Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Các Thuyết Phục Chính Yếu Về Tôn GiáoTriết Học Của Ngài Long Thọ

18 Tháng Giêng 201608:40(Xem: 7751)
Các Thuyết Phục Chính Yếu Về Tôn Giáo Và Triết Học Của Ngài Long Thọ
CÁC THUYẾT PHỤC CHÍNH YẾU VỀ

TÔN GIÁOTRIẾT HỌC CỦA NGÀI LONG THỌ

Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc  

Bản Anh: Master of Wisdom. Writings of the Buddhist Master Nagarjuna.
Translations and Studies by Chr. Lindtner.
Dharma Publishing. California, 1986, 1997. (trích dịch từ Introduction)

Các Thuyết Phục Chính Yếu Về Tôn Giáo Và Triết Học Của Ngài Long Thọ

Để giúp độc giả, tôi sẽ trình bày một bản tổng hợp giáo lý của các thuyết phục chính yếu về tôn giáotriết học của ngài Long Thọ .

Điểm xuất phát tốt nhất cho bản giải thích học thuyếtlý thuyết về nhị đế (satyadvaya): một chân lý quy ước thế tục (samvrtisatya) phục vụ như một phương pháp hữu hiệu để đạt đến chân lý tối hậu (paramarthasatya).

Chân lý tối hậu của tất cả các tinh tấn nỗ lực là sự toàn hảo cao nhất cho chính mình và cho các kẻ khác: chấm dứt hoàn toàn sự tái sinh, hoặc niết bàn. Nó hàm ý sự thành tựu trạng thái Phật, hoặc hai thân -- sắc thânpháp thân. Sắc Thân của một vị Phật sinh khởi từ các tích tập phúc đức; và  Pháp Thân, sinh khởi từ các tích tập trí tuệ. (Ratnavali III.12, 13).

Điểm này có thể được xem xét từ bốn toàn cảnh khách quan:

1. Về phương diện bản thể học:

Tất cả các hiện tượng (dharma; pháp) đều rỗng thông / chân không diệu hữu (sunya; empty) bởi vì chúng không có hiện hữu tự tính (svabhava; own-being), ít nhất là vì trên phương diện thực nghiệm và luận lý chúng chỉ xảy ra trong sự tùy thuộc hỗ tương (MK. XXIV, 18).

2. Về phương diện nhận thức luận:

Chân lý tối hậu (tattva) là đối tượng của trí tuệ bất nhị (advayajnana; cognition without an object) (MK. XXV, 24), và như vậy chỉ là một đối tượng thi thiết / giả danh / nói trên phương diện ẩn dụ (upadaya prajnapti; metaphorically speaking; thi thiết; giả danh) (MK. XXII, 11; MK. XXIV, 18).

3. Về phương diện tâm lý:

nó là sự xoá bỏ tất cả các phiền não (klesas; passions), về căn bản là tham (raga; desire), sân (dvesa; hatred), và si ( moha; delusion) (MK. XXVIII, 5; MK. XXV, 2)

4. Về phương diện đạo đức:

Nó hàm ý tự do không bị nô lệ về nghiệp nhưng vẫn tuân phục đối với các mệnh lệnh vị tha của đại bi (MK. XXVII, 30).

Các phương pháp Phật giáo hữu hiệu theo quy ước thế tục (samvyavahara) được đặt ra để hoàn thành mục tiêu này có thể được phân loại nhiều cách khác nhau, nhưng chính yếu, và dễ hiểu nhất là đặt dưới danh đề hai tích tập cho giác ngộ (bodhisambhara) (Ratnavali  III)

1. Tích tập về phúc đức.

Đây gồm bốn toàn hảo (paramita; perfections).

Bố thí / Sự hào hiệp /sự quảng đại và cao quý của tâm (Skt. dana; liberality ; generosity; largeness ; nobleness of mind) và giới hạnh / hạnh kiểm tốt (sila; morals), mà chúng chủ yếu là đem đến lợi ích cho các người khác, và an nhẫn (ksanti; patience) (Ratnavali . IV, 81, 99) và tinh tấn (virya; energy) mà chúng là tốt đẹp cho bản thân. (Ratnavali IV, 81).

Tu tập của họ  đòi hỏi trước hết tín tâm (sraddha; faith) vào ‘luật’ của nghiệp và kết quả trong sự thành tựu thân vật lý (rupakaya; sắc thân) của một vị Phật (Ratnavali I, 6 ; III, 12). Trên đường thiền định (dhyana; meditation), toàn hảo thứ năm, nó tạo lập hạnh phúc tạm thời. (Ratnavali I, 24; IV, 98; I, 4; III, 30)

2. Tích tập về trí tuệ .

Đây gồm có thiền đại lạc (dhyana; ecstatic meditation) được tăng thượng   bởi tuệ quán tính không của tất cả các hiện tượng, hoặc trí tuệ siêu việt . Đây là sự toàn hảo xác định (naihsreyasa; non plus ultra or ultimate good) của tất cả các hữu tình (Ratnavali, I, 4, 45; III, 30). Nó tăng thượng tới thành tựu Pháp thân . (Ratnavali III,12).

Nói một cách khác, trí tuệ về tính không và sự hiển hiện các hành hoạt đại bi là hai phương pháp hữu hiệu của một sự thật chứng giác ngộ -- đối với một nhóm nhỏ các cá nhân đã chọn lựa con đường tỉnh biết.

----------

INTRODUCTION

Long Thụ, còn gọi là Long Thọ[1] (zh. 龍樹; sa. nāgārjuna नागार्जुन; bo. klu sgrub ཀླུ་སྒྲུབ་), dịch âm là Na-già-át-thụ-na (zh. 那伽閼樹那), thế kỷ 1–2[2], là một trong những luận sư vĩ đại nhất của lịch sử Phật giáo. Người ta xem sự xuất hiện của Sư là lần chuyển pháp luân thứ hai của Phật giáo (lần thứ nhất do Phật Thích-ca Mâu-ni, lần thứ ba là sự xuất hiện của giáo pháp Đát-đặc-la). Đại thừa Ấn Độ xếp Sư vào "Sáu Bảo Trang của Ấn Độ" – năm vị khác là Thánh Thiên (sa. āryadeva), Vô Trước (sa. asaṅga), Thế Thân (sa. vasubandhu), Trần-na (sa. diṅnāga,dignāga), Pháp Xứng (sa. dharmakīrti). Trong tranh tượng, Sư là vị duy nhất sau Phật Thích-ca được trình bày với chóp trên đỉnh đầu (nhục kế 肉髻, sa. uṣṇīṣa), một dấu hiệu của một Đại nhân (sa. mahāpuruṣa). Sư là người sáng lập Trung quán tông (sa. mādhyamika), sống trong thế kỉ thứ 1–2. Có rất nhiều tác phẩm mang danh của Sư nhưng có lẽ được nhiều tác giả khác biên soạn. Sư cũng được xem là Tổ thứ 14 của Thiền tông Ấn Độ. Truyền thống Mật giáo cũng xếp Sư vào 84 vị Đại thành tựu (sa. mahāsiddha)
(Wikipedia)

……

…….

It will be convenient for the reader if  I provide a synthetic survey  (samksepa)  of Nagarjuna ‘s chief religious and philosophical persuasions.

The best starting point for such exposition is the theory of two truths (satyadvaya): a relative or conventional truth (samvrtisatya) that serves as the means for obtaining the absolute or ultimate truth ( paramarthasatya).

The ultimate goal of all endeavors is the highest good of oneself and of the others: abolition of rebirth, or nirvana. It implies the attainment of Buddhahood, or twofold body (kayadvaya).  The Form Body of a Buddha, arises from the collections of merits; and the Truth Body, arises from collections of wisdom. (Ratnavali III. 12, 13).

This may be considered from four perspectives:

Ontologically: All phenomena (dharma) are empty (sunya) since they lack own-being (svabhava), in asmuch as empirically and logically they only occur in mutual dependence ( pratityasamutpanna) (MK. XXIV, 18).

Epistemologically: The ultimate truth (tattva) is the object of a cognition without an object (advayajnanna) (MK. XXV, 24) and thus only an object metaphorically speaking (upadaya prajnapti). (MK. XXII, 11; MK. XXIV, 18).

Psychologically: It is the abolition of all the passions (klesas), primarily desire (raga), hatred (dvesa), and delusion (moha). (MK. XXVIII, 5; MK. XXV, 2)

Ethically: It implies freedom from the bond s of karma but subjection to the altruistic imperatives of compassion (karuna). (MK. XXVII, 30).

The conventional Buddhist means (samvyavahara)) devised for fulfillment of this objective may be classified variously, but fit most briefly and comprehensively under the heading of the two accumulations for enlightenment (bodhisambhara). (Ratnavali  III)

Accumulation of merit (punyasambhara). This comprises the four perfections (paramita): Liberality (dana) and good morals( sila), which are mainly for the benefit of others, and patience (ksanti) (Ratnavali . IV, 81, 99) and energy (virya), which are for one’sown good. (Ratnavali IV, 81).  There practice presupposes faith (sraddha) in the ‘law’ of karma and results in the attainment of the physical body (rupakaya) of a Buddha. (Ratnavali I, 6; III, 12). Along with the pursuit of meditation (dhyana), the fifth paramita, this constitutes temporal happiness ( abhyudaya). (Ratnavali I, 24; IV, 98; I, 4; III, 30)

Accumulation of cognition (jnanasambhara). This consists in ecstatic meditation (dhyana) surpassed by insight into the emptiness (suyanata) of all phenomena (dharmas), or wisdom (prajna). This is the non plus ultra or ultimate good (naihsreyasa) of all living beings (Ratnavali, I, 4, 45; III, 30). It amounts to the attainment of a ‘spiritual body’ (Dharmakaya). (Ratnavali III, 12).

In other words, cognition of emptiness and display of acts of compassion are -- to a chosen few -- the two means of realizing enlightenment.

--------------

Note: in as much as;  inasmuch as (formal):  taking into account the (limited) fact that :  You have to take some of the blame inasmuch as  you knew what  was going on and could have stopped it.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8789)
Sinh thuận, tử an là một phước báo lớn của con người. Một khi chưa biết nghiệp duyên của mình sẽ chết bình an hay bất an thì hãy cố gắng tu tập các thiện pháp.
(Xem: 8488)
Bản Chất của Hạnh Phúc được trích từ tác phẩm Nghệ Thuật Sống Hạnh Phúc: Cẩm Nang cho Đời Sống, một quyển sách căn cứ trên sự mở rộng những đối thoại giửa Đức Đạt Lai Lạt MaBác sĩ Howard C. Cutter, một nhà tâm lý trị liệu phương Tây.
(Xem: 8022)
Tất cả mọi người ai cũng mang thân này và cho đó là thân mình. Chúng ta mang thân suốt cuộc đời và nhận nó là thân mình nhưng nếu xét kỹ thì chúng ta có thật biết rõ về nó chưa?
(Xem: 7779)
Phải lâu lắm người ta mới quen với ý niệm về tái sinh. Tôi đã đi qua nhiều tầng bậc trong tiến trình đạt đến sự thuyết phục trong vấn đề ấy.
(Xem: 6977)
Tối nay tôi được yêu cầu để nó về sự phân biệt Phật Pháp, giáo lý của Đức Phật, với văn hóa Á châu hay văn hóa Tây Tạng...
(Xem: 13846)
Ngày nay trong sự tu học, chúng ta thường được hướng dẫn áp dụng chánh niệm (mindfulness) vào trong mọi vấn đề.
(Xem: 7579)
Trong sinh hoạt hằng ngày, nếu người tu thiếu sự kiểm soát, thiếu tích cực, chúng ta dễ lạc vào lối dở dở ương ương, không đi tới đâu hết.
(Xem: 9341)
Chúng ta cần nên làm quen với những tâm thái tốt, nhưng theo thói quen, chúng ta thường có những vọng tưởng phiền não, như sân hận, gây nên những chướng ngại lớn cho bản thân.
(Xem: 7870)
Khi chúng ta nói về nghiệp thì nó là một giải thích cơ bản về lý do và cách những kinh nghiệm vui buồn của chúng ta lên xuống ra sao, đó là tất cả những gì thuộc về nghiệp.
(Xem: 7812)
Các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc cho rằng Phật giáo du nhập vào Trung Quốc từ niên hiệu Vĩnh Bình đời Hán Minh Đế...
(Xem: 7367)
Bố thí là một trong những hạnh lành căn bản mà những người con Phật thường thực thi trong đời sống hàng ngày.
(Xem: 7757)
Sống trên cõi đời, ai cũng muốn nắm giữ đủ thứ hết, giữ không được thì sinh ra tiếc nuối, buồn khổ.
(Xem: 7482)
Câu mở đầu trong hiến chương của Tổ chức Unesco trên đây phản ảnh rõ rệt lời dạy thật thâm thúy của Đức Phật qua câu thứ nhất trong kinh Pháp Cú.
(Xem: 8691)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ-tát Quan Thế Âm.
(Xem: 11102)
“Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà ai cũng biết, ai cũng đọc như thần chú để an ủi cõi lòng mỗi khi phiền muộn , cũng là câu mà Lục tổ Huệ Năng hơn ngàn năm trước, chỉ nghe lómđại ngộ...
(Xem: 15473)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 19267)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 14953)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 8853)
Phật tử, chúng ta phải hiểu biết đúng về tam quy, giới luật, nhân quả, nghiệp, nghiệp đạo, quả báo của nghiệp, để nhận định sự khác nhau giữa vị trígiá trị, mục đích của pháp và luật.
(Xem: 8856)
Giáo lý thập như thị xuất xứ ở phẩm Phương tiện của kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Đây là một bộ kinh đại thừa xiển dương tinh thần Nhất Phật thừa...
(Xem: 14718)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 15308)
Phật Pháp Căn Bản (Basic Buddhist Doctrines) - Việt - Anh; Vietnamese - English, Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại - Oversea Vietnamese Buddhism 2009
(Xem: 8552)
Chúng ta tìm thấy một nguồn sinh lực rạt rào của kinh tạng Pàli mà các học giả đều công nhận là gần với thời Phật nhất, ghi lại những lời dạy của Ngài qua 49 năm du hóa.
(Xem: 11019)
Quan điểm phủ nhận về một đấng Toàn năngVĩnh cửu đã được thể hiện trong kinh tạng Phật giáo Pali cũng như kinh tạng Phật giáo Mahayana.
(Xem: 11363)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránhđề phòng không kịp.
(Xem: 8745)
Tu hành là tu cái gì? Đơn giản nhất, then chốt nhất, chính là buông bỏ. Nhìn thấu không cần phải tu, buông bỏ thì bạn tự nhiên liền nhìn thấu, vì vậy chính là tu buông bỏ, ta phải buông bỏ không ngừng
(Xem: 9113)
Cầu siêu chỉ là một sức mạnh thứ yếu, không phải là sức mạnh chủ yếu. Vì thời gian chủ yếu để tu thiện, làm thiện là thời gian khi người đang còn sống
(Xem: 19829)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 24732)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 8840)
Trong Phật giáo, tùy theo mỗi tông phái, mỗi xứ sở mà các tăng sĩ có chế độ thực phẩm độ nhật khác nhau. Sự khác nhau trong việc thọ nhận thực phẩm này trước hết được đặt cơ sở trên những bản kinh mà mỗi truyền thống Phật giáo thừa nhận...
(Xem: 9158)
Tánh khôngTính không cùng một ý nghĩa, một pháp không hai; từ ngữ Phật học “Tánh không” do người miền Nam Việt Nam thuyết giảng biên soạn
(Xem: 10831)
Đạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ Đạo Phật. Dân chúng thường nói "Đạo Phật là đạo của ông bà", hay "Nhà nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả...".
(Xem: 9030)
Khi chúng ta nói về Ba Ngôi Tôn Quý - Phật Bảo, Pháp Bảo, và Tăng Bảo - như những đối tượng của quy y, tất cả có thể là những đối tượng nhân quy y hay đối tượng quả quy y.
(Xem: 7934)
Theo kinh Hoa Nghiêm, được xem là kinh cao rộng nhất của Đại thừa, thì vũ trụ này là Báo thânHóa thân của Phật bổn nguyên Tỳ Lô Giá Na.
(Xem: 8825)
Từ lời Phật dạy trong kinh, các ngươi lấy pháp làm nơi nương tựa, cho đến lúc Phật sắp nhập Niết-bàn biến thành câu: sau khi Như Lai nhập diệt các ngươi lấy Pháp và Luật làm thầy...
(Xem: 8315)
Sau khi phát sinh tinh thần Giác Ngộ - tâm bồ đề, quý vị tiếp theo thọ nhận những sự thực hành Bồ tát thật sự. Chư Bồ tát ngưỡng mộ đạt đến thể trạng toàn giác.
(Xem: 7332)
Xuất bản tháng 1 năm 2015
(Xem: 11166)
Như lai tạng (tathāgata-garbha), Như lai giới – Như lai tánh (tathāgata-dhātu), Phật tánhPhật giới (buddha-dhātu), v.v..., đây là một loại danh từ, trên mặt ý nghĩa tuy có sai biệt ít nhiều
(Xem: 7417)
Đây là những bài khai thị buổi sáng của hòa thượng Tịnh Không cho đồng tu tại Hoa Tạng Đồ Thư Quán, chưa được hòa thượng giám định.
(Xem: 8301)
Hôm nay chúng ta sẽ nói về tinh thần giác ngộ và việc giúp đở người khác. Tất cả những truyền thống tôn giáo nhấn mạnh lòng vị tha trong cách này hay cách khác.
(Xem: 17728)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 44246)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 45519)
Hai mươi sáu thế kỷ về trước, Thái Tử Tất Đạt Đa đã ra đời tại hoa viên Lâm Tỳ Ni, dưới một gốc cây Vô Ưu. Ngày đó, Thái Tử đã có dịp cai trị một vương quốc, nhưng Ngài đã từ chối.
(Xem: 45097)
Tác phẩm “Những Đóa Hoa Vô Ưu” được viết bằng hai ngôn ngữ Việt-Anh rất dễ hiểu. Sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tập sách với 592 bài toàn bộ viết về những lời dạy của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni
(Xem: 10663)
Tác phẩm “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” vốn là “Tìm hiểu Giáo lý Phật giáo nguyên thủy” trước đây, đã được xuất bản lần thứ nhất vào năm 2004, là tuyển tập những bài viết và dịch của tác giả
(Xem: 8592)
Người tu chấp có, không thể tột được lý đạo. Nhưng dù chấp có nhiều như núi Tu Di vẫn không tai hại như chấp không bằng hạt cải. Đó là tai họa lớn.
(Xem: 7596)
Mạt phápthời kỳ thứ ba sau Chánh phápTượng pháp. Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm.
(Xem: 7610)
Việc làm rất thiện, rất lành Nếu làm xong thấy lòng mình thảnh thơi Chẳng ăn năn, lại mừng vui Tương lai quả báo đẹp tươi tốt lành.
(Xem: 7401)
Tôi rất vui mừng hiện diện với tất cả quý vị chiều hôm nay. Tôi đã được yêu cầu nói về "Tại sao Phật Giáo?" dĩ nhiên đây là câu hỏi đáng quan tâm, một cách đặc biệt ở phương Tây...
(Xem: 12144)
Đức Phật đản sanh vào thế kỷ thứ 6 trước CN. Phật thành đạo năm 35 tuổi, sau đó đi thuyết giảng suốt 45 năm còn lại cho đến khi Bát-Niết-bàn năm 80 tuổi.
(Xem: 7963)
Thế gian như không hoa, tất cả pháp như huyễn, thế gian hằng như mộng, khổ ở thế gian cũng như thế, chỉ như bóng lòa thoáng hiện liền mất, đâu thực có thế gian khổ để phải lìa?
(Xem: 8451)
Kể từ buổi khai thiên lập địa tới bây giờ, trên mặt đất hoang vu mịt mù sương khói còn thấp thoáng những bóng người đi giữa thiên thu vời vợi.
(Xem: 9207)
Nền tảng của đạo Phật là những lời Phật dạy được ghi chép trong Kinh điển. Người Phật tử tự nguyện đặt niềm tin vào Kinh điển với sự suy xét sáng suốt...
(Xem: 8139)
Cao tăng truyệnmột thể loại sử ký của Phật giáo Trung Hoa, ghi lại truyện tích và cuộc đời hành đạo của chư vị Cao tăng.
(Xem: 8925)
Gần đây, thầy Nhất Hạnh đã dịch lại Tâm kinh Bát-nhã. Trang Làng Mai có đăng tải bản dịch mới, kèm theo những giải thích của thầy về việc phải dịch lại Tâm kinh.
(Xem: 8046)
Thời gian có lẽ là một phạm trù gây nên những băn khoăn nhiều nhất cho triết học, khoa học, tôn giáocon người nói chung bởi nó là điểm trụ của mọi hình thái tồn vong vũ trụ.
(Xem: 8213)
Người học Phật, trước tiên cần thấy tính. Thấy tính, không phải là nói về cái có thể nhìn thấy. Gọi là thấy, là thấy cái ở những nơi không thể nhìn thấy.
(Xem: 8713)
Những vấn đề mang tính toàn cầu bao gồm: sự nóng lên toàn cầu, cạn kiệt tầng ozone, nạn phá rừng và giảm thiểu đa dạng sinh học, sa mạc hóa, mưa axít, và ô nhiễm nước biển...
(Xem: 16382)
Từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến Việt Nam, các dòng truyền thừa lịch đại chư vị tổ sư...
(Xem: 7160)
Nghệ thuật Phạm-bối của Phật giáo ra đời trong không gian kỳ ảo của nhiều cung bậc âm thanh, từ các thể tán ca, ngâm vịnh của những tôn giáo mang ảnh hưởng Vệ-đà.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant