Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vài Suy Nghĩ Về Ý Nghĩa Đức Phật Chế Bát Kỉnh Pháp

12 Tháng Giêng 201610:46(Xem: 9010)
Vài Suy Nghĩ Về Ý Nghĩa Đức Phật Chế Bát Kỉnh Pháp

VÀI SUY NGHĨ VỀ Ý NGHĨA
ĐỨC PHẬT CHẾ BÁT KỈNH PHÁP

HT Thích Quang Đạo

Vài Suy Nghĩ Về Ý Nghĩa Đức Phật Chế Bát Kỉnh Pháp

 

Hiện nay, giới nghiên cứu Phật học đang lưu tâm đến vấn đề: “Bát kỉnh pháp do Đức Phật chế ra hay do người sau thêm vào trong Tam tạng giáo điển?”. Để hiểu rõ vấn đề này, chúng ta sẽ nghiên cứu từng kỉnh pháp và liên hệ với bối cảnh mà Bát kỉnh pháp ra đời.

1. Tỳ-kheo-ni dù 100 tuổi hạ cũng phải đảnh lễ một Tỳ-kheo vừa mới thọ giới một ngày.

Kỉnh pháp đầu tiên này, mới nhìn qua ta thấy Đức Phật bất bình đẳng đối với Ni giới, nhất là quý Ni trưởng, Ni sư. Nhưng trên thực tế, nếu bất cứ Tỳ-kheo-ni nào chí thành thực hiện với lòng tịnh tín và tâm hoan hỷ sẽ có những lợi ích như sau:

Về mặt tự lợi: Sẽ giúp các Tỳ-kheo-ni tiêu trừ tâm chấp ngã và thăng hoa đời sống tâm linh, hướng đến Niết-bàn an lạc (vì vô ngã là Niết-bàn).

Về mặt lợi tha: Việc tuân giữ kỉnh pháp này của chư Ni sẽ là điều cảnh tỉnh các Tỳ-kheo, đặc biệt là tân Tỳ-kheo, luôn phải biết quán chiếu tự thân, tu tập để làm sao xứng đáng với sự cung kính của chư Ni.

Các Tỳ-kheo-ni trưởng thượng, nếu tuân thủ một cách nghiêm ngặt kỉnh pháp này thì đối với chư Ni, nhất là những vị Ni trẻ, sẽ là một tấm gương sáng để các Ni noi theo, áp dụngtu tập đúng đường lối Đức Phật chỉ dạy thì chắc chắn sẽ hoạch thu được nhiều lợi ích.

Về mặt Tăng đoàn thì kỉnh pháp này được xem là bức tường thành kiên cố, góp phần ngăn cản những bất thiện pháp có thể xảy ra giữa hai bộ Tăng Ni, nhất là những Tăng Ni trẻ tuổi.

2. Tỳ-kheo-ni không được an cưmột trú xứ không có chư Tăng.

Kỉnh pháp này được chế định là vì lợi ích trực tiếp cho Tỳ-kheo-ni. Dù trong thời Đức Phật hay thời hiện tại, sự sinh hoạttu tập của Ni đoàn nếu được Tăng đoàn bảo hộ đúng như pháp sẽ góp phần an ổnlợi ích cho chư Ni trên lộ trình hướng đến giải thoát. Có ý kiến cho rằng, thời nay chư Ni đã có chùa, am, tịnh xá, tịnh thất…, đã có cửa đóng then gài, hoặc đã thuê được bảo vệ canh gác… thì không cần đến sự bảo hộ chư Tăng. Ý kiến này mới nghe qua có vẻ phù hợp, nhưng để tâm hơn vào nội dung tu tập của Tăng đoàn thì có điểm không hợp lý. Bởi vì sự bảo hộ ở đây không phải chỉ bảo hộ thân mạng, tài sản vật chất mà còn cả sự tu hành của chư Ni. Chẳng hạn như trong đại chúng Ni có xảy ra một sự cố bất như ý, làm mọi người phiền não; nội bộ Ni đôi khi bất lực trong việc xử lý thì phải nhờ đến sự can thiệp của Đại Tăng. Và chính nhờ tài đức của Đại Tăng sẽ góp phần ổn định cho sự sinh hoạt của Ni chúng. Vấn đề này từ xưa đến nay, thực tế đã xảy ra.

3. Mỗi nửa tháng đến ngày bố-tát, Tỳ-kheo-ni phải đến Đại Tăng cầu giáo giới.

Kỉnh pháp này được chế định cũng vì lợi ích thiết thực cho Tỳ-kheo-ni. Thời Đức Phật tại thế, Ngài giao trách nhiệm giáo giới chư Tỳ-kheo-ni cho những vị Trưởng lão Tỳ-kheo có uy tín. Thời nay những vị giáo thọ đi giáo giới chư Ni, hoặc do chư Ni thỉnh đích danh, hay do Đại Tăng đề cử thì phải đủ 10 điều kiện: Một là phải đủ 20 tuổi hạ, hai là giới luật phải vẹn toàn, ba là kiến thức phải rộng rãi, bốn là phải thông suốt hai bộ luật Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni, năm là quyết đoán rành mạch các vấn đề liên quan đến Giới luật, sáu là xuất thân từ một gia đình nề nếp, bảy là dung nghi đoan chánh, tám là thuyết pháp giỏi, chín là có khả năng thuyết pháp khiến mọi người hoan hỷ, mười là chưa từng phạm các trọng giới(Luật học tinh yếu, HT.Thích Phước Sơn biên soạn). Chư Ni được các vị giáo thọ hội đủ những điều kiện như trên giáo giới thì chắc chắn sẽ khai mở nhiều điều vướng mắc trong sinh hoạt cũng như tu tập. Chính vì mang lại nhiều lợi ích thiết thực như thế nên Đức Phật chế chư Ni phải đến Đại Tăng cầu giáo thọ trong ngày bố-tát.

4. Sau mùa an cư, chư Tỳ-kheo-ni phải đến cầu xin tự tứ với nhị bộ Tăng Ni.

Tự tứ có nghĩa là tùy hỷ thỉnh cầu, nghĩa là sau ba tháng an cư, đến giờ tự tứ, hành giả quỳ trước Đại Tăng để phát lồ (nói ra) những cái hay dở, tốt xấu… của mình, và cầu thỉnh Đại Tăng chỉ bảo cho mình ba việc: Thấy, nghe, nghi tội. Khi được Đại Tăng chỉ bảo xong, mình vui mừng đảnh lễ và xem Đại Tăng là bậc thiện tri thức đã trợ duyên cho mình tiến tu đạo giải thoát. Sau khi phát lồsám hối nghiệp chướng xong, tâm của hành giả tràn đầy hoan hỷan lạc. Đây là pháp hành giúp Tăng đoàn có sự tiến bộ tâm linh trong tinh thần thanh tịnhhòa hợp. Điều này vô cùng lợi ích cho chư Ni, giúp chư Ni đề đạt và thỏa mãn được những nguyện vọng chính đáng của mình giữa hai bộ Tăng Ni. Đây là truyền thống tốt đẹp, mang lại nhiều ích lợi cho chư Ni nên Đức Phật đã chế kỉnh pháp này.

5. Vị Ni phạm tội Tăng tàn phải đến trước nhị bộ Tăng Ni cầu xin hành pháp Ma-na-đọa trong nửa tháng.

Kỉnh pháp này giúp chư Ni phục hồi sự thanh tịnh cho một người phạm tội, giúp vị ấy trở lại sinh hoạt trong Tăng đoàn, dưới sự chứng minh của nhị bộ Tăng Ni. Lời dạy dỗ của vị giáo thọ đại diện Tăng đoàn có thể hướng dẫn và truyền trao kiến thức cho những Ni phạm tội nói riêng, đồng thời gián tiếp giáo giới chư Ni nói chung, cố gắng tu hành, đừng để vướng vào những tội như vậy. Bởi vì khi đã phạm tội thì tự thân đã đánh mất nhân cách, thương tổn phạm hạnh…, lại còn làm phiền đến chư tôn đức trưởng thượng trong nhị bộ Tăng Ni thì mình bị hao tổn phước đức rất lớn. Chính vì vậy, Đức Phật đã chế kỉnh pháp này.

6. Thức-xoa-ma-na tuân giữ sáu giới trong hai năm, muốn thọ Tỳ-kheo-ni phải đến trước nhị bộ Tăng Ni cầu xin.

Theo thiển ý, “Thức-xoa-ma-na tuân giữ sáu giới trong hai năm” được Đức Phật bổ sung vào kỉnh pháp này, khi Ni đoàn phát triển đông đảo. Bởi khi Đức Phật trao Bát kỉnh pháp cho Di mẫu Kiều Đàm thì chỉ có “muốn thọ Tỳ-kheo-ni phải đến trước nhị bộ Tăng Ni cầu xin”. Nhưng về sau, khi Ni đoàn được thành lậptrở thành tổ chức đầu tiên thể hiện sự bình đẳng cho giới nữ thì từ giai cấp vương tộc cho đến bình dân hạ tiện, giới nữ theo Đức Phật xuất gia đông đảo, lại xảy ra một trường hợp đặc biệt được ghi trong Luật tạng như sau: Có một phụ nữ xin gia nhập Ni đoàn mà không biết mình đang mang thai. Do trường hợp đặc biệt này, cô được phép vẫn giữ nếp sống của một Tỳ-kheo-ni để sanh con. Cô phải chịu nhiều trở ngại trong việc sinh hoạt của người vừa làm mẹ, vừa làm Nữ khất sĩ. Một hôm, vua Ba-tư-nặc đi ngang qua tịnh xá của cô ở, nghe đứa bé khóc la, vua ngạc nhiên dừng ngựa rồi đi vào tịnh xá nên biết được sự việc này, vua rất đau lòng và xin đứa bé mang về cung để nuôi dưỡng, đồng thời đem sự việc này trình bày với Đức Phật. Để tránh cho việc này không xảy ra trong Ni đoàn, Đức Phật đã thêm “Thức-xoa-ma-na tuân giữ sáu giới trong hai năm” bổ sung và hoàn thiện kỉnh pháp này. Chúng ta đã biết nguyên tắc chế giới của Đức Phật là “tùy phạm tùy chế”, việc bổ sung và hoàn thiện kỉnh pháp này cũng không ra ngoài điều lệ đó. Kỉnh pháp này sau đó trở thành điều kiện tiên quyết xác định người nữ đủ tiêu chuẩn xin thọ giới Tỳ-kheo-ni.

Còn việc “muốn thọ Tỳ-kheo-ni phải đến nhị bộ Tăng Ni cầu xin” cũng là vì lợi ích của Tăng Ni nhị bộ nên Đức Phật mới chế định. Tăng đoàn được thành lập trước Ni đoàn 8 năm, và trong đoàn thể ấy có rất nhiều vị đệ tử của Đức Phật là những bậc thượng thủ đã chứng quả A-la-hán, có đủ uy đức để dạy dỗ chư Ni. Ni đoàn thành lập sau, cho nên việc chư Ni nương vào và thông qua Đại Tăng để được thanh tịnh thọ giới Tỳ-kheo-ni là một việc hoàn toàn lợi ích. Vả lại, bối cảnh xã hội trọng nam khinh nữ, phân biệt giai cấp của đất nước Ấn Độ lúc đó, nếu Ni đoàn không nương tựa vào Tăng đoàn thì sẽ không thể tồn tại.  Hơn nữa, đoàn thể xuất gia đệ tử của Đức Phật bao gồm Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di và Sa-di-ni, thế thì việc Ni đoàn thông qua Tăng Ni nhị bộ những vấn đề liên quan đến giới luật cũng là việc đúng nguyên tắc, thể hiện sự đoàn kết, thanh tịnhhòa hợp theo tinh thầnĐức Phật chế định. Chính những lý do nêu trên nên kỉnh pháp này có mặt để giúp cho sự tu tập và hưng thịnh của Ni giới vậy.

7. Vị Ni không được phép chửi rủa hay sỉ vả vị Tăng trong bất cứ trường hợp nào.

8. Chư Ni không được phép quở trách chư Tăng, chư Tăng được quyền quở trách chư Ni.

Kỉnh pháp thứ bảy và thứ tám cũng nói lên lợi ích trong đời sống cộng trú thanh tịnhhòa hợp của nhị bộ Tăng Ni, cũng là điều vô cùng cần thiết nhằm đem lại uy tínđạo hạnh cho từng cá nhân trong Ni đoàn. Tuy nhiên để giữ sự bình đẳng giữa hai đoàn thể Tăng và Ni, Đức Phật đã chế ra pháp Yết-ma cảnh cáo Tỳ-kheo cho Ni bộ trong ba trường hợp sau đây: “1. Nếu một Tỳ-kheo phá giới (trọng giới) phạm trai. 2. Nếu có Tỳ-kheo đánh mắng Tỳ-kheo-ni hoặc thóa mạ, hoặc ném hoa, tát nước, hoặc nói những lời thô bỉ, trá ngụy, khuyên dụ… làm cho chư Ni phiền não. 3. Nếu có vị Hòa thượng hoặc Thượng tọa nuôi đệ tử mà không dạy dỗ để đệ tử đến chùa Ni quậy phá, chư Ni thưa trình ba lần mà chú Sa-di không chịu sửa đổi”. Trong ba trường hợp này, chư Ni có quyền yết-ma tác pháp đối với  2 vị Tỳ-kheo và vị Hòa thượng hoặc Thượng tọa bổn sư của chú Sa-di bằng cách “không cộng ngữ, không lễ bái, không cúng dường” (Cương yếu giới luật, HT.Thích Thiện Siêu biên soạn).

Tóm lại, Bát kỉnh pháp do Đức Phật chế ra nhằm bảo hộ Ni đoàn, giữ gìn sự đoàn kết, thanh tịnhhòa hợp cho đoàn thể đệ tử xuất gia của Ngài. Ni đoàn có sự bảo hộ này sẽ yên ổntinh tấn tu tập, sớm thành tựu đạo quả. Đây chính là mục đích của sự có mặt Bát kỉnh pháp.

Xuyên suốt những vấn đề trên, nhìn lại thì Tăng đoàn nói chung hay các Tỳ-kheo nói riêng chẳng có được mất, hơn thua, hay lợi ích gì trong việc này cả. Việc bất bình đẳng trong Bát kỉnh pháp có chăng chỉ là nghiệp tánh, tức là sự khác biệt về nghiệp thức của người nam và người nữ mà thôi. Cho nên, Phật tánh thì bình đẳng nhưng nghiệp tánh thì có khác biệt giữa Tăng và Ni hay nam và nữ. Do đó, chúng ta không thể vin vào đây để nói Đức Phật đã bất bình đẳng, bất công bằng khi chế ra Bát kỉnh pháp dành cho chư Ni.

Hiểu được như vậy để thấy rằng, nếu khôngBát kỉnh pháp thì giới thể của Tỳ-kheo-ni không thành tựu; mà khi giới thể không thành tựu thì làm sao đạt được sự định tĩnh và trí tuệ giải thoát. Hiểu được như vậy để chúng ta khởi lòng tri ân vô hạn Đức Thế Tôn, bởi nếu không có sự đồng thuận của Ngài thì hôm nay đã không có mặt của Ni đoàn, không có tiếng nói làm căn bản cho tất cả các nhà nhân quyền, bình đẳng quyền… trên khắp hành tinh này. Hiểu được điều đó, chúng ta, những người con trai, con gái của Đức Phật phải có bổn phận giữ gìn gia tài quý báu ấy, phát nguyện dõng mãnh, tinh tấn tu hành để báo đáp thâm ân Phật-Tổ. 

HT Thích Quang Đạo

(Giác Ngộ)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32215)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 30425)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 30689)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 21034)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20213)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19445)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24400)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30703)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15700)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
(Xem: 27815)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 19782)
Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt...
(Xem: 15584)
Qua tinh thần kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá...
(Xem: 23272)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23593)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 17546)
Năm uẩn của chúng ta -- thân thể, cảm giác, nhận thức, thúc đẩy, thức: chúng là đất sét mà chúng ta nhào nặn và tạo hình qua sự thực tập thành một vị bồ tát...
(Xem: 15707)
Giải thoát sanh tử không phải là hiện đời không chết, không phải là sống mãi ở vị lai, mà là những khổ sanh tửvị lai không còn sanh khởi nữa...
(Xem: 21920)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 38047)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 22206)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 23273)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 21370)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 28432)
Mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để đoạn trừ, hay tối thiểu làm giảm bớt những khổ đau của con người, đưa con người đến một đời sống an lạchạnh phúc...
(Xem: 32580)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 25207)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34708)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 22974)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27744)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 31334)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13618)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
(Xem: 25220)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27860)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 22129)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 20762)
Trước khi vào nội dung đề tài lần này thì có một nghi vấn đã được đặt ra như sau: "Mục tiêu của đạo Phật vốn là để giải thoát hành giảchúng sinh khỏi đau khổ luân hồi...
(Xem: 22229)
Đạo Phật đã hình thành và phát triển hơn 2500 năm, cho đến nay, tôn giáo này đã đang được sự chú ý nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học.
(Xem: 27169)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 24172)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 21939)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 14727)
Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại...
(Xem: 23189)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 24042)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 21152)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 14219)
Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia.
(Xem: 19953)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 22525)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 14085)
Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra...
(Xem: 28071)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 22852)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 28229)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 11008)
Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý.
(Xem: 28526)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 31595)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 26218)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 14987)
"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm.
(Xem: 28053)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
(Xem: 7454)
Phật GiáoTâm Lý Học Hiện Đại do ban biên tập của Bồ Đề Học Xã biên soạn, là một tài liệu giá trị cho những ai muốn tìm hiểu sự khác và giống giữa Phật PhápTâm lý Học Trị Liệu Tây phương.
(Xem: 25388)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 20718)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 21143)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
(Xem: 12271)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
(Xem: 11930)
Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant