Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiên ĐườngĐịa Ngục Trong Đạo Phật (song ngữ)

29 Tháng Chín 201508:22(Xem: 8903)
Thiên Đường Và Địa Ngục Trong Đạo Phật (song ngữ)

Thiên ĐườngĐịa Ngục Trong Đạo Phật
(Heaven And Hell In Buddhism - London Buddhist Vihara)

Tu Viện Phật Giáo Luân Đôn (London)

Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến

Thien duong va dia nguc

Thiên ĐườngĐịa Ngục Trong Đạo Phật

1) ĐẠO PHẬT KHÔNG CÔNG NHẬN MỘT VỊ THƯỢNG ĐẾ, LÀ MỘT NGƯỜI SÁNG TẠO RA VŨ TRỤ. NHƯ VẬY, ĐẠO PHẬT ĐÃ GIẢI THÍCH NHƯ THẾ NÀO VỀ NGUỒN GỐC CỦA TRÁI ĐẤT, VÀ VŨ TRỤ?

Đây là một trong những câu hỏi mà Đức Phật đã không trả lời. Đức Phật nhận biết rằng, bất cứ câu trả lời nào của ngài, cũng sẽ tạo ra những sự bất đồng ý kiến, và sẽ có sự tranh luận kéo dài trong nhiều ngày. Đức Phật nói rằng, "Không ai có khả năng biết được, sự bắt đầu của thế giới luân hồi (trong các cuộc sống diễn tiến liên tục, ở trong vòng sinh tử). Con người vì thiếu hiểu biết, và bị trói buộc bởi lòng ham muốn, họ đãng trí, và hay đi lang thang, nên họ không thể nào nhận biết được nguồn gốc của con người.

Vũ trụ, và các thành phần của vũ trụ, phải tuân theo luật tuần hoàn của sự sinh ra, của sự chết đi, và của sự tái sinh, do đó thời điểm tuyệt đối khởi đầu của vũ trụ thì không-thể-nghĩ-bàn.

2) DÂN SỐ CỦA CON NGƯỜI TRÊN TRÁI ĐẤT ĐÃ ĐƯỢC TĂNG LÊN NHIỀU-TRIỆU NGƯỜI TRONG NHIỀU-NĂM. THEO Ý NGHĨA CỦA SỰ TÁI SINH, CHÚNG TA GIẢI THÍCH ĐIỀU NẦY NHƯ THẾ NÀO?

Theo các bản văn cổ, có vô số các hệ thống thế giới trong vũ trụ. Trái đất (là một cõi nhỏ không đáng kể trong vũ trụ), không phải là nơi duy nhất có sự sống tồn tại. Người ta nói rằng có ba-mươi-mốt cõi (thế-giới), hoặc là nơi chốn có các sinh vật trong vũ trụ, và trái đất nơi con người cư ngụ chỉ là một trong số các cõi nầy. Một chúng sinh được sinh ra từ một cõi nào đó, tùy thuộc vào nghiệp của họ. Đức Phật nói rằng số lượng của chúng sinh trong vũ trụ lớn đến nỗi, chúng ta không thể nào đếm hết được. Do đó, chúng sinh được sinh ra trong cõi người, có thể đã đến từ một trong ba-mươi-mốt cõi nói trên.

3) THIÊN ĐƯỜNGĐỊA NGỤC, CÓ THẬT KHÔNG?

Các kinh sách Phật Giáo nói rằng có ba-mươi-mốt cõi, hoặc là nơi chốn có các sinh vật trong vũ trụ, kể cả cõi người. Chúng sinh được sinh ra trong một cõi nào đó, tùy thuộc vào nghiệp đã tích lũy của họ.

Cõi thấp kém hơn cõi người, gồm có bốn cõi (A Tu La, Ngạ Quỷ (Quỷ Đói), Súc Sanh (Súc Vật), và Địa Ngục) được mô tả như là những cõi không-có-hạnh-phúc. Những chúng sinh bị sinh ra trong những cõi nầy, là do kết quả của những nghiệp bất thiện mà họ đã làm. Những chúng sinh tham lam quá mức, và có quá nhiều sự dính mắc vào của cải thế gian, có thể bị tái sinh vào cõi Ngạ Quỷ, và họ có thể bị lôi kéo đến nơi mà họ bị dính mắc.

Cõi cao đẹp hơn cõi ngườicõi Trời Chư-Thiên, và cõi Trời Phạm-Thiên. Khi chúng-sinh ở cõi cao hơn, thì sinh hoạt trong cuộc sống của họ có nhiều sự khôn khéo, và sự thông minh hơn, và những chúng sinh nầy có nhiều tuổi thọ hơn.

Những Chư-Thiên có hình tướng vật chất được cấu tạo từ những chất liệu tinh tế hơn so với cõi người. Họ có những giác quan giống như người, và họ tận hưởng cuộc sống với nhiều khoái lạc. Họ cũng có thể có nhiều phép thần thông.

Cõi Trời Phạm-Thiên được mô tả là cõi vừa có hình-tướng, và cũng là cõi không-có-hình-tướng. Trong cõi không-có-hình-tướng, họ hoàn toàn không có thân thể vật chất. Họ sống vượt ra khỏi các cảm giác về vật lý, và họ sống trong trạng thái bình an.

Chúng-sinh ở trong những cõi cao hơn, được mô tả như những Thiên Nhân, và tuổi thọ của họ được biết là kéo dài hàng tỷ năm, so với cuộc sống ở cõi người. Đấy cũng là lý do tại sao chúng ta gọi họ là những vị "Thần" hoặc vị "Trời."

Mặc dù tuổi thọ của chúng-sinh ở những cõi cao hơn kéo dài nhiều triệu năm, so với trái đất, nhưng cuối cùng, rồi họ cũng phải chết, vì cuộc sống trong tất cả các cõi nầy đều là có điều kiện. Đó là, sự hoạt động của luật nhân quả, và tất cả mọi sự vật có điều kiệnvô thường.

Đấy là ý nghĩa của các thuật ngữ 'Thiên Đường' và 'Địa Ngục' trong giáo lý của Phật Giáo. Cho nên, trong Đạo Phật, không có cõi trời vĩnh viễn, hoặc là địa ngục vĩnh viễn, giống như các tôn giáo khác đã giảng dạy.

4) NIẾT BÀN KHÁC BIỆT VỚI THIÊN ĐƯỜNG VĨNH-CỬU, MÀ ĐÃ ĐƯỢC NÓI ĐẾN TRONG NHỮNG TÔN GIÁO KHÁC, NHƯ THẾ NÀO?

Niết Bàn không phải là một cõi, nơi mà có cuộc sống. Niết Bàn có nghĩa là 'dập tắt ngọn lửa' - dập tắt đi những ngọn lửa, những lý do gây ra vòng sinh tử luân hồi - thế nên, Niết Bàn cũng có nghĩa là không-có sự tái sinh. Niết Bàn không thể được diễn tả theo kinh nghiệm bình thường của chúng ta, vì như thế thì rất hạn chế. Niết Bàn thì không lệ thuộc vào luật nhân quả, cho nên Niết Bàn thì vĩnh viễn.

Niết Bàn là một trạng thái chúng ta đạt được, khi chúng ta hãy còn sống; đây không phải là một điều gì đó chúng ta đạt được sau khi chết. Niết Bànchúng ta đạt được là kết quả do những nỗ lực của chính chúng ta, chứ không phải là kết quả do sự phán xét của một vị thần, hoặc một vị Thượng Đế.

5) CON NGƯỜI CÓ THỂ TÁI SINH LÀM SÚC VẬT, HOẶC LÀ CÂY CỎ, HAY KHÔNG?

Theo giáo lý, súc vậtchúng sinh cũng giống như con người, bao gồm sự kết hợp của tâm-và-thân (nama-rupa). Súc vật cũng không thể nào tránh khỏi nghiệp, giống như con người. Một chúng sinh bị sinh ra trong cõi súc sinh (là cõi thấp kém hơn cõi người) là kết quả của nghiệp bất thiện.

Cây cỏ không phải thuộc loại có thần thức (vinnana), giống như con người, cho nên, con người bị tái sinh thành cây cỏ là điều không thể xảy ra được.

Heaven And Hell In Buddhism

1. BUDDHISM DOES NOT RECOGNISE A CREATOR GOD. HOW IS THE ORIGIN OF THE EARTH AND THE UNIVERSE EXPLAINED IN BUDDHISM?

This was one of the questions at which the Buddha remained silent. The Buddha realised that any answer would create much controversy and argument. The Buddha said, “Without cognisable beginning is this samsara (cycle of existence). The earliest point of beings who, obstructed by ignorance and fettered by craving, wander and fare on, is not to be perceived”.

The universe and its components are subject to the cyclic law of birth, death and rebirth, therefore an absolute begining is inconceivable.

2. THE HUMAN POPULATION ON EARTH HAS BEEN INCREASING BY THE MILLIONS OVER THE YEARS. HOW CAN THIS BE EXPLAINED IN TERMS OF REBIRTH?

According to the ancient texts, there are countless world systems in the universe. The earth (an insignificant speck in the universe) is not the only place where life exists. It is said that there are thirty-one planes or states of existence in the universe and human plane is just one of them. A being is born to a particular plane depending on his accumulated kamma. The Buddha said that the number of beings in the universe is so vast that it cannot be counted. Therefore beings can be born from any of these planes into the human plane.

3. IS THERE A HEAVEN AND A HELL?

The Buddhist texts states that there are thirty one planes or states of existence in the universe, including that of humans. Beings are born into a particular plane depending of their accumulated kamma.

Below the human plane are four planes (Asura,Peta,Thiracchana and Niraya) which are described as unhappy states of existence. Beings are born into these states as a result of their unwholesome kamma. Excessive greed and attachment to worldly belongings may cause re-birth in the Peta plane and be drawn to the place of attachment.

Above the human plane are the Deva and Brahma planes. As the level of plane becomes higher, more subtle is the state of existence and longer is the life span.

The Devas have physical forms which are composed of more subtle material than that in the human plane. They possess physical senses as in humans and enjoy a life of great pleasure. They may also possess supernormal powers.

The Brahma planes are described as form and formless states. In the formless states, the beings are devoid of any material bodies. They transcends all physical sensations and exist in a state of equanimity.

Beings in these higher planes are described as celestial beings and their life span is said to last billions of years relative to earthly life.

It may well be that so called 'gods' are such beings.

Even though the life-spans in these higher planes of existence last millions of years relative to earth, they eventually come to an end, since the existence in all these planes are conditioned: that is, the laws of cause and effect operate, and all conditioned things are impermanent.

This is what is meant by the terms ‘heaven' and 'hell' in Buddhist teachings: there are no permanent heavens or hells as taught in other religions.

4. HOW IS NIBBANA DIFFERENT FROM THE EVER­LASTING HEAVEN, AS TAUGHT IN SOME RELIGIONS?

Nibbana is not a realm of existence. Nibbana literally means ‘blowing out’ - blowing out the causes that produce results in the cycle of life - hence there will be no rebirth. Nibbana cannot be described in terms of our normal experience, which is so limited. Nibbana is not subject to the law of cause and effect, therefore it is permanent.

Nibbana is a state to be attained whilst we are still alive; it is not something we reach after death. It is to be attained as a result of our own efforts, not from the judgment of a divine being.

5. CAN HUMANS BE REBORN AS ANIMALS OR TREES?

According to the teachings, animals are sentient beings just as humans, comprised of mind-matter (nama-rupa) combination. They are subject to the same kammic laws as humans. A being may be born in the animal plane (which is classed below that of human) as a result of unwholesome kamma.

Plants do not have the type of consciousness (vinnana) inherent in a sentient being, therefore rebirth as a plant or tree is not possible.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7842)
Những truyền thống khác nhau của Tây Tạng đến từ Đức Phật - Kadam, Sakya, Kagyu, và Nyingma - tất cả theo sự trình bày của những ...
(Xem: 9515)
Chủ đề về tánh không bao hàm tất cả giáo huấn Phật Giáo bởi vì chính Đức Phật hít thở bằng tánh không (hiện hữu, trường tồn và sống trong tánh không)
(Xem: 9563)
Từ Bi, có nghĩa là tình thương yêu rộng lớn đối với muôn loài hữu tình chúng sanh (loài ngườisúc vật). Tình thương rộng lớn này được...
(Xem: 8075)
Pháp thân Phậttánh Không không hình không tướng ở khắp như hư không. Báo thânquang minhHóa thân là thân vật chất;
(Xem: 10192)
Thường nghe rằng, cửa ngõ vào Chánh đạo, sự phát tâm quan trọng nhất; việc gấp trên đường tu, không gì hơn lập nguyện.
(Xem: 8622)
Không có hiện tượng nào đang tồn tại mà không phải là kết quả của nhân duyên
(Xem: 9079)
Đức Phật có nói: "Như Lai đã đạt đến sự hiểu biết rõ ràng về điều nầy, nghiệp lực, xuyên qua trí huệ cao cả của chính Như Lai."
(Xem: 8948)
Sau khi Đức Phật giác ngộ, bài giảng đầu tiên của ngài tập trung vào Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế), đó chính là nền tảng của Đạo Phật.
(Xem: 8111)
Bốn dấu ấn của hiện hữu, Phạn ngữ gọi là caturlaksana, Pà li ngữ là caturlakkhana, hoặc còn gọi là Dharma mudra.
(Xem: 8858)
Chúng ta cần phải quy y Tam bảo để cứu mình ra khỏi đường hiểm khổ đau, đến chỗ an vui giải thoát.
(Xem: 25625)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 8969)
Để phân biệt với người không Phật tử, có sự quy y hay phương hướng an toàn, và để phân biệt với con đường Tiểu thừa, có sự quy y của Đại Thừa.
(Xem: 14308)
"Lý thuyết Nhân tính qua kinh tạng Pàli" là đề tài luận án Tiến sĩ do Thượng tọa Thích Chơn Thiện thực hiện và đệ trình tại Đại học Delhi
(Xem: 8110)
Thưa đại đức! Khi thọ khổ phát sanh, bậc A-la-hán chỉ thọ có một khổ thọ ấy, còn phàm phu thì thọ luôn cả hai thọ khổ, có phải vậy chăng?
(Xem: 8518)
Con số 84.000 trong do ngài An Nan thuật lại trong Trưởng Lão Kệ của Tiểu Bộ chính là 84.000 Pháp tức “dhamma” trong tiếng Pāḷi.
(Xem: 11790)
Đạo Phật không mang đến cho ta tiền tài hay danh vọng mà chỉ cho ta tình yêu thương bất diệthạnh phúc đích thực miên viễn trong dòng khổ đau của nhân sinh
(Xem: 8977)
Theo truyền thống sinh hoạt tu học của chư Tăng Ni từ thời Đức Phật còn tại thế, cứ đến ngày kết thúc một mùa an cư thì Đức Thế Tôn cùng chư Tăng Ni đều...
(Xem: 10294)
Mối quan hệ sâu đậm với một vị thầy tâm linh có thể là sự nối kết thăng hoa và quan trọng nhất trong một đời người.
(Xem: 8283)
Thức( vijnana) là dòng trôi tương tục dao động sáng tạo với những biểu đồ phức tạp được chi phối bởi những hệ quy chiếu mang màu sắc chủ quan
(Xem: 9900)
Đức Phật Thích Ca đã thường nói về Năm Uẩn, cũng còn được gọi là Năm Tập Hợp, hoặc là Năm Đống Hàng Cao Như Ngọn Núi.
(Xem: 9376)
Dục là nguyên nhân của khổ đau, nguồn gốc của dục có từ vô thỉ, sự trói buộc của nó đối với chúng sanh trong luân hồivô lượng kiếp.
(Xem: 8116)
Từ ngữ Niết Bàn xuất phát từ nguồn có ý nghĩa là "Dập tắt ngọn lửa", để nói đến việc dập tắt đi những ngọn lửa tham lam, sân hận, và si mê (tham sân si).
(Xem: 9418)
Niết bàn được xem là mục đích cứu cánh của đạo Phật, chỉ trạng thái tâm thức đã gột sạch hết mọi vô minh phiền não, sự giải thóat khỏi các kiết sử tùy miên...
(Xem: 8434)
Như tâm, Phật cũng vậy Như Phật, chúng sanh đồng Nên biết Phật cùng tâm Thể tánh đều vô tận
(Xem: 10877)
Hoa Sen biểu trưng cho những giá trị đạo đức, sự thuần khiếtthánh thiện, sự duy trì và phát triển Phật pháp, trí tuệ dẫn đến Niết Bàn.
(Xem: 9005)
Con người sinh ra trong thế giớidần dần, ngoài những sự vật đã có trong thiên nhiên, sáng chế ra những sự vật để dùng trong cuộc sống.
(Xem: 10429)
Phật giáo như ánh sáng mặt trời mà nhìn ánh sáng ấy, chúng ta chỉ có cặp mắt nhỏ hẹp. Tuy nhiên một là tất cả, chúng ta có thể căn cứ một vài điều sau đây mà biết tất cả đặc điểm của Phật giáo.
(Xem: 8222)
Có một số đặc thù là văn hóa, hoặc là đối với văn hóa phương Tây, hay đối với Á châu và những nền văn hóa khác bị ảnh hưởng bởi sự suy nghĩ của phương Tây hiện đại.
(Xem: 10200)
Tất cả các pháp nhân duyên sanh Thể tánh chẳng có cũng chẳng không Ở nơi nhân duyênsanh khởi Trong đó đều trọn không chấp trước
(Xem: 10390)
Nhân sau cùng sinh quả dị thục, Nhân đầu tiên sinh quả tăng thượng, Nhân đồng loại, biến hành sinh quả đẳng lưu, Nhân câu hữu, tương ưng sinh quả sĩ dụng
(Xem: 8930)
Đức Phật thị hiện là một con người như mọi người, điều này khẳng định cho chúng ta biết ngài không phải là thần linh, thị hiện ở núi non kỳ dị.
(Xem: 8180)
Tâm Bồ Đề (skt:Bodhicitta) là tâm giác ngộ, tâm thấy được bản mặt thật của chư pháp, tâm tin nơi nhân quảPhật Tánh nơi chúng sanh cũng như luôn dụng công tu hành hướng về quả vị Phật.
(Xem: 16547)
Muốn hết Nghiệp thì Tu ! Thì, Trì Chú ! Đó là “Thực Phẩm ngon” của Người Tu Hành xưa cũ.
(Xem: 12228)
Phật Học Vấn Đáp - Duy Thức Học Phần thứ 8; Lý Bỉnh Nam giải đáp, Thích Đức Trí chuyển ngữ
(Xem: 12169)
Hãy nương tựa vào chính mình, tự xem mình là ngọn đuốc soi đường cho mình, là nơi an trú cho mình, mà không cần một nơi an trú nào khác cả...
(Xem: 8696)
Nguyên tác: Background for Understanding Bodhichitta, Tác giả:Alexander Berzin/ Riga, Latvia, July 2004; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10118)
Giáo thuyết tối thượng tịnh hóa tâm thức, Là việc vắng mặt sự tồn tại cố hữu.
(Xem: 8477)
Điều cương quyết để thọ tám chi của Luật nghi này, là phải có tối thiểu một vị Tỷ-kheo làm giới sư truyền thọ, chứ không thể tự một mình phát nguyện thọ trì được.
(Xem: 9001)
Trong Đạo Phật thuật ngữ tự ngã có hai ý nghĩa phải được phân biệt nhẳm để tránh nhầm lẫn. Một ý nghĩa của tự ngã là ‘cá thể’ hay ‘chúng sinh’.
(Xem: 10293)
Có nguồn gốc từ Ấn-độ, là tín lý căn bản trong Ấn-độ giáo, Phật giáo cũng như Kỳ-na giáo, và cả đến đạo Sikh; được truyền vào Trung hoa rất sớm, dịch là nghiệp,
(Xem: 8665)
Cận trụ nguyên ngữ Sanskrit là là upavāsatha, Hán phiên âm là ô-ba-bà-sa, Ưu-ba-bà-tố-đà, Ưu-bà-sa, U-ba-bà-sa, Ô-bô-sa-tha v.v…
(Xem: 8098)
Nói đến lòng sùng tín, sùng mộ và tin tưởng, có lẽ không phẩm nào của Kinh Đại Bát-nhã nói cụ thểxúc động hơn phẩm Bồ-tát Thường Đề...
(Xem: 8675)
Nguyên tác: Introduction to Bodhicitta - Tác giả: Alexander Berzin/ Riga, Latvia, June 2003 - Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7992)
Đẳng lưu nhân-quả, là một trong những tư lương quan trọng trên con đường trung đạo, trong lộ trình tu tập thông đạt chánh kiến về duyên khởi hay mười hai chi duyên.
(Xem: 7776)
Ly Hệ Quả Sanskrit gọi là Visamyogaphala. Visam là thoát ly, tách rời, đoạn trừ, ly khai. Yoga là tương ưng, liên hệ. Nên Ly hệ, visamyoga: dứt khỏi sự trói buộc.
(Xem: 9490)
Tôi đã tìm thấy chìa khóa của hạnh phúc, và tôi đã bị thuyết phục rằng, tôi đã vượt qua mọi nhà sư khác về sự cao quý. Nhưng mỗi khi tôi rời thiền đường, những cánh cửa lại thì-thầm, 'Tất cả là không.'
(Xem: 8649)
Từ nơi Thánh Trí tối thượng ba-la-mật, đức Thế Tôn tuyên thuyết Kinh Năng Đoạn Kim Cương, nên Kinh này dạy rất nhiều vấn đề cốt lõi của giáo Pháp.
(Xem: 10623)
Như lý tác ý (Yoniso manasikàra) hay còn gọi là như lý khởi tư duy là một thuật ngữ Phật học dùng để nói về cách nhìn sự vật hay hiện tượng một cách đúng đắn theo quan niệm của đạo Phật.
(Xem: 15030)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Śīla: học xứ, học giới,... nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể.
(Xem: 12713)
Nếu chúng ta thật sự quan tâm về tương lai chính chúng tahạnh phúc an lạc của chính đời sống của mình, chúng ta nên phát triển một thái độ tinh thần trong điều mà thực hành từ bi đóng một vai trò trung tâm.
(Xem: 8054)
Những giới khinh của Bồ tát giới là để tránh khỏi 46 hành vi lỗi lầm (nyes-byas). Những hành vi lỗi lầm này được phân thành bảy nhóm gây thiệt hại...
(Xem: 16612)
Chúng ta cũng có thể sử dụng cách dịch phổ thông hiện này là: Như Thị Ngã Văn 如是我聞: Tôi nghe như vậy, tôi nghe như thế v.v...
(Xem: 6200)
“Phật y trên năm hạng chủng tánhthành lập năm thừa: Chủng tánh Thanh văn thừa; Bích-chi-phật thừa; Như lai thừa; Bất định thừa; và vô tánh thừa.
(Xem: 9483)
46 đại nguyện của Đức Phật A-di-đà là một bản đồ tu tập lý tưởng cho những ai đã phát Bồ-đề Tâm song song với bản nguyện muốn kiến lập tịnh độ ngay trong thế giới Ta-bà...
(Xem: 6966)
Bốn pháp căn bản thành tựu thần lực, bốn cơ sở để có sức mạnh tinh thần hay sức mạnh tâm linh....
(Xem: 7651)
Quán Thế Âm, ngữ nguyên Sanskrit là Avalokiteśvaras, āvalokiteśvaro, avalokiteshvara là danh từ số ít Phạn ngữ, Hán dịch là Quán Thế Âm hay Quán Tự Tại.
(Xem: 6973)
Thành Duy Thức Luận trình bày hai quả chuyển y là Đại Niết-bàn và Đại Bồ Đề; Do đoạn trừ hết thảy các chướng mà thành tựu hai quả vị thù thắng này.
(Xem: 7641)
Tỳ-bà-thi Phật là danh hiệu phiên âm từ Pāli ngữ Vipassī, Sanskrit: Vipaśyin; có nghĩa là cái nhìn đặc biệt, cái nhìn sâu sắc và thanh tịnh; cách nhìn này xuyên suốt thấu đáo mọi vấn đề.
(Xem: 22318)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 8842)
Trong lịch sử tôn giáo của nhân loại rất hiếm có bậc lãnh đạo tinh thần - qua lời nói, hành động và khả năng thiện xảo - làm tăng động lực và tạo một chuyển hướng mới cho tôn giáo, Đức Phật là một khuôn mặt hiếm hoi trong các bậc này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant