Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trí Huệ Tánh Không Và Lòng Sùng Tín

16 Tháng Bảy 201517:08(Xem: 8191)
Trí Huệ Tánh Không Và Lòng Sùng Tín

TRÍ HUỆ TÁNH KHÔNG VÀ LÒNG SÙNG TÍN

Nguyễn Thế Đăng


Trí Huệ Tánh Không Và Lòng Sùng TínNói đến lòng sùng tín, sùng mộ và tin tưởng, có lẽ không phẩm nào của Kinh Đại Bát-nhã nói cụ thểxúc động hơn phẩm Bồ-tát Thường Đề, kể về sự nhiệt thành khát khao cầu ngộ nhập tánh Không của một Bồ-tát. Sùng mộ, tin tưởng và nhiệt thành cầu thể nhập tánh Không đến độ thường hay khóc, do đó có tên Thường Đề.

Trong bài viết ngắn này, chúng ta chỉ trích dẫn vài đoạn ngắn trong Kinh Đại Bát-nhã để thấy phần nào lòng sùng tín của một người tu hành trí huệ tánh Không.

 1..Với bậc thiện tri thức chỉ dạy

“Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát tu hành việc thân cận thiện tri thức như thế nào?

Đức Phật trả lời: Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát thấy các thiện hữu tri thức khuyên dạy chúng sanh, khiến họ tu tập Nhất thiết trí trí, bèn gần gũi, cung kính, cúng dường, tôn trọng, ca ngợi, thưa hỏi, lãnh thọ chánh pháp, ngày đêm thừa phụng, không có lòng mỏi mệt. Đấy là Đại Bồ-tát tu hành việc thân cận thiện hữu tri thức” (Phẩm Biện Đại thừa, hội thứ 1).

Chính lòng sùng tín đối với Bát-nhã mà các thiện tri thứcđại diện, đã mở tâm hành giả, làm rơi rụng  bớt những phiền não chấp ngã che chướng khiến tâm ấy có thể tiếp nhận, lãnh thọngộ nhập Bát-nhã. Lòng sùng tín là sự chuẩn bị, khai quang đất tâm để cho thiện tri thức khai thị trí huệ Bát-nhã. Lòng sùng tín khiến tâm hành giả không còn cong vạy, mà thẳng tắp như thiền định nhất tâmKinh Duy Ma Cật nói: “Tâm thẳng (trực tâm) là đạo tràng”.

Người ta không thể đạt đến tánh Không khi không có lòng sùng mộ tin tưởng vào tánh Khôngtánh Không chính là giải thoát giác ngộ. Mà cánh cửa đưa vào tánh Khôngthiện tri thức, vị ít nhất đã thấy trực tiếp tánh Không. Thế nên sùng tín đối với thiện tri thức tức là sùng tín Bát-nhã, trí huệ soi thấy tánh Không.

Nói về sự nhiệt thành cầu trí huệ tánh Không, có câu chuyện Thiền như sau:

Có vị Tăng tên là Thần Quang đến với Sơ tổ Bồ-đề- đạt-ma. Đêm ấy tuyết rơi nhiều, Thần Quang vẫn đứng ngoài chắp tay chờ đợi. Tổ quay lại hỏi: Ngươi đứng suốt đêm trong tuyết, ý muốn cầu điều gì?

Thần Quang thưa: Cúi mong Hòa thượng từ bi mở cửa cam lồ, rộng độ chúng con.

Tổ nói: Diệu đạo vô thượng của chư Phật, dù nhiều kiếp tinh tấn, làm được những việc khó làm, nhẫn được những việc khó nhẫn, còn không thể đến thay. Huống là dùng chút công lao nhỏ này mà muốn cầu pháp chân thừa ư?

Thần Quang bèn chặt cánh tay trái để trước ngài. Tổ nói: Chư Phật lúc ban đầu cầu đạo, vì pháp quên thân, nay ngươi muốn cầu điều gì?

Pháp ấn của chư Phật con có thể nghe được chăng?

Pháp ấn của chư Phật không phải từ người khác mà được.

– Tâm con chưa an, xin thầy chỉ dạy pháp an tâm.

– Người muốn an tâm, vậy đem tâm ra đây, ta an cho. Thần Quang đứng yên một hồi, nói:

– Con tìm tâm mãi mà rốt chẳng thể được.

– Như vậy là ta đã an tâm cho người rồi đó.

Thần Quang do đây được ngộ thấy bản tâm tánh Không của mình. Tổ bèn đổi tên Thần Quang thành Huệ Khả.

2.. Với kinh điểnTam bảo

Để đến với Bát-nhã, người ta cần có nhiều phước đức, đã từng trồng nhiều thiện căn, đã phát tâm Bồ-đề và không lìa bỏ tâm Bồ-đề. Bởi vì nếu ít phước đức, hành giả sẽ gặp nhiều chướng nạn và khó gặp những duyên lành để đến với Bát-nhã.

“Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, có nhiều sự khởi lên làm chướng nạn chống trái, khiến kẻ ít phước chẳng thành tựu. Bát-nhã ba-la-mật-đa như ngọc lưu ly quý báu, ở châu Nam Thiệm-bộ có nhiều chướng nạn, người ít phước cầu chẳng thể được” (Phẩm Ma sự, hội thứ 1).

“Các Bồ-tát phát tâm cầu Giác ngộ vô thượng, tinh cần tu hành, đã từng cúng dường trăm ngàn muôn ức Đức Phật, ở chỗ các ngài phát thệ nguyện sâu rộng. Căn lành thuần thục, được vô lượng hạnh lành nhiếp thọ, nên đối với Bát-nhã sâu xa như thế có thể tin hiểu được” (Phẩm Đạt trí, hội thứ 1).

“Những thiện nam tử, thiện nữ nhân đã từng ở chỗ các Đức Phật gần gũi cúng dường, phát thệ nguyện sâu rộng, trồng các thiện căn, tâm ý thông sáng, được các thiện tri thức nhiếp thọ, nên đối với Bát-nhã ba- la-mật-đa khó thấy khó biết chẳng phải chỗ suy nghĩ kiếm tìm, vượt khỏi chỗ suy nghĩ kiếm tìm, vi diệu vắng lặng tối thượng đệ nhất này, cũng có thể tin nhận thọ trì được” (Phẩm Thọ giáo, hội thứ 1).

Vị Bồ-tát trí huệ đệ nhất là ngài Văn-thù. Trí huệ của ngài là trí huệ Bát-nhã. Hình tượng của ngài là tư thế ngồi, tay phải cầm gươm báu trí huệ, bên trái là các quyển kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa. Trí huệ của bậc trí huệ đệ nhất chính là Bát-nhã tánh Không.

Thế nên Kinh Đại Bát-nhã nói trí huệ Bát-nhã là “mẹ của chư Phật”, và sự biết ơn trả ơn của Phật chính là với Bát-nhã ba-la-mật-đa.

“Tu-bồ-đề phải biết, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là mẹ của chư Phật, Bát-nhã ba-la-mật-đa thường chỉ bày thật tướng của thế gian. Vậy nên Như Lai y pháp mà trụ, trong tất cả thời cung kính cúng dường, tôn trọng ca ngợi, nhiếp thọ hộ trì không dứt hở. Thế nên trong tất cả thế gian không ai biết ơn trả ơn hơn Phật vậy” (Phẩm Phật mẫu, hội thứ 1).

Đối với chư Phật là như thế, thì đối với người tu hành Bát-nhã sự sùng tín phải như thế này:

“Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc làm phương tiện, với Bát-nhã ba-la-mật-đa đây chuyên tâm lắng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh cần tu học, suy nghĩ đúng lý, rộng vì chúng sanh tuyên nói giảng giải. Hoặc lại biên chép, trang hoàng, cung kính, cúng dường, tôn trọng ca ngợi. Lại dùng các phẩm vật cao quý, tràng hoa, hương xoa, hương bột, chuỗi hạt, lụa là, phan lọng bảo tràng, các ngọc quý hiếm, đèn sáng kỹ nhạccúng dường thì sanh phước vô lượng vô biên, chẳng thể nghĩ bàn.

Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thành tựu tất cả các bậc Thánh từ Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát cho đến Phật.

Kiều Thi Ca! Nếu kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đây truyền bá trong cõi người, thì thế gian này Tam bảo quyết định không ẩn mất. Nếu kinh điển này hiện hữu trong cõi người, thì thế gian thường có mười thiện nghiệp” (PhẩmPhước sanh, hội thứ 2).

Nhờ Bát-nhã mà người ta có phước đức thiện căn, nhờ Bát-nhã mà người ta có trí huệđại bi, nhờ Bát- nhã mà người ta tự giác, nhờ Bát-nhã mà người ta giác tha, nhờ Bát-nhã mà người ta có mười thiện nghiệp để làm người, nhờBát-nhã mà người ta có Tam bảo.

Sự lợi lạc của Bát-nhã không thể kể hết, dù chỉ một tiếp xúc nhỏ như “để lọt vào tai”:

“Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân, hoặc các thiên tửthiên nữ, được Bát-nhã ba-la-mật- đa một phen lọt vào tai, vì sức thiện căn nên quyết định dần dần chứng được Giác ngộ vô thượng. Tùy sanh chỗ nào thường chẳng xa lìa mười thiện nghiệp” (Phẩm Công đức, hội thứ 2).

Chỗ thiết đặt kinh Bát-nhã được chư Thiên vương, chư thiên long thường đến chiêm ngưỡng, đi vòng quanh vui mừng hộ niệm:

“Bấy giờ Đức Phật bảo Trời Đế Thích rằng: Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử thiện nữ nhân này hoặc thấy chỗ đặt để kinhBát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế có ánh sáng lạ, hoặc có mùi thơm khác thường, hoặc có tiếng thiên nhạc, phải biết lúc ấy có các chư thiên long… đi đến chỗ ấy để xem người kia làm lễ, đọc tụng Bát-nhã được biên chép, cúng dường cung kính, tôn trọng ca ngợi, chắp tay đi quanh vui mừng hộ niệm” (Phẩm So lường công đức, hội thứ 1).

 3.. Được ủng hộhộ niệm

Người thực hành Bát-nhã và khuyến khích người khác thực hành Bát-nhã thì được chư Phật hộ niệm:

“Đức Phật nói: Xá-lợi-tử! Chính do thần lực Phật và chư Phật mười phương khiến các ác ma kia chẳng thể làm hại các Bồ-tát biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, suy nghĩ, rộng thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Xá-lợi-tử! Chư Phật Thế Tôn đều chung hộ niệm các Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, khiến làm được nghiệp lành tốt đẹp, tất cả các ác ma chẳng thể làm hại ngăn chướng” (Phẩm Công đức khó nghe, hội thứ 1).

“Trời Đế Thích thưa với Đức Phật rằng: Chư thiên chúng tôi thường theo hộ vệ các thiện nam tử thiện nữ nhân này, chẳng để cho tất cả người, loài chẳng phải người và các thứ ác duyên làm não hại” (Phẩm Chư thiên đến, hội thứ 2).

Bồ-tát thực hành Bát-nhã được bốn Đại thiên vương và các thiện thần ủng hộ:

“Đức Phật nói: Lại nữa, Đế Thích! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân với Bát-nhã ba-la-mật-đa này chuyên tâm lắng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh cần tu học, như lý suy nghĩ, biên chép giải nói, khiến rộng phổ biến, Bồ-tát này thường được bốn Đại thiên vương thế giới tam thiên đại thiênthiên Đế Thích, chư Đại Phạm thiên vương cõi Kham Nhẫn, trời Cực Quang Tịnh, trời Biến Tịnh, trời Quảng Quả, trời Tịnh Cư… và các thiện thần đều ủng hộ, chẳng cho tai họa xâm hại, chỗ cầu không gì chẳng đầy đủ. Chư Phật hiện tại ở mười phương thế giới cũng thường hộ niệm Bồ-tát như vậy, khiến pháp xấu ác diệt, pháp tốt thiện tăng trưởng” (Phẩm Nhiếp thọ, hội thứ 1).

Chư thiên, long… đối với Bồ-tát tu Bát-nhã xem như Phật: “Bấy giờ trong chúng hội trời Đế Thích, các vị trời Dục giới, Phạm thiên vương, các vị trời Sắc giới và Y-xá-na thiên, các thiên nữ đồng ba phen cất cao tiếng rằng: Hay thay, hay thay! Tôn giả Tu-bồ-đề thừa thần lực Phật, Phật là chỗ nương, khéo vì chúng tôi trời, người thế gian phân biệt khai thị Chánh pháp nhiệm mầu là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nếu có Bồ-tát với Bát-nhã ba-la-mật-đa đây có thể như thuyết mà hành chẳng bỏ lìa, chúng tôi đối với vị ấy cung kính phụng sự như với Phật” (Phẩm Nhiếp thọ, hội thứ 1).

Tại sao tất cả trời người đều cung kính ủng hộ người tu Bát-nhã như vậy? Bởi vì:

“Nếu có người thọ trì đọc tụng, tinh cần tu học, tôn trọng ca ngợi Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế, tức là khiến cho mắt Phật và hạt giống Phật bảo chẳng diệt, mắt Pháp và hạt giống Pháp bảo chẳng diệt, mắt Tăng và hạt giống Tăng bảo chẳng diệt” (Phẩm So lường công đức, hội thứ 1).

Thế nên, kinh nói Bát-nhã đại thần chú, là chú vương. Công năng của thần chú ấy về mặt xuất thế giangiải thoát, đến bờ bên kia, như thần chú trong Bát- nhã Tâm kinh chúng ta thường tụng. Về mặt thế gian, thần chú Bát-nhã còn có công hiệugiải trừ những ách nạn, tai ương, nguy hiểm của cuộc sống thế gian.

“Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử thiện nữ nhân chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế thường chuyên tâm lắng nghe, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi ca, thọ trì đọc tụng, đúng như lý suy nghĩ, tinh cần tu học, biên chép giảng nói, khiến phổ biến rộng, đối với các người ấy, tất cả thuốc độc, trùng độc, quỷ mị, trù ếm, chú thuật đều chẳng thể hại, nước chẳng thể chìm, lửa chẳng thể cháy, dao gậy, ác thú, oán tặc, ác thần, các tà ma chẳng thể làm thương hại. Vì sao thế? Kiều Thi Ca! Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú. Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là chú vương rất cao rất diệu không gì sánh kịp, đủ đại oai lực dẹp trừ tất cả mà tất cả chẳng thể làm gì được.

Các người ấy tinh cần tu học chú vương như thế thì mình chẳng bị hại, người chẳng bị hại, cả hai đều chẳng bị hại. Bởi tại sao? Vì các người ấy học Bát-nhã ba-la-mật-đa thấu rõ mình người đều bất khả đắc. Vì địa thủy hỏa phong không thức giới đều vô sở đắc nên mình chẳng bị hại, người chẳng bị hại, cả hai đều chẳng bị hại” (Phẩm Nhiếp thọ, hội thứ 1).

Trí huệ tánh Không là cái thiêng liêng rốt ráo:

Bát-nhã là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, là vô đẳng, là vô đẳng đẳng” (PhẩmCa ngợi Bát nhã, hội thứ 1).

Thế nên trí huệ Bát-nhã thiêng liêng hóa mọi thứ liên quan đến mình, và nói rộng ra, thiêng liêng hóa tất cả các pháp, vì tất cả các pháp đều là tánh Không vậy.  

(TC. Văn Hóa Phật Giáo)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23111)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34678)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32253)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 30472)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 30745)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 21066)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20221)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19485)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24428)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30747)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15712)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
(Xem: 27841)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 19795)
Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt...
(Xem: 15594)
Qua tinh thần kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá...
(Xem: 23294)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23616)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 17560)
Năm uẩn của chúng ta -- thân thể, cảm giác, nhận thức, thúc đẩy, thức: chúng là đất sét mà chúng ta nhào nặn và tạo hình qua sự thực tập thành một vị bồ tát...
(Xem: 15737)
Giải thoát sanh tử không phải là hiện đời không chết, không phải là sống mãi ở vị lai, mà là những khổ sanh tửvị lai không còn sanh khởi nữa...
(Xem: 21951)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 38071)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 22229)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 23298)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 21407)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 28456)
Mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để đoạn trừ, hay tối thiểu làm giảm bớt những khổ đau của con người, đưa con người đến một đời sống an lạchạnh phúc...
(Xem: 32608)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 25234)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34734)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 23002)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27754)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 31352)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13631)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
(Xem: 25261)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27893)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 22143)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 20767)
Trước khi vào nội dung đề tài lần này thì có một nghi vấn đã được đặt ra như sau: "Mục tiêu của đạo Phật vốn là để giải thoát hành giảchúng sinh khỏi đau khổ luân hồi...
(Xem: 22234)
Đạo Phật đã hình thành và phát triển hơn 2500 năm, cho đến nay, tôn giáo này đã đang được sự chú ý nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học.
(Xem: 27203)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 24189)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 21968)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 14755)
Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại...
(Xem: 23218)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 24068)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 21179)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 14230)
Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia.
(Xem: 19977)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 22569)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 14099)
Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra...
(Xem: 28083)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 22899)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 28262)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 11034)
Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý.
(Xem: 28547)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 31630)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 26240)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 15012)
"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm.
(Xem: 28062)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
(Xem: 7486)
Phật GiáoTâm Lý Học Hiện Đại do ban biên tập của Bồ Đề Học Xã biên soạn, là một tài liệu giá trị cho những ai muốn tìm hiểu sự khác và giống giữa Phật PhápTâm lý Học Trị Liệu Tây phương.
(Xem: 25425)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 20735)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 21166)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant