nhưng do nhu cầu học Phật ở mỗi quốc gia mà có sự hình thành các Đại Tạng Kinh bằng những ngôn ngữ khác nhau.
(Xem: 8877)
Tâm Phật rỗng rang, không chất chứa gì cả. Tâm chúng sinh là một kho chứa khổng lồ chất đầy gánh nặng vui buồn, sướng khổ, hận thù, oan khiên nghiệt ngã của quá khứ.
(Xem: 9399)
Gót tu sĩ bốn phương trời rảo bước, Cõi Ta-bà đâu chẳng phải nhà ta, Một mình đi bình bát với cà sa, Đói xin ăn, dưới gốc cây nằm ngủ…
(Xem: 8511)
Hơn ba mươi năm, tôi làm ở hội Từ Tế. Bởi vì, tôi thường làm việc cứu trợ trong và ngoài nước, cho nên tôi cảm nhận được thiên tai, nhân họa liên tục ập xuống trái đất.
(Xem: 10335)
Báo Chánh Pháp số 34, tháng 9 năm 2014, do ĐLHT. Thích Thắng Hoan (CA) và Brodard Chateau, Brodard Restaurant & Bamboo Bistro ủng hộ ấn phí.
(Xem: 7705)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler
(Xem: 9590)
Những chướng duyên có thể giúp hành giả trên đường giải thoát. Ý niệm này, thường tìm thấy trong kinh Phật, dạy cách đánh giá cao những chướng duyên mà chúng ta gặp phải, vì nhờ chúng nên trí tuệtừ bi mới được nảy sinh.
(Xem: 7555)
Chất lượng của tâm niệm thiện lành sẽ tăng rất nhiều khi xưng danh tha thiết; vì thế, từ trạng thái nhớ nghĩ chuyển qua thực hành xưng danh niệm Phật là điều tất yếu.
(Xem: 17280)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15064)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 9544)
Kính thưa thầy, con có một thắc mắc về chơn tâmbản tánh. Sao gọi là chơn tâm? Sao gọi là bản tánh? Vậy giữa chơn tâmbản tánh giống nhau hay khác nhau?
(Xem: 20928)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 9250)
Mãi đến tận giờ, có lẽ ít người ngờ rằng Hòa thượng Thích Minh Châu ngoài phong cách một học giả có văn phong cổ kính, nghiêm túc và khô khan nhất trong làng Phật giáo Việt Nam, còn là một ngòi bút tân kỳ và thơ mộng đáng bậc thầy của không riêng Phật giáo.
(Xem: 7196)
Nếu chúng ta phân tích kinh nghiệm của chúng ta một cách cẩn thận, thế thì tôi nghĩ thật rõ ràng rằng hầu hết những quấy nhiễu tinh thần đến từ những tình trạng tinh thần tiêu cựcchúng ta gọi là phiền não.
(Xem: 17755)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17686)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 25870)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 7856)
Những người được gọi là "siêu việt" là những kẻ chân thành muốn làm tan biến tất cả khổ não của người khác bằng việc thấu hiểu nổi khổ đau của chính họ.
(Xem: 9952)
Cái không của A-hàm là xem trọng con đường giải thoát để tu trì. Cái không của Bộ phái dần dần có khuynh hướng bình luận, phân tích về ý nghĩa của pháp.
(Xem: 7294)
Tất cả mọi giáo huấn của Đức Phật đều hướng đến việc đem tới sự thực chứng nguyện vọng tức thời của chúng ta...
(Xem: 9689)
Chết là sự chấm dứt tạm thời của một hiện tượng tạm thời. Chết không phải là đoạn diệt hẳn, chết tại chỗ này nhưng lại sanh chỗ khác.
(Xem: 8170)
Thật là đại hạnh cho chúng tôi, nếu đức Thế Tôn cho phép nữ giới được sống đời xuất gia phạm hạnh thiêng liêng trong pháp và luật của đức Thế Tôn!
(Xem: 9135)
Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm...
(Xem: 7442)
Nếu bằng "cùng một nơi" chúng ta muốn nói thiên đàng[1] hay giải thoát khỏi vòng luân hồi, thế thì đấy là khó khăn...
(Xem: 8823)
Thực hành giáo lý không phải chỉ là đến chùa đọc kinh hay niệm Phật mà chính là áp dụng giáo lý của đức Phật trong đời sống hàng ngày...
(Xem: 7951)
Đức Phật nói lý nhân duyên là nói đến sự thật của đời sống con người và muôn loài vật trên thế gian này.
(Xem: 8385)
Sự hình thành các hệ tư tưởng của Phật giáo Bộ phái không ngoài mục đích đáp ứng nhu cầu thực tế của Phật giáo đương thời, xã hội hoá Phật giáo.
(Xem: 7562)
Suốt 49 năm giáo hóa độ sinh, Phật chỉ có ba y một bình bát, sống đời rày đây mai đó, tùy bệnh cho thuốc, giúp đỡ mọi người.
(Xem: 8764)
Chúng sinh trong cõi luân hồi vô thủy vô chung ấy đến rồi đi, đi rồi đến giống như hạt bụi nhỏ, phút chốc bỗng sinh trên trời, bỗng chốc sinh trên mặt đất...
(Xem: 8190)
“Ba cõi duy chỉ là tâm, muôn pháp duy chỉ là thức” là một chân lý, một sự thật được nói nhiều trong tông Duy thức, và rộng ra, có trong tất cả kinh, luận.
(Xem: 8914)
Dựa theo thuyết Thiên mệnh của Khổng Tử thì thiên mệnh là mạng lịnh của Trời. Thiên mệnh là chủ thuyết rất quan trọng trong triết lý của đạo Nho.
(Xem: 7325)
"Sau khi tôi nhập diệt, giới luật sẽ thay tôi để làm thầy của quí vị, ở đâu có giới luật thì ở đó có tôi..."
(Xem: 14040)
Tập hợp các bài viết của nhiều tác giả cùng 1 chủ đề: Tứ Diệu Đế, Bốn Chân Lý cao cả
(Xem: 7146)
... nghành Tâm lý học sẽ không bao giờ có thể giúp con người thấy đúng và rõ sự thật của tâm lý mình và tâm lý người khác.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant