Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiên ĐườngĐịa Ngục Trong Đạo Phật (song ngữ)

29 Tháng Chín 201508:22(Xem: 8983)
Thiên Đường Và Địa Ngục Trong Đạo Phật (song ngữ)

Thiên ĐườngĐịa Ngục Trong Đạo Phật
(Heaven And Hell In Buddhism - London Buddhist Vihara)

Tu Viện Phật Giáo Luân Đôn (London)

Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến

Thien duong va dia nguc

Thiên ĐườngĐịa Ngục Trong Đạo Phật

1) ĐẠO PHẬT KHÔNG CÔNG NHẬN MỘT VỊ THƯỢNG ĐẾ, LÀ MỘT NGƯỜI SÁNG TẠO RA VŨ TRỤ. NHƯ VẬY, ĐẠO PHẬT ĐÃ GIẢI THÍCH NHƯ THẾ NÀO VỀ NGUỒN GỐC CỦA TRÁI ĐẤT, VÀ VŨ TRỤ?

Đây là một trong những câu hỏi mà Đức Phật đã không trả lời. Đức Phật nhận biết rằng, bất cứ câu trả lời nào của ngài, cũng sẽ tạo ra những sự bất đồng ý kiến, và sẽ có sự tranh luận kéo dài trong nhiều ngày. Đức Phật nói rằng, "Không ai có khả năng biết được, sự bắt đầu của thế giới luân hồi (trong các cuộc sống diễn tiến liên tục, ở trong vòng sinh tử). Con người vì thiếu hiểu biết, và bị trói buộc bởi lòng ham muốn, họ đãng trí, và hay đi lang thang, nên họ không thể nào nhận biết được nguồn gốc của con người.

Vũ trụ, và các thành phần của vũ trụ, phải tuân theo luật tuần hoàn của sự sinh ra, của sự chết đi, và của sự tái sinh, do đó thời điểm tuyệt đối khởi đầu của vũ trụ thì không-thể-nghĩ-bàn.

2) DÂN SỐ CỦA CON NGƯỜI TRÊN TRÁI ĐẤT ĐÃ ĐƯỢC TĂNG LÊN NHIỀU-TRIỆU NGƯỜI TRONG NHIỀU-NĂM. THEO Ý NGHĨA CỦA SỰ TÁI SINH, CHÚNG TA GIẢI THÍCH ĐIỀU NẦY NHƯ THẾ NÀO?

Theo các bản văn cổ, có vô số các hệ thống thế giới trong vũ trụ. Trái đất (là một cõi nhỏ không đáng kể trong vũ trụ), không phải là nơi duy nhất có sự sống tồn tại. Người ta nói rằng có ba-mươi-mốt cõi (thế-giới), hoặc là nơi chốn có các sinh vật trong vũ trụ, và trái đất nơi con người cư ngụ chỉ là một trong số các cõi nầy. Một chúng sinh được sinh ra từ một cõi nào đó, tùy thuộc vào nghiệp của họ. Đức Phật nói rằng số lượng của chúng sinh trong vũ trụ lớn đến nỗi, chúng ta không thể nào đếm hết được. Do đó, chúng sinh được sinh ra trong cõi người, có thể đã đến từ một trong ba-mươi-mốt cõi nói trên.

3) THIÊN ĐƯỜNGĐỊA NGỤC, CÓ THẬT KHÔNG?

Các kinh sách Phật Giáo nói rằng có ba-mươi-mốt cõi, hoặc là nơi chốn có các sinh vật trong vũ trụ, kể cả cõi người. Chúng sinh được sinh ra trong một cõi nào đó, tùy thuộc vào nghiệp đã tích lũy của họ.

Cõi thấp kém hơn cõi người, gồm có bốn cõi (A Tu La, Ngạ Quỷ (Quỷ Đói), Súc Sanh (Súc Vật), và Địa Ngục) được mô tả như là những cõi không-có-hạnh-phúc. Những chúng sinh bị sinh ra trong những cõi nầy, là do kết quả của những nghiệp bất thiện mà họ đã làm. Những chúng sinh tham lam quá mức, và có quá nhiều sự dính mắc vào của cải thế gian, có thể bị tái sinh vào cõi Ngạ Quỷ, và họ có thể bị lôi kéo đến nơi mà họ bị dính mắc.

Cõi cao đẹp hơn cõi ngườicõi Trời Chư-Thiên, và cõi Trời Phạm-Thiên. Khi chúng-sinh ở cõi cao hơn, thì sinh hoạt trong cuộc sống của họ có nhiều sự khôn khéo, và sự thông minh hơn, và những chúng sinh nầy có nhiều tuổi thọ hơn.

Những Chư-Thiên có hình tướng vật chất được cấu tạo từ những chất liệu tinh tế hơn so với cõi người. Họ có những giác quan giống như người, và họ tận hưởng cuộc sống với nhiều khoái lạc. Họ cũng có thể có nhiều phép thần thông.

Cõi Trời Phạm-Thiên được mô tả là cõi vừa có hình-tướng, và cũng là cõi không-có-hình-tướng. Trong cõi không-có-hình-tướng, họ hoàn toàn không có thân thể vật chất. Họ sống vượt ra khỏi các cảm giác về vật lý, và họ sống trong trạng thái bình an.

Chúng-sinh ở trong những cõi cao hơn, được mô tả như những Thiên Nhân, và tuổi thọ của họ được biết là kéo dài hàng tỷ năm, so với cuộc sống ở cõi người. Đấy cũng là lý do tại sao chúng ta gọi họ là những vị "Thần" hoặc vị "Trời."

Mặc dù tuổi thọ của chúng-sinh ở những cõi cao hơn kéo dài nhiều triệu năm, so với trái đất, nhưng cuối cùng, rồi họ cũng phải chết, vì cuộc sống trong tất cả các cõi nầy đều là có điều kiện. Đó là, sự hoạt động của luật nhân quả, và tất cả mọi sự vật có điều kiệnvô thường.

Đấy là ý nghĩa của các thuật ngữ 'Thiên Đường' và 'Địa Ngục' trong giáo lý của Phật Giáo. Cho nên, trong Đạo Phật, không có cõi trời vĩnh viễn, hoặc là địa ngục vĩnh viễn, giống như các tôn giáo khác đã giảng dạy.

4) NIẾT BÀN KHÁC BIỆT VỚI THIÊN ĐƯỜNG VĨNH-CỬU, MÀ ĐÃ ĐƯỢC NÓI ĐẾN TRONG NHỮNG TÔN GIÁO KHÁC, NHƯ THẾ NÀO?

Niết Bàn không phải là một cõi, nơi mà có cuộc sống. Niết Bàn có nghĩa là 'dập tắt ngọn lửa' - dập tắt đi những ngọn lửa, những lý do gây ra vòng sinh tử luân hồi - thế nên, Niết Bàn cũng có nghĩa là không-có sự tái sinh. Niết Bàn không thể được diễn tả theo kinh nghiệm bình thường của chúng ta, vì như thế thì rất hạn chế. Niết Bàn thì không lệ thuộc vào luật nhân quả, cho nên Niết Bàn thì vĩnh viễn.

Niết Bàn là một trạng thái chúng ta đạt được, khi chúng ta hãy còn sống; đây không phải là một điều gì đó chúng ta đạt được sau khi chết. Niết Bànchúng ta đạt được là kết quả do những nỗ lực của chính chúng ta, chứ không phải là kết quả do sự phán xét của một vị thần, hoặc một vị Thượng Đế.

5) CON NGƯỜI CÓ THỂ TÁI SINH LÀM SÚC VẬT, HOẶC LÀ CÂY CỎ, HAY KHÔNG?

Theo giáo lý, súc vậtchúng sinh cũng giống như con người, bao gồm sự kết hợp của tâm-và-thân (nama-rupa). Súc vật cũng không thể nào tránh khỏi nghiệp, giống như con người. Một chúng sinh bị sinh ra trong cõi súc sinh (là cõi thấp kém hơn cõi người) là kết quả của nghiệp bất thiện.

Cây cỏ không phải thuộc loại có thần thức (vinnana), giống như con người, cho nên, con người bị tái sinh thành cây cỏ là điều không thể xảy ra được.

Heaven And Hell In Buddhism

1. BUDDHISM DOES NOT RECOGNISE A CREATOR GOD. HOW IS THE ORIGIN OF THE EARTH AND THE UNIVERSE EXPLAINED IN BUDDHISM?

This was one of the questions at which the Buddha remained silent. The Buddha realised that any answer would create much controversy and argument. The Buddha said, “Without cognisable beginning is this samsara (cycle of existence). The earliest point of beings who, obstructed by ignorance and fettered by craving, wander and fare on, is not to be perceived”.

The universe and its components are subject to the cyclic law of birth, death and rebirth, therefore an absolute begining is inconceivable.

2. THE HUMAN POPULATION ON EARTH HAS BEEN INCREASING BY THE MILLIONS OVER THE YEARS. HOW CAN THIS BE EXPLAINED IN TERMS OF REBIRTH?

According to the ancient texts, there are countless world systems in the universe. The earth (an insignificant speck in the universe) is not the only place where life exists. It is said that there are thirty-one planes or states of existence in the universe and human plane is just one of them. A being is born to a particular plane depending on his accumulated kamma. The Buddha said that the number of beings in the universe is so vast that it cannot be counted. Therefore beings can be born from any of these planes into the human plane.

3. IS THERE A HEAVEN AND A HELL?

The Buddhist texts states that there are thirty one planes or states of existence in the universe, including that of humans. Beings are born into a particular plane depending of their accumulated kamma.

Below the human plane are four planes (Asura,Peta,Thiracchana and Niraya) which are described as unhappy states of existence. Beings are born into these states as a result of their unwholesome kamma. Excessive greed and attachment to worldly belongings may cause re-birth in the Peta plane and be drawn to the place of attachment.

Above the human plane are the Deva and Brahma planes. As the level of plane becomes higher, more subtle is the state of existence and longer is the life span.

The Devas have physical forms which are composed of more subtle material than that in the human plane. They possess physical senses as in humans and enjoy a life of great pleasure. They may also possess supernormal powers.

The Brahma planes are described as form and formless states. In the formless states, the beings are devoid of any material bodies. They transcends all physical sensations and exist in a state of equanimity.

Beings in these higher planes are described as celestial beings and their life span is said to last billions of years relative to earthly life.

It may well be that so called 'gods' are such beings.

Even though the life-spans in these higher planes of existence last millions of years relative to earth, they eventually come to an end, since the existence in all these planes are conditioned: that is, the laws of cause and effect operate, and all conditioned things are impermanent.

This is what is meant by the terms ‘heaven' and 'hell' in Buddhist teachings: there are no permanent heavens or hells as taught in other religions.

4. HOW IS NIBBANA DIFFERENT FROM THE EVER­LASTING HEAVEN, AS TAUGHT IN SOME RELIGIONS?

Nibbana is not a realm of existence. Nibbana literally means ‘blowing out’ - blowing out the causes that produce results in the cycle of life - hence there will be no rebirth. Nibbana cannot be described in terms of our normal experience, which is so limited. Nibbana is not subject to the law of cause and effect, therefore it is permanent.

Nibbana is a state to be attained whilst we are still alive; it is not something we reach after death. It is to be attained as a result of our own efforts, not from the judgment of a divine being.

5. CAN HUMANS BE REBORN AS ANIMALS OR TREES?

According to the teachings, animals are sentient beings just as humans, comprised of mind-matter (nama-rupa) combination. They are subject to the same kammic laws as humans. A being may be born in the animal plane (which is classed below that of human) as a result of unwholesome kamma.

Plants do not have the type of consciousness (vinnana) inherent in a sentient being, therefore rebirth as a plant or tree is not possible.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6953)
... thuật ngữ nhất-xiển-đề có khi mang nghĩa là cực ác, hoặc mang nghĩa là một kẻ quá nhiều tham dục, tham luyến sanh tử, không cầu giải thoát.
(Xem: 9683)
Phật giáo không công nhận có một Đấng Thượng Đế Sáng Tạo, tiếng Anh là The Creator God và thường gọi tắt là God.
(Xem: 23217)
Đêm Rằm tháng Giêng, sân vắng, trăng sáng đầy trời. Trăng vẫn sáng đẹp như xưa, không có gì thay đổi...
(Xem: 8164)
Có ma hay không có ma ? Ma là gì ? Ma ở đâu ? Ma có làm hại được ta hay không ? Nếu phải trừ ma thì phải làm như như thế nào ?...
(Xem: 20632)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19608)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18500)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16327)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 15987)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 19172)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 14399)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 9688)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một vị Bồ tát nổi bật và được biết đến nhiều nhất trong tất cả các truyền thống Đại thừa, và đôi khi cả Tiểu thừa, như trường hợp ở xứ Tích lan và Thái lan cũng có thờ Ngài.
(Xem: 8785)
Philippe Cornu là một học giả uyên bác, thông thạo tiếng Tây Tạng, tiếng Phạn, tiếng Pali, tiếng Hán… Ông viết bảo, dịch thuật rất nhiều kinh sách, và thường được mời thuyết giảng về Phật giáo trên đài truyền hình Pháp.
(Xem: 8250)
Lý tưởng Bồ tátảnh hưởng lớn trên đời sống, tư tưởng và hành động của người Phật tử trong suốt hơn hai ngàn năm nay...
(Xem: 8958)
Đề tài của buổi giảng hôm nay là nhằm giới thiệu bức tranh ‘Địa Ngục Biến Tướng Đồ’, còn có tên là ‘Thập Vương Đồ’, do lão sư Giang Dật Tử vẽ tại Đài Trung, hiện nay đang được triển lãm tại Kinh Đô, Nhật Bản.
(Xem: 11042)
Phật giáo luôn nhắc nhở con người nên tin ở mình, tinh tấn tu hành để tự giải thoát. Thật chưa có tôn giáo nào xác nhận tinh tấnđộng lực chính giúp con người vươn đến cõi toàn thiện...
(Xem: 9179)
Tác phẩm Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo Giác Ngộ của Ngulchu Gyalsas Thogmed Zangpo là một trong những luận bản phổ biến nhất của Phật Giáo Tây Tạng...
(Xem: 8955)
Đức Phật đã dạy: “Chính sự khao khát là điều dẫn đến sự tái sinh. Đây chính là lần sinh thành cuối cùng của ta. Nay sẽ không bao giờ có sự tái sinh đối với ta”.
(Xem: 8007)
Đây là thắc mắc mà thanh niên Subha Todeyyaputta từng nêu ra cho Đức Phật với hy vọng tìm kiếm câu trả lời từ Ngài.
(Xem: 9139)
Mọi phương pháp dạy cho con người tránh né khổ đau hay trốn chạy khổ đau để tìm kiếm hạnh phúc đều không phải là những phương pháp giáo dục hoàn chỉnh.
(Xem: 35716)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 8615)
Việt Nam Đạo Phật vốn là một tôn giáo gắn bó với dân tộc, có nhiều ảnh hưởng sâu đậm đến lịch sử phát triển của đất nước, nhất là về mặt văn hóa giáo dục.
(Xem: 15172)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 8742)
Thiền định là một phương pháp hành thiền có nguồn gốc từ đạo Phật được phát triển vững mạnh trong 3 thập niên qua ở Mỹ và nhiều nước khác.
(Xem: 15357)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 9216)
Đại Tạng Kinh là một kho báu chung của mọi người Phật tử, nhưng do nhu cầu học Phật ở mỗi quốc gia mà có sự hình thành các Đại Tạng Kinh bằng những ngôn ngữ khác nhau.
(Xem: 8893)
Tâm Phật rỗng rang, không chất chứa gì cả. Tâm chúng sinh là một kho chứa khổng lồ chất đầy gánh nặng vui buồn, sướng khổ, hận thù, oan khiên nghiệt ngã của quá khứ.
(Xem: 9405)
Gót tu sĩ bốn phương trời rảo bước, Cõi Ta-bà đâu chẳng phải nhà ta, Một mình đi bình bát với cà sa, Đói xin ăn, dưới gốc cây nằm ngủ…
(Xem: 8525)
Hơn ba mươi năm, tôi làm ở hội Từ Tế. Bởi vì, tôi thường làm việc cứu trợ trong và ngoài nước, cho nên tôi cảm nhận được thiên tai, nhân họa liên tục ập xuống trái đất.
(Xem: 10361)
Báo Chánh Pháp số 34, tháng 9 năm 2014, do ĐLHT. Thích Thắng Hoan (CA) và Brodard Chateau, Brodard Restaurant & Bamboo Bistro ủng hộ ấn phí.
(Xem: 7722)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler
(Xem: 9615)
Những chướng duyên có thể giúp hành giả trên đường giải thoát. Ý niệm này, thường tìm thấy trong kinh Phật, dạy cách đánh giá cao những chướng duyên mà chúng ta gặp phải, vì nhờ chúng nên trí tuệtừ bi mới được nảy sinh.
(Xem: 7589)
Chất lượng của tâm niệm thiện lành sẽ tăng rất nhiều khi xưng danh tha thiết; vì thế, từ trạng thái nhớ nghĩ chuyển qua thực hành xưng danh niệm Phật là điều tất yếu.
(Xem: 17326)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15110)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 9574)
Kính thưa thầy, con có một thắc mắc về chơn tâmbản tánh. Sao gọi là chơn tâm? Sao gọi là bản tánh? Vậy giữa chơn tâmbản tánh giống nhau hay khác nhau?
(Xem: 20960)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 9272)
Mãi đến tận giờ, có lẽ ít người ngờ rằng Hòa thượng Thích Minh Châu ngoài phong cách một học giả có văn phong cổ kính, nghiêm túc và khô khan nhất trong làng Phật giáo Việt Nam, còn là một ngòi bút tân kỳ và thơ mộng đáng bậc thầy của không riêng Phật giáo.
(Xem: 7220)
Nếu chúng ta phân tích kinh nghiệm của chúng ta một cách cẩn thận, thế thì tôi nghĩ thật rõ ràng rằng hầu hết những quấy nhiễu tinh thần đến từ những tình trạng tinh thần tiêu cựcchúng ta gọi là phiền não.
(Xem: 17783)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17713)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 25927)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 7879)
Những người được gọi là "siêu việt" là những kẻ chân thành muốn làm tan biến tất cả khổ não của người khác bằng việc thấu hiểu nổi khổ đau của chính họ.
(Xem: 9970)
Cái không của A-hàm là xem trọng con đường giải thoát để tu trì. Cái không của Bộ phái dần dần có khuynh hướng bình luận, phân tích về ý nghĩa của pháp.
(Xem: 7322)
Tất cả mọi giáo huấn của Đức Phật đều hướng đến việc đem tới sự thực chứng nguyện vọng tức thời của chúng ta...
(Xem: 9710)
Chết là sự chấm dứt tạm thời của một hiện tượng tạm thời. Chết không phải là đoạn diệt hẳn, chết tại chỗ này nhưng lại sanh chỗ khác.
(Xem: 8195)
Thật là đại hạnh cho chúng tôi, nếu đức Thế Tôn cho phép nữ giới được sống đời xuất gia phạm hạnh thiêng liêng trong pháp và luật của đức Thế Tôn!
(Xem: 9161)
Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm...
(Xem: 7455)
Nếu bằng "cùng một nơi" chúng ta muốn nói thiên đàng[1] hay giải thoát khỏi vòng luân hồi, thế thì đấy là khó khăn...
(Xem: 8828)
Thực hành giáo lý không phải chỉ là đến chùa đọc kinh hay niệm Phật mà chính là áp dụng giáo lý của đức Phật trong đời sống hàng ngày...
(Xem: 7960)
Đức Phật nói lý nhân duyên là nói đến sự thật của đời sống con người và muôn loài vật trên thế gian này.
(Xem: 8394)
Sự hình thành các hệ tư tưởng của Phật giáo Bộ phái không ngoài mục đích đáp ứng nhu cầu thực tế của Phật giáo đương thời, xã hội hoá Phật giáo.
(Xem: 7578)
Suốt 49 năm giáo hóa độ sinh, Phật chỉ có ba y một bình bát, sống đời rày đây mai đó, tùy bệnh cho thuốc, giúp đỡ mọi người.
(Xem: 8774)
Chúng sinh trong cõi luân hồi vô thủy vô chung ấy đến rồi đi, đi rồi đến giống như hạt bụi nhỏ, phút chốc bỗng sinh trên trời, bỗng chốc sinh trên mặt đất...
(Xem: 8207)
“Ba cõi duy chỉ là tâm, muôn pháp duy chỉ là thức” là một chân lý, một sự thật được nói nhiều trong tông Duy thức, và rộng ra, có trong tất cả kinh, luận.
(Xem: 8929)
Dựa theo thuyết Thiên mệnh của Khổng Tử thì thiên mệnh là mạng lịnh của Trời. Thiên mệnh là chủ thuyết rất quan trọng trong triết lý của đạo Nho.
(Xem: 7337)
"Sau khi tôi nhập diệt, giới luật sẽ thay tôi để làm thầy của quí vị, ở đâu có giới luật thì ở đó có tôi..."
(Xem: 14059)
Tập hợp các bài viết của nhiều tác giả cùng 1 chủ đề: Tứ Diệu Đế, Bốn Chân Lý cao cả
(Xem: 7164)
... nghành Tâm lý học sẽ không bao giờ có thể giúp con người thấy đúng và rõ sự thật của tâm lý mình và tâm lý người khác.
(Xem: 10410)
Duy thức học là một học thuyết tuy được xác lập vào khoảng thế kỷ thứ tư...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant