Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Mười Hai Khoen Nhân Duyên

10 Tháng Mười Một 201507:58(Xem: 8611)
Mười Hai Khoen Nhân Duyên

Mười Hai Khoen Nhân Duyên
(The Twelve Links Of Dependent Origination)
 
Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến


Mười Hai Khoen Nhân Duyên

Mười Hai Khoen Nhân Duyên


Không có hiện tượng nào đang tồn tại mà không phải là kết quả của nhân duyên (nhân: nguyên nhân, và duyên: điều kiện). Tất cả mọi hiện tượng phát sinh phụ thuộc vào một số lý do, mà chúng ta gọi là điều kiện. Nguyên tắc căn bản của nhân duyên đơn giản là chính nó. Đức Phật mô tả nguyên tắc nầy, bằng câu nói như sau:

Vì cái nầy có, nên cái kia có.

Vì cái nầy sinh, nên cái kia sinh.

Vì cái nầy không, nên cái kia không.

Vì cái nầy diệt, nên cái kia diệt.

Nhân duyên căn bản, và chủ yếu là sự giảng dạy để hiểu biết sự đau khổ, và sự diệt khổ. Mười hai khoen nhân duyên cung cấp một sự diễn tả chi tiết về những nguyên nhân của sự khổ đau, và sự tái sinh. Mười hai khoen nhân duyên gồm có:

1) SỰ THIẾU HIỂU BIẾT (VÔ MINH) là điều kiện cho những hành động của tâm thức.

2) NHỮNG HÀNH ĐỘNG CỦA TÂM THỨC (HÀNH) là những điều kiện cho cái-biết.

3) CÁI-BIẾT (THỨC) là điều kiện cho tâm và thân.

4) TÂM VÀ THÂN (DANH SẮC) là điều kiện cho sáu giác quan.

5) SÁU GIÁC QUAN (SÁU CĂN) là điều kiện cho sự xúc chạm.

6) SỰ XÚC CHẠM (XÚC) là điều kiện cho cảm giác.

7) CẢM GIÁC (THỌ) là điều kiện cho sự ham muốn.

8) SỰ HAM MUỐN (ÁI) là điều kiện cho sự dính mắc.

9) SỰ DÍNH MẮC (THỦ) là điều kiện cho sự trở thành

10) SỰ TRỞ THÀNH (HỮU) là điều kiện cho sự sinh ra.

11) SỰ SINH RA (SINH) là điều kiện cho sự già và sự chết.

12) SỰ GIÀ VÀ SỰ CHẾT (LÃO-TỬ) là điều kiện cho sự thiếu hiểu biết.

Tất cả mười hai khoen nhân duyên liên kếtphụ thuộc lẫn nhau; do đó, không có điểm bắt đầu, hoặc không có điểm kết thúc. Mười hai khoen nầy là những hiện tượng luân hồi. Mỗi khoen là nguyên nhân của khoen bên nầy, và cũng là kết quả của khoen bên kia.

1) SỰ THIẾU HIỂU BIẾT (VÔ MINH): có nghĩa là thiếu sự hiểu biết đúng đắn. Chúng ta là người thiếu hiểu biết, nếu chúng ta tự xem mình là thật, là độc lập, và là một thực thể vĩnh viễn, hoặc là "Cái Tôi". Chúng ta đã không hiểu chúng ta là ai, chúng ta là những cái gì, hoặc vũ trụ là gì. Sự hiểu biết đúng đắn cho phép chúng ta sống theo cách mà mọi vật chính-là-như-thế. Sau đó, chúng ta có thể sống hài hòa với mọi loài. Sự thiếu hiểu biếtđiều kiện cho những hành động của tâm thức.

2) NHỮNG HÀNH ĐỘNG CỦA TÂM THỨC (HÀNH): những hành động của tâm thức phát sinh từ sự thiếu hiểu biết. Những dơ bẩn trong tâm (là kết quả của các hành động trong quá khứ, gây ra bởi thân thể, lời nói, và ý nghĩ) làm phát sinh các thói quen trong kiếp hiện tại, mà phù hợp với các mô hình thành lập trong kiếp quá khứ (nghiệp). Đây là lý do tại sao có một số người được sinh ra trong các điều kiện may mắn hơn những người khác. Những hành động của tâm thứcđiều kiện cho cái-biết.

3) CÁI-BIẾT (THỨC): cái-biết phát sinh từ những hành động của tâm thức. Theo nghĩa đen, cái-biết có nghĩa là sự nhận thức, sự thấu hiểu, sự nhìn nhận, sự phân biệt, vân vân .... Thông thường, cái-biết được giải thích là tâm của chúng ta. Cái-biết là điều kiện cho tâm và thân.

4) TÂM VÀ THÂN (DANH SẮC): tâm và thân phát sinh từ cái-biết. Tâm và thân là sự kết hợp của tinh thần và cơ thể (ý nghĩthân thể). Tâm và thân ám chỉ Năm Uẩn (nghĩa là hình tướng, cảm giác, sự nhận biết, những hành động của tâm thức, và cái-biết hoặc là 'sắc thọ tưởng hành thức'). Tâm và thân là những điều kiện cho sáu giác quan.

5) SÁU GIÁC QUAN (SÁU CĂN): sáu giác quan phát sinh từ tâm và thân. Sáu giác quan là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Qua sáu giác quan nầy, chúng ta có thể tiếp xúc với các đối tượng của thế giới bên ngoài. Sáu giác quan là những điều kiện cho sự xúc chạm.

6) SỰ XÚC CHẠM (XÚC): sự xúc chạm phát sinh từ sáu giác quan. Đây là sự hiểu biết tạo ra bởi sáu giác quan, bởi các đối tượng về cảm giác, và bởi cái-biết. Do đó, sự xúc chạm là điều kiện cho cảm giác. Nếu không có sự xúc chạm, chúng ta không có cảm giác. Sự đau khổ tùy thuộc vào sự xúc chạm, bởi vì sự xúc chạm đưa đến cảm giác.

7) CẢM GIÁC (THỌ): cảm giác phát sinh từ sự xúc chạm. Đây là những giai điệu về tình cảm. Chúng ta có ba loại cảm giác, đó là: cảm giác dễ chịu, cảm giác không dễ chịu, và cảm giác trung tính. Cảm giácđiều kiện cho sự ham muốn.

8) SỰ HAM MUỐN (ÁI): sự ham muốn phát sinh từ cảm giác. Sự ham muốn là sự khao khát nhục dục, sự theo đuổi niềm vui thú, và được nhận ra bằng sự dính mắc, bởi vì chúng ta chỉ muốn-được, mà chúng ta không-muốn-mất. Sự ham muốnđiều kiện cho sự dính mắc.

9) SỰ DÍNH MẮC (THỦ): sự dính mắc phát sinh từ sự ham muốn. Sự dính mắc là sự bám vào các đối tượng. Chúng ta có mong muốn giữ một cái gì đó, để sở-hữu cái-đó vĩnh viễn. Tuy nhiên, tất cả các hiện tượng đều vô thường. Vì vậy, chúng ta bị trói buộc vào sự đau khổ, vì sự thiếu hiểu biết của chúng ta. Sự dính mắc là điều kiện của sự trở thành.

10) SỰ TRỞ THÀNH (HỮU): sự trở thành phát sinh từ sự dính mắc, sự nắm giữ. Sự trở thành có nghĩa là chuẩn bị cho sự sinh đẻ, là chuẩn bị cho sự tạo ra, và là chuẩn bị cho sự tồn tại. Bởi vì sự dính mắc với các hiện tượng, chúng ta giả sử rằng có một cái-tôi. Tuy nhiên, cái-tôi nầy có điều kiện, nên là vô thường. Sự trở thànhđiều kiện cho sự sinh ra.

11) SỰ SINH RA (SINH): sự sinh ra phát sinh từ sự trở thành. Sự sinh ra ám chỉ hoặc là sự sinh ra về vật lý, hoặc là sự phát sinh của cái-biết luôn thay-đổi-mới từ giây phút nầy sang giây phút kế tiếp. Sự sinh ra là điều kiện cho sự già và sự chết. 

12) SỰ GIÀ VÀ SỰ CHẾT (LÃO-TỬ): sự già và sự chết phát sinh từ sự sinh ra. Cái chết là một trong những đau khổ lớn nhất, và cũng là nỗi sợ hãi của những người mà không được huấn luyện, mà không biết tuân theo luật-tự-nhiên của cuộc đời. Sự già và sự chết là điều kiện cho sự thiếu hiểu biết.

The Twelve Links Of Dependent Origination

There is no existing phenomenon that is not the effect of dependent origination. All phenomena arise dependent upon a number of causal factors, called conditions. The basic principle of dependent origination is simplicity itself. The Buddha described it by saying:

When there is this, that is.

With the arising of this, that arises.

When this is not, neither is that.

With the cessation of this, that ceases.

Dependent origination is essentially and primarily a teaching to understand suffering and the cessation of suffering. The twelve links of dependent origination provide a detailed description of the causes of suffering and rebirth. They are:

1. IGNORANCE is the condition for mental formations.

2. MENTAL FORMATIONS are the conditions for consciousness.

3. CONSCIOUSNESS is the condition for name and form.

4. NAME AND FORM are the conditions for the six senses.

5. THE SIX SENSES are the conditions for contact.

6. CONTACT is the condition for feeling.

7. FEELING (SENSATION) is the condition for craving.

8. CRAVING is the condition for clinging.

9. CLINGING is the condition for becoming.

10. BECOMING is the condition for birth.

11. BIRTH is the condition for aging and death.

12. AGING AND DEATH are the conditions for ignorance.

All twelve links are interrelated and dependent on each other; thus, there is no beginning or ending point. They are cyclic phenomena. Each link is a cause on the one hand, and an effect on the other.

1. IGNORANCE: Ignorance means the lack of right understanding. One is ignorant and takes oneself as real, independent, and a permanent entity or “I.” We do not understand who and what we are or what the universe is. Right understanding allows us to live in accordance with the way things are. Then one can live harmoniously. Ignorance is the condition for mental formations.

2. MENTAL FORMATIONS: Mental formations arise from ignorance. Mental impurities (the result of past actions of body, speech, and mind) give rise to habitual actions in the present life, which conform to the patterns established in the past (karma). This is why some people are born into more fortunate conditions than others. Mental formations are the conditions for consciousness.

3. CONSCIOUSNESS: Consciousness arises from mental formations. Literally, it means perceiving, comprehending, recognizing, differentiating, etc. Usually it is interpreted to be our mind. Consciousness is the condition for name and form.

4. NAME AND FORM: Name and form arise from consciousness. They are the combination of mentality and corporeality (mind and body). Name and form refer to the Five Aggregates (i.e., form, feeling, perception, mental formations, and consciousness). Name and form are the conditions for the six senses.

5. THE SIX SENSES: The six senses arise from name and form. They are eye, ear, nose, tongue, body, and mind. Through these six organs contact with external objects is possible. The six senses are the conditions for contact.

6. CONTACT: Contact arises from the six senses. It is the experience created by the six senses, sense objects, and consciousness. Therefore contact is the condition for feeling. Without contact, there is no feeling. Suffering is dependent upon contact because it gives rise to feeling.

7. FEELING: Feeling arises from contact. It is the affective tone. There are three kinds of feelings, namely: pleasant, unpleasant, and neutral. Feeling is the condition for craving.

8. CRAVING: Craving arises from  feeling. Craving is sensuous desire, the pursuit of pleasure, and the identification with attachment to gain and the fear of loss. Craving is the condition for clinging.

9. CLINGING: Clinging arises from craving. Clinging is an attachment to objects. We have the desire to keep something, to possess it permanently. However, all phenomena are impermanent. Therefore we are bound to suffer because of our ignorance. Clinging is the condition for becoming.

10. BECOMING: Becoming arises from clinging/grasping. Becoming means to give birth, create, and exist. Because of attachment to phenomena we assume that there is a self. However, this ‘self’ is conditioned and impermanent. Becoming is the condition for birth.

11. BIRTH: Birth arises from becoming. Birth refers to either physical birth or the moment-to-moment arising of renewed consciousness. Birth is the condition for old age and death.

12. OLD AGE AND DEATH: Old age and death arise out of birth. Death is one of the greatest afflictions and fears of the untrained, undisciplined worldling. Aging and death are the conditions for i

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 30383)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 30655)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 21011)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20196)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19426)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24381)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30650)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15681)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
(Xem: 27781)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 19761)
Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt...
(Xem: 15565)
Qua tinh thần kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá...
(Xem: 23243)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23559)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 17523)
Năm uẩn của chúng ta -- thân thể, cảm giác, nhận thức, thúc đẩy, thức: chúng là đất sét mà chúng ta nhào nặn và tạo hình qua sự thực tập thành một vị bồ tát...
(Xem: 15690)
Giải thoát sanh tử không phải là hiện đời không chết, không phải là sống mãi ở vị lai, mà là những khổ sanh tửvị lai không còn sanh khởi nữa...
(Xem: 21869)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 37984)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 22155)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 23243)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 21345)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 28409)
Mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để đoạn trừ, hay tối thiểu làm giảm bớt những khổ đau của con người, đưa con người đến một đời sống an lạchạnh phúc...
(Xem: 32532)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 25169)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34680)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 22942)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27707)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 31298)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13594)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
(Xem: 25170)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27820)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 22084)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 20725)
Trước khi vào nội dung đề tài lần này thì có một nghi vấn đã được đặt ra như sau: "Mục tiêu của đạo Phật vốn là để giải thoát hành giảchúng sinh khỏi đau khổ luân hồi...
(Xem: 22209)
Đạo Phật đã hình thành và phát triển hơn 2500 năm, cho đến nay, tôn giáo này đã đang được sự chú ý nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học.
(Xem: 27117)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 24142)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 21893)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 14706)
Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại...
(Xem: 23147)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 24020)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 21097)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 14198)
Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia.
(Xem: 19932)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 22498)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 14068)
Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra...
(Xem: 28034)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 22810)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 28199)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 10980)
Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý.
(Xem: 28501)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 31564)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 26163)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 14945)
"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm.
(Xem: 28034)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
(Xem: 7427)
Phật GiáoTâm Lý Học Hiện Đại do ban biên tập của Bồ Đề Học Xã biên soạn, là một tài liệu giá trị cho những ai muốn tìm hiểu sự khác và giống giữa Phật PhápTâm lý Học Trị Liệu Tây phương.
(Xem: 25351)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 20698)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 21119)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
(Xem: 12229)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
(Xem: 11904)
Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12797)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant