Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Mười Hai Khoen Nhân Duyên

10 Tháng Mười Một 201507:58(Xem: 8617)
Mười Hai Khoen Nhân Duyên

Mười Hai Khoen Nhân Duyên
(The Twelve Links Of Dependent Origination)
 
Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến


Mười Hai Khoen Nhân Duyên

Mười Hai Khoen Nhân Duyên


Không có hiện tượng nào đang tồn tại mà không phải là kết quả của nhân duyên (nhân: nguyên nhân, và duyên: điều kiện). Tất cả mọi hiện tượng phát sinh phụ thuộc vào một số lý do, mà chúng ta gọi là điều kiện. Nguyên tắc căn bản của nhân duyên đơn giản là chính nó. Đức Phật mô tả nguyên tắc nầy, bằng câu nói như sau:

Vì cái nầy có, nên cái kia có.

Vì cái nầy sinh, nên cái kia sinh.

Vì cái nầy không, nên cái kia không.

Vì cái nầy diệt, nên cái kia diệt.

Nhân duyên căn bản, và chủ yếu là sự giảng dạy để hiểu biết sự đau khổ, và sự diệt khổ. Mười hai khoen nhân duyên cung cấp một sự diễn tả chi tiết về những nguyên nhân của sự khổ đau, và sự tái sinh. Mười hai khoen nhân duyên gồm có:

1) SỰ THIẾU HIỂU BIẾT (VÔ MINH) là điều kiện cho những hành động của tâm thức.

2) NHỮNG HÀNH ĐỘNG CỦA TÂM THỨC (HÀNH) là những điều kiện cho cái-biết.

3) CÁI-BIẾT (THỨC) là điều kiện cho tâm và thân.

4) TÂM VÀ THÂN (DANH SẮC) là điều kiện cho sáu giác quan.

5) SÁU GIÁC QUAN (SÁU CĂN) là điều kiện cho sự xúc chạm.

6) SỰ XÚC CHẠM (XÚC) là điều kiện cho cảm giác.

7) CẢM GIÁC (THỌ) là điều kiện cho sự ham muốn.

8) SỰ HAM MUỐN (ÁI) là điều kiện cho sự dính mắc.

9) SỰ DÍNH MẮC (THỦ) là điều kiện cho sự trở thành

10) SỰ TRỞ THÀNH (HỮU) là điều kiện cho sự sinh ra.

11) SỰ SINH RA (SINH) là điều kiện cho sự già và sự chết.

12) SỰ GIÀ VÀ SỰ CHẾT (LÃO-TỬ) là điều kiện cho sự thiếu hiểu biết.

Tất cả mười hai khoen nhân duyên liên kếtphụ thuộc lẫn nhau; do đó, không có điểm bắt đầu, hoặc không có điểm kết thúc. Mười hai khoen nầy là những hiện tượng luân hồi. Mỗi khoen là nguyên nhân của khoen bên nầy, và cũng là kết quả của khoen bên kia.

1) SỰ THIẾU HIỂU BIẾT (VÔ MINH): có nghĩa là thiếu sự hiểu biết đúng đắn. Chúng ta là người thiếu hiểu biết, nếu chúng ta tự xem mình là thật, là độc lập, và là một thực thể vĩnh viễn, hoặc là "Cái Tôi". Chúng ta đã không hiểu chúng ta là ai, chúng ta là những cái gì, hoặc vũ trụ là gì. Sự hiểu biết đúng đắn cho phép chúng ta sống theo cách mà mọi vật chính-là-như-thế. Sau đó, chúng ta có thể sống hài hòa với mọi loài. Sự thiếu hiểu biếtđiều kiện cho những hành động của tâm thức.

2) NHỮNG HÀNH ĐỘNG CỦA TÂM THỨC (HÀNH): những hành động của tâm thức phát sinh từ sự thiếu hiểu biết. Những dơ bẩn trong tâm (là kết quả của các hành động trong quá khứ, gây ra bởi thân thể, lời nói, và ý nghĩ) làm phát sinh các thói quen trong kiếp hiện tại, mà phù hợp với các mô hình thành lập trong kiếp quá khứ (nghiệp). Đây là lý do tại sao có một số người được sinh ra trong các điều kiện may mắn hơn những người khác. Những hành động của tâm thứcđiều kiện cho cái-biết.

3) CÁI-BIẾT (THỨC): cái-biết phát sinh từ những hành động của tâm thức. Theo nghĩa đen, cái-biết có nghĩa là sự nhận thức, sự thấu hiểu, sự nhìn nhận, sự phân biệt, vân vân .... Thông thường, cái-biết được giải thích là tâm của chúng ta. Cái-biết là điều kiện cho tâm và thân.

4) TÂM VÀ THÂN (DANH SẮC): tâm và thân phát sinh từ cái-biết. Tâm và thân là sự kết hợp của tinh thần và cơ thể (ý nghĩthân thể). Tâm và thân ám chỉ Năm Uẩn (nghĩa là hình tướng, cảm giác, sự nhận biết, những hành động của tâm thức, và cái-biết hoặc là 'sắc thọ tưởng hành thức'). Tâm và thân là những điều kiện cho sáu giác quan.

5) SÁU GIÁC QUAN (SÁU CĂN): sáu giác quan phát sinh từ tâm và thân. Sáu giác quan là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Qua sáu giác quan nầy, chúng ta có thể tiếp xúc với các đối tượng của thế giới bên ngoài. Sáu giác quan là những điều kiện cho sự xúc chạm.

6) SỰ XÚC CHẠM (XÚC): sự xúc chạm phát sinh từ sáu giác quan. Đây là sự hiểu biết tạo ra bởi sáu giác quan, bởi các đối tượng về cảm giác, và bởi cái-biết. Do đó, sự xúc chạm là điều kiện cho cảm giác. Nếu không có sự xúc chạm, chúng ta không có cảm giác. Sự đau khổ tùy thuộc vào sự xúc chạm, bởi vì sự xúc chạm đưa đến cảm giác.

7) CẢM GIÁC (THỌ): cảm giác phát sinh từ sự xúc chạm. Đây là những giai điệu về tình cảm. Chúng ta có ba loại cảm giác, đó là: cảm giác dễ chịu, cảm giác không dễ chịu, và cảm giác trung tính. Cảm giácđiều kiện cho sự ham muốn.

8) SỰ HAM MUỐN (ÁI): sự ham muốn phát sinh từ cảm giác. Sự ham muốn là sự khao khát nhục dục, sự theo đuổi niềm vui thú, và được nhận ra bằng sự dính mắc, bởi vì chúng ta chỉ muốn-được, mà chúng ta không-muốn-mất. Sự ham muốnđiều kiện cho sự dính mắc.

9) SỰ DÍNH MẮC (THỦ): sự dính mắc phát sinh từ sự ham muốn. Sự dính mắc là sự bám vào các đối tượng. Chúng ta có mong muốn giữ một cái gì đó, để sở-hữu cái-đó vĩnh viễn. Tuy nhiên, tất cả các hiện tượng đều vô thường. Vì vậy, chúng ta bị trói buộc vào sự đau khổ, vì sự thiếu hiểu biết của chúng ta. Sự dính mắc là điều kiện của sự trở thành.

10) SỰ TRỞ THÀNH (HỮU): sự trở thành phát sinh từ sự dính mắc, sự nắm giữ. Sự trở thành có nghĩa là chuẩn bị cho sự sinh đẻ, là chuẩn bị cho sự tạo ra, và là chuẩn bị cho sự tồn tại. Bởi vì sự dính mắc với các hiện tượng, chúng ta giả sử rằng có một cái-tôi. Tuy nhiên, cái-tôi nầy có điều kiện, nên là vô thường. Sự trở thànhđiều kiện cho sự sinh ra.

11) SỰ SINH RA (SINH): sự sinh ra phát sinh từ sự trở thành. Sự sinh ra ám chỉ hoặc là sự sinh ra về vật lý, hoặc là sự phát sinh của cái-biết luôn thay-đổi-mới từ giây phút nầy sang giây phút kế tiếp. Sự sinh ra là điều kiện cho sự già và sự chết. 

12) SỰ GIÀ VÀ SỰ CHẾT (LÃO-TỬ): sự già và sự chết phát sinh từ sự sinh ra. Cái chết là một trong những đau khổ lớn nhất, và cũng là nỗi sợ hãi của những người mà không được huấn luyện, mà không biết tuân theo luật-tự-nhiên của cuộc đời. Sự già và sự chết là điều kiện cho sự thiếu hiểu biết.

The Twelve Links Of Dependent Origination

There is no existing phenomenon that is not the effect of dependent origination. All phenomena arise dependent upon a number of causal factors, called conditions. The basic principle of dependent origination is simplicity itself. The Buddha described it by saying:

When there is this, that is.

With the arising of this, that arises.

When this is not, neither is that.

With the cessation of this, that ceases.

Dependent origination is essentially and primarily a teaching to understand suffering and the cessation of suffering. The twelve links of dependent origination provide a detailed description of the causes of suffering and rebirth. They are:

1. IGNORANCE is the condition for mental formations.

2. MENTAL FORMATIONS are the conditions for consciousness.

3. CONSCIOUSNESS is the condition for name and form.

4. NAME AND FORM are the conditions for the six senses.

5. THE SIX SENSES are the conditions for contact.

6. CONTACT is the condition for feeling.

7. FEELING (SENSATION) is the condition for craving.

8. CRAVING is the condition for clinging.

9. CLINGING is the condition for becoming.

10. BECOMING is the condition for birth.

11. BIRTH is the condition for aging and death.

12. AGING AND DEATH are the conditions for ignorance.

All twelve links are interrelated and dependent on each other; thus, there is no beginning or ending point. They are cyclic phenomena. Each link is a cause on the one hand, and an effect on the other.

1. IGNORANCE: Ignorance means the lack of right understanding. One is ignorant and takes oneself as real, independent, and a permanent entity or “I.” We do not understand who and what we are or what the universe is. Right understanding allows us to live in accordance with the way things are. Then one can live harmoniously. Ignorance is the condition for mental formations.

2. MENTAL FORMATIONS: Mental formations arise from ignorance. Mental impurities (the result of past actions of body, speech, and mind) give rise to habitual actions in the present life, which conform to the patterns established in the past (karma). This is why some people are born into more fortunate conditions than others. Mental formations are the conditions for consciousness.

3. CONSCIOUSNESS: Consciousness arises from mental formations. Literally, it means perceiving, comprehending, recognizing, differentiating, etc. Usually it is interpreted to be our mind. Consciousness is the condition for name and form.

4. NAME AND FORM: Name and form arise from consciousness. They are the combination of mentality and corporeality (mind and body). Name and form refer to the Five Aggregates (i.e., form, feeling, perception, mental formations, and consciousness). Name and form are the conditions for the six senses.

5. THE SIX SENSES: The six senses arise from name and form. They are eye, ear, nose, tongue, body, and mind. Through these six organs contact with external objects is possible. The six senses are the conditions for contact.

6. CONTACT: Contact arises from the six senses. It is the experience created by the six senses, sense objects, and consciousness. Therefore contact is the condition for feeling. Without contact, there is no feeling. Suffering is dependent upon contact because it gives rise to feeling.

7. FEELING: Feeling arises from contact. It is the affective tone. There are three kinds of feelings, namely: pleasant, unpleasant, and neutral. Feeling is the condition for craving.

8. CRAVING: Craving arises from  feeling. Craving is sensuous desire, the pursuit of pleasure, and the identification with attachment to gain and the fear of loss. Craving is the condition for clinging.

9. CLINGING: Clinging arises from craving. Clinging is an attachment to objects. We have the desire to keep something, to possess it permanently. However, all phenomena are impermanent. Therefore we are bound to suffer because of our ignorance. Clinging is the condition for becoming.

10. BECOMING: Becoming arises from clinging/grasping. Becoming means to give birth, create, and exist. Because of attachment to phenomena we assume that there is a self. However, this ‘self’ is conditioned and impermanent. Becoming is the condition for birth.

11. BIRTH: Birth arises from becoming. Birth refers to either physical birth or the moment-to-moment arising of renewed consciousness. Birth is the condition for old age and death.

12. OLD AGE AND DEATH: Old age and death arise out of birth. Death is one of the greatest afflictions and fears of the untrained, undisciplined worldling. Aging and death are the conditions for i

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14639)
Chi tiết nổi bật nhất của pho tượng là đôi chân không tréo vào nhau trong tư thế ngồi thiền mà lại có vẻ như buông lơi: một chân gập lại và một chân buông thõng.
(Xem: 14620)
Tất cả chúng ta đều có tiềm năng của sự thiện hảo. Thế nên, hãy nhìn lại chính mình để thấy tất cả những tiềm năng tích cực ở trong ta.
(Xem: 14055)
Nếu nền tảng đổi thay thì dĩ nhiên cái danh xưng đặt để cho nó cũng phải thay đổi. Vì vậy, không có một linh hồn thường hằng, bất biến...
(Xem: 14940)
Nghiệp là một quy luật tự nhiên và khách quan, vận hành hoàn toàn phù hợp với những hành động của chúng ta. Nghiệp tự thân nó là một quy luật nên không cần phải có người làm luật.
(Xem: 16555)
Buông bỏ có nghĩa là “Nếu tôi có được những thức ăn mà tôi thích thì rất tốt. Nếu không có nó thì cũng không sao...
(Xem: 29873)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 16214)
Chỉ có bậc giác ngộ mới thấy biết chân thật mọi lẽ ở đời; chỉ có đức Phật mới thấy chúng sinh nào sinh đến đâu, trở lại làm người, sinh lên cõi Trời...
(Xem: 15530)
Tinh thần giác ngộgiải thoát của đức Phật không những chỉ có trong kinh điển Phật giáo Tiểu thừa mà có cả trong kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 14882)
Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta...
(Xem: 14873)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
(Xem: 17883)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
(Xem: 15572)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo - Jack Petranker - Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 38665)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 26724)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
(Xem: 39653)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 50750)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 38735)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 35041)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 18303)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
(Xem: 16467)
Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 42396)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 39239)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 35611)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 17456)
Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thườngphi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm...
(Xem: 46513)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 17150)
Chư Phật Như Lai đã lìa mọi cái thấy, mọi tưởng, nên tâm không chỗ nào không hiện diện. Tâm chân thật ấy là tánh của tất cả các pháp.
(Xem: 28493)
Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản.
(Xem: 18995)
Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
(Xem: 17588)
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy.
(Xem: 17111)
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala, Ngài đã nhập thất...
(Xem: 17545)
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc...
(Xem: 16532)
Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thầnvật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta.
(Xem: 16880)
Tình yêu thươngnăng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
(Xem: 30837)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 16937)
Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành...
(Xem: 18501)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 18454)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 17379)
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na... Đỗ Hồng Ngọc
(Xem: 18167)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc...
(Xem: 17072)
Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi...
(Xem: 23491)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
(Xem: 16989)
Phật giáo cho rằng tất cả những mâu thuẫn, nội kết, xung đột trong phạm vi cá nhân hay xã hội đều được phát sinh từ ba độc tố trong tâm thức, đó là tham, sân, và si.
(Xem: 17461)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
(Xem: 17668)
Vô ngãhình thức đối nghịch với cái ngã. Cái ngã thì sanh lão bệnh tử, biến dị, khổ ưu, vô thường. Trái lại vô ngã được quan niệm như là bất sanh bất diệt...
(Xem: 17056)
Con đường tìm đạo, tự tu tự chứng đến khi đắc đạo của đức Phậthành trình lắm chông gai với lòng kiên trì quyết thắng là một nỗ lực phi thường.
(Xem: 15738)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
(Xem: 18032)
Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(Xem: 17410)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 17200)
Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn sinh vô lượng phúc đức...
(Xem: 29518)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27722)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 18165)
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào.
(Xem: 16109)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hóa dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật...
(Xem: 15363)
Cố vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn...
(Xem: 23032)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14835)
Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm...
(Xem: 55110)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 14203)
Phật giáo là “chân lý thực tại”, mà cốt lõi chính là đạo đứcgiới luật làm nền tảng. Khi Phật còn tại thế, ngài chế giới là để ngăn ngừa sự bại hoại của tăng đoàn.
(Xem: 13244)
Chân Như vừa huân tậphai mặt ‘bên trong’ và ‘bên ngoài’. ‘Bên trong’ là huân tập trong tâm hành giả. ‘Bên ngoài’ là huân tập từ bên ngoài, tức là từ chư Phật, Bồ-tát...
(Xem: 14176)
Rõ ràng, trong các mối quan hệ của con người thiết lập, thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng trong đời sống thăng tiến tri thứcchuyển hóa tâm linh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant