Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chiếu Kiến Vũ Trụ Giai Không

15 Tháng Hai 201612:51(Xem: 7495)
Chiếu Kiến Vũ Trụ Giai Không

CHIẾU KIẾN VŨ TRỤ GIAI KHÔNG

Lê Huy Trứ (2/13/2016)

Chiếu Kiến Vũ Trụ Giai Không


Thứ 5, tháng 2, 11th  2016, USA Laser Interferometer Gravitational Wave Observatory (Ligo,) khoa học gia Mỹ mới đo lường được “gravitational waves” (sóng trọng trường, sức hút .)   Cái “gravitational waves” này đã được Albert Einstein tiên đoán 100 năm về trước và là chìa khóa của thuyết tương đối rộng (Theory of General Relativity) nhưng theo ông ta thì nó quá bé nhỏ để đo đạt được nhưng với phương tiện và kỷ thuật hiện đại con người đã mới tìm ra, đo lường và chứng minh được được sức hút của sóng trọng trường đó từ lý thuyết General Relativity của Einstein.  Những khoa học gia nào đã đo lường được sức hút trọng trường này sẽ chắc chắn và xứng đáng đoạt giải Nobel.  Dĩ nhiên, Đức Thế Tôn là người xứng đáng được giải Nobel đó nhưng nếu làm như như vậy thì ngài đoạt hầu hết các giải Nobel mỗi năm.

Tôi sẽ không đi sâu về chi tiếc khoa học này, nếu qúy vị muốn nghiên cứu về khoa học thì có thể vào những websites dưới đây để biết thêm chi tiếc.  Tôi chỉ trình bày những gì tình cờ trùng hợp trong cuốn sách nhan đề Phật GiáoVũ Trụ Quan mà tôi đã viết trên internet trong 12/18/2015 về những hiện tượng hấp dẫn, co giản và đàn hồi của vũ trụ mà khoa học mới biết đến trong vòng 100 năm nay và mới đo đạt được bây giờ trong khi đó những hiện tượng sức hút trọng trường này và nguồn gốc của vũ trụ đã được Đức Thế Tôn thuyết giảng trong kinh điển Phật Giáo hơn 2500 năm về trước. 

Trích sau đây là chương 34- Chiếu Kiến Vũ Trụ Giai Không trong cuốn sách Phật GiáoVũ Trụ Quan được trình bày với cái nhìn của Phật nhãn và qua trí tuệ Phật vượt xa kiến thức của khoa học hiện đại thay vì sở trụ vào sức hút của trọng trường.

http://www.bbc.com/news/science-environment-35533241
Science & Environment'Update' due on gravitational waves11 February 2016 From the section Science & Environment
These gravitational waves were first proposed 100 years ago by Albert Einstein, as a key prediction of his Theory of General Relativity.
But in decades of searching they have never been detected, despite several years of operation from two huge laser instruments in the US and one in Italy.
Teams from the US detectors will speak in Washington DC at 15:30 GMT Thursday.
Speculation is rife that they will announce the detection of gravitational waves by both the US instruments, which together make up the Laser Interferometer Gravitational Wave Observatory (Ligo.)
"It is so exciting if this really is the first clear detection, as we're expecting," Dr Carolin Crawford from Cambridge University told the BBC's Today programme.  "It will really mark a new era for astronomy."
Gravitational waves are concentric ripples that squeeze and stretch the fabric of space-time. They are caused by the movement of mass, but most are so weak that they have no measurable effect.
For current technology to glimpse them, we need to find the waves - still incredibly subtle - that are radiating across the cosmos from extremely violent events, like explosions or collisions involving stars or black holes.
At each Ligo detector, a laser beam is split in two and sent down identical, perpendicular 4km tunnels - then reflected back again. The two arms work like rulers, at right angles, made of light. 
Chiếu Kiến Vũ Trụ Giai Không 1
Figure The Ligo labs have an L-shaped configuration
Ligo labs have an L-shaped configuration

Chiếu Kiến Vũ Trụ Giai Không 2
Figure Đàn hồi của sức hút trọng trường (Gravitational Waves)

Vũ trụ, vạn vật, nhân sinh được cấu tạo từ những hạ nguyên tử, 99.999999999999 % rổng không và có thể chia cắt ra nhiều hạ nguyên tử cho đến chừng nào không chia chẻ được mới thôi.  Tất cả các hạt hạ nguyên tử (subatomic particles) cũng thế, chúng hiện diện khắp nơi trong vũ trụ, khi thì dạng của hạt khi thì dạng sóng, là nguyên nhân của muôn hình vạn trạng sắc thể của những xum la vạn tượng trong vũ trụ lẫn đại địa vô thường trên thế gianTuy nhiên, tự tánh của nó trong trường cơ bản không có một đặc tính riêng biệt nào (vô ngã tướng.)  Tự tính của trường cơ bản là tĩnh lặng, trống không, vô sắc, bao trùm vũ trụ, là nơi vừa ‘giãn’ vừa ‘co’ trong cái túi càn khôn “thâu giữ” vô lượng vật chất và nguồn gốc hiện hữu của sự sống.  Cái túi Càn Khôn này ví như tấm lưới châu báu của Đế Thích (Indra's jewels web,) trong đó mỗi mắt lưới là một pháp liên hệ chặt chẻ lẫn nhau.  Vũ trụ dường như luôn luôn vận động, chuyển dịch, biến đổi nhưng cái bản chất thực tại duy nhất, cuối cùng của vũ trụ không bao giờ động, luôn luôn tịnh, chỉ có chúng ta động. 

Indra's net, also called Indra's jewels or Indra's pearls, Sanskrit Indrajāla, is a metaphor used to illustrate the concepts of Śūnyatā [emptiness, Không], pratītyasamutpāda [dependent origination, nhân duyên], and interpenetration [trùng trùng duyên khởi]in Buddhist philosophy. The metaphor of Indra's net was developed by the Mahayana school in the 3rd century Avatamsaka Sutra and later by the Huayan school between the 6th and 8th centuries. 

Muốn chứng đắc những hiện tượng thâm sâu huyền diệu này phải thực hành trí tuệ thâm diệu, quán tự tại để ‘viên giác’ - thấy một cách tuyệt đối, tràng đầy chân thực, giác viên là thấy tròn trịa xuyên qua trái châu 3-chiều không gian, bất cứ ở phương vị nào bằng Phật nhãn.  Trong sátna, tất cả các hạt hạ nguyên tử (subatomic particles) trong cơ thể chúng ta, của trái đất, thái dương hệ rồi thì cả vũ trụ với tự tánh trống không đều bị “hút” về với thực tại duy nhất bởi một siêu hấp lực (super attraction) vô cùng vô tận, cuối cùng của vạn pháp, tức là hư không biến pháp giới hay tánh không diệu dụng. Tuy nhiên, khi có điều kiện duyên khởi làm cho thực tại duy nhất, cuối cùng không thể “hút” chúng nhỏ hơn hạt nguyên tử được nữa, chúng sẽ tương tác tương ứng với nhau, bùng nỗ và dãn ra bởi một phản năng lượng siêu phàm với một độ rung vĩ đại ‘tái cấu tạo’ thực thểhiện tượng thế gian.  Cái chu kỳ này tiếp diễn liên tục, vô thủy vô chung từ vô lượng kiếp.

Chi tiết hơn, khi mà vũ trụ co lại (contract, shrink) hay nói một cách khác là bị thâu nhỏ lại như một hạch nhân vì bị hút bởi một lỗ trống (vacuum, emptiness,) từ cái đan điền (rốn) của vũ trụcho đến một lúc nào đó nó không thể co nhỏ hơn nữa, hay đúng hơn là gần đạt tới điểm thất thể tuyệt đối, unity, thì sẽ có một lực phản hồi (opposite force) ngược lại còn mãnh liệt, nó giãn ra hay bùng nỗ (như big bang) ra vũ trụ mới (new universe) xuyên qua lỗ trống (wormhole.)  Trong khoảng sátna đó là lúc mà nhị nguyên sinh khởi rồi thì nổ bùng trở thành vô lượng siêu nguyên tử (God particles,) tạo thành tỷ tỷ hành tinh, triệu triệu thiên hà, rồi thì vũ trụ với vô lượng vật hiện hữu.  Động tát đàn hồi (co giãn) này bắt đầu từ cái nhân duyên emptiness mà cái Không đó tạo thành một khoảng trống nhỏ (space) hơn hạt siêu nguyên tử (Higgs boson) nhưng với một nguồn năng lực tối mãnh liệt (infinite energy) có thể hút luôn cả vũ trụ vào trong nó.  Cho đến khi mà sức nén nhỏ nầy càng nén càng tạo ra một phản lực ngược lại thì nó sẽ bùng giãn ra với một năng lực mãnh liệt tương đương cùng với một tốc độ nhanh hơn ánh sáng để tạo ra vũ trụ vô tận.  Những hiện tượng co giãn này có thể phản ứng liên tục trong từng sátna, từ vô lượng.  ‘Một’ (oneness) tạo ra ra tất cả, tất cả là một (unity)!  Một cũng là Không (emptiness.)  Một gần bằng nhất thể (singularity) tuy nhiên không bao giờ đạt tới nhất nguyên mà chỉ trở thành nhị nguyên (dualism) rồi thì vô lượng vật (infinite matters) trong vòng trùng điệp của nhân duyênnghiệp quả, vô thủy vô chung.  Đây là khoảng khắc chừng vài sátna (moment) được lập đi lập lại không bao giờ dứt của ‘Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không.’

Những điều tôi mạo muội trình bày ở trên được tôi mới tình cờ tìm thấy tượng tự như Stephen Hawking nói về sức hút tự sáng tạo từ hư vô: “Bởi vì có một định luật chẳng hạn như sức hút khiến vũ trụ có thể và sẽ tự sáng tạo từ chân không (nothing.)  Ông đã viết trong cuốn sách như sau “Sự sáng tạo do bởi chính nó đã là lý do tại sao có nhiều thứ chứ không phải chỉ có một thứ, tại sao vũ trụ hiện hữu và tại sao chúng ta có mặt,” Và ông viết tiếp, “Không nhất thiết phải van nài Thượng Đế làm chuyện kinh khủng như thế (Big Bang) để cho vũ trụ chuyển động.”  Những sự kiện trên này đã được Đức Thế Tôn giảng dạy và nói đến hơn 2600 năm qua và được ghi chép rõ ràng trong rừng kinh điển của Phật Giáo.

According to the standard theory, our universe sprang into existence as "singularity" around 13.7 billion years ago. What is a "singularity" and where does it come from? Well, to be honest, we don't know for sure. Singularities are zones which defy our current understanding of physics. They are thought to exist at the core of "black holes." Black holes are areas of intense gravitational pressure. The pressure is thought to be so intense that finite matter is actually squished into infinite density (a mathematical concept which truly boggles the mind). These zones of infinite density are called "singularities." Our universe is thought to have begun as an infinitesimally small, infinitely hot, infinitely dense, something - a singularity. Where did it come from? We don't know. Why did it appear? We don't know.

After its initial appearance, it apparently inflated (the "Big Bang"), expanded and cooled, going from very, very small and very, very hot, to the size and temperature of our current universe. It continues to expand and cool to this day and we are inside of it: incredible creatures living on a unique planet, circling a beautiful star clustered together with several hundred billion other stars in a galaxy soaring through the cosmos, all of which is inside of an expanding universe that began as an infinitesimal singularity which appeared out of nowhere for reasons unknown. This is the Big Bang theory. (http://www.big-bang-theory.com/)
Nhà vật lý Stephen Hawking chuyên nghiên cứu về vũ trụ học, thiên văn học, những lỗ đen (black holes,) và lượng tử (cosmology and quantum.)  Ông đã được cả thế giới công nhậnnổi tiếng với cuốn sách nhan đề “Lịch Sử Vắn Tắt về Thời Gian” (A Brief History of Time, 1988) trong đó ông giải thích những cội nguồn của vũ trụ.   Ông tuyên bố xin từ chức vụ Giáo Sư Lucasian cao quý tại Viện Đại Học Cambrigde từ 1979, mà người tiền nhiệm trước đó là Newton.
Các bậc thiện tri thức nhấn mạnh rằng, khi ở trong thiền định, họ không những ra khỏi một không gian ba chiều bình thường nhờ một năng lực mạnh hơn vượt qua sự cảm nhận thời gian thông thường.  Thay vì tiếp nối của những khoảng thời gian tuyến tính họ chứng một thực tại vô tận, phi thời gian mà lại năng động

Hãy nghe những thánh nhân chứng thực về cái thực tại vô cùng của họ: Trang Tử của Lão Giáo; Huệ Năng Lục tổ Thiền tông; và D.T.Suzuki, thiền sư Phật Giáo của thời đại bây giờ:

Trang Tử:  Hãy quên thời gian đang trôi chảy; hãy quên mọi mâu thuẫn của tư duy. Hãy nghe cái vô cùng réo gọi và hãy đứng tại đó.

Huệ Năng:  Cái giây phút hiện tại này là sự tĩnh lặng vô cùng. Mặc dù nó chỉ hiện hữu trong phút giây này, nó không có biên độ và cũng trong đó mà hiện ra cái miên viễn tuyệt diệu.

Dr.T.Suzuki:  Trong thế giới tâm linh này không có phân chia thời gian cũng như quá khứ, hiện tại và tương lai, vì các thứ này đã rút lại trong một cái chớp mắt của hiện tại, trong đó đời sống rung động trong ý nghĩa đích thực của nó… Quá khứ và tương lai đã cuốn tròn trong giây phút hiện tại của giác ngộ và cái chớp mắt hiện tại này không hề đứng yên với những gì nó dung chứa, mà vận động tiếp tục không ngừng nghỉ.

Dr.T.Suzuki đã phá cái chấp thời-không: Trong thế giới tâm linh này không có phân chia thời gian cũng như quá khứ, hiện tại và tương lai.  Thực tại vượt không gian lẫn thời gian.
Khi vượt được qua thời gian thì cũng vượt lên nhân quả luân hồi. Swami Vivekanada nói:

“Thời gian, không gian và mối liên hệ nhân quả giống như tấm kính ta nhìn xuyên qua nó để thấy cái tuyệt đối… Trong tuyệt đối thì không có thời gian, lẫn không gian, lẫn liên hệ nhân quả.”  Chúng đưa ta vượt lên kinh nghiệm về thời giangiải thoát ra khỏi những mắt xích của nhân quả, thoát khỏi sự trói buộc của nghiệp khổ đau.
Einstein chứng minh rằng, hình học không hề nằm trong thiên nhiên mà là một cơ cấu do đầu óc con người nghĩ ra.  Ông đã nhận ra rằng, trật tự thời gian cũng tương đốitùy thuộc nơi quan sát viên.  Tính tương đối của thời gian cũng buộc ta phải từ bỏ khái niệm của một không gian tuyệt đối của Newton. Không gian Newton được xem là thuộc mỗi thời điểm nhất định có một trật tự vật chất nhất định, nhưng bây giờ,  tính đồng thời đã trở thành một khái niệm tương đối, nó tùy thuộc vào tình hình vận động của quan sát viên, thì người ta không còn xác định được một thời điểm nhất định của vũ trụ là thời điểm nào nữa.

Thuyết tương đối đã chứng tỏ tất cả mọi đo lường về không gianthời gian đã mất tính chất tuyệt đối và đòi hỏi từ bỏ khái niệm cổ điển về không gianthời gian tuyệt đối. Sự quan trọng của phát hiện này được Mendel Sachs nói như sau: Cuộc cách mạng đích thực tới với thuyết của Einstein…, đó là từ bỏ ý niệm xem hệ thống không gian - thời gian là khách quan và là một thực tại riêng biệt. Thay vào đó, thuyết này cho thấy trục của không gian- thời gian chỉ là yếu tố của một ngôn ngữ để quan sát viên mô tả môi trường của mình.  Câu nói này cho thấy tính chất thật của khái niệm không gian - thời gian của vật lý hiện đại, và cũng là khái niệm của đạo học phương Đông khi nói, không gian - thời gian không gì khác hơn là danh sắc, ngôn từ để sử dụng chung. Vì không gian - thời gian bây giờ đã trở thành tên gọi có tính chủ quan, mà một quan sát viên dùng để mô tả hiện tượng thiên nhiên, cho nên mỗi người sẽ mô tả hiện tượng để mình quan sát một cách khác nhau.

Khái niệm “không gian - thời gian” này được Herman Minkowski giới thiệu trong bài giảng nổi tiếng năm 1908 với những câu sau đây: Những quan điểm về không gianthời gian mà tôi xin giới thiệu cùng quí vị, nó xuất phát từ nền tảng của vật lý thực nghiệm, đó chính là ưu thế của chúng. Những quan điểm đó thật là triệt để. Kể từ nay thì khái niệm không gian tự nó và thời gian tự nó đã mờ nhạt, không có thực chất; và sự thống nhất của hai cái đã thành một thực thể độc lập.

Henry Margenau định nghĩa hình học, không gianthời gian như sau: Nhận thức trung tâm của thuyết tương đối là hình học… chỉ là một cấu trúc của óc suy luận. Chỉ khi nào ta thừa nhận điều này thì tâm ta mới có chỗ  cho khái niệm mới của không gian - thời gian, để nắm được những khả năng định nghĩa chúng và để lựa ra cách phát biểu chúng phù hợp với quan sát.

Joseph Needham nhận xét về ngành thiên văn Trung Hoa:  Các nhà thiên văn Trung Hoa không cần những dạng hình học để lý giải - những thành phần của vũ trụ sinh cơ tuân thủ đúng tính chất của chúng trong đạo và sự vận động của chúng được diễn tả chủ yếu bằng số học, phi hình tướng.  Do đó mà người Trung Hoa thoát khỏi sự mê say của thiên văn phương Tây với cách nhìn cho vòng tròn là hình tượng hoàn hảo nhất…họ cũng không phải sống trong tù ngục của hình cầu pha lê thời Trung Cổ.  Điều này cho thấy, triết gia và khoa học cổ đại tại phương Đông đã có một cái nhìn cơ bản về thuyết tương đối, cho rằng hình học không hề là phản ánh tính chất của thiên nhiên mà chỉ là sản phẩm của tư duy.

Tổ Mã Minh nói: Cần hiểu rõ không gian không gì hơn là một dạng đặc biệt, nó không có tự tính. Không gian chỉ có trong mối liên hệ với dạng ý thức đặc biệt của ta.
Phật Giáo có một nhận thức trực giác về tính cách không gian - thời gian của thực tại và đã được trình bày rõ rệt và triệt để trong những kinh điển Phật GiáoKinh Hoa Nghiêm mô tả sinh động về một sự dung thông vô ngại của không gianthời gian - đây là cách phát biểu toàn hảo về không gianthời gian - được kinh nhắc tới nhiều lần và nó được xem là đặc trưng của tâm giác ngộ.

Dr.T.Suzuki viết: Ý nghĩa của Kinh Hoa Nghiêmtư tưởng của nó sẽ khó hiểu nếu ta chưa bao giờ chứng một tình trạng của một sự tan biến hoàn toàn, trong đó không còn có sự phân biệt thân và tâm, giữa chủ thể và khách thể… Ta nhìn quanh và nhận thấy mỗi sự vật đều liên hệ với mọi sự vật khác… không những trong không gian, mà trong thời gian. Thực tế là trong sự chứng thực thanh tịnh không có không gian phi thời gian, không có thời gian phi không gian, chúng dung thông nhau.  Theo tôi, muốn hiểu Kinh Hoa Nghiêm thì phải giác ngộ trước đã mà muốn giác ngộ thì phải đọc Kinh Hoa Nghiêm.
Nếu so sánh câu nói này của Suzuki với những lời đã dẫn của Minkowski, ta thấy ngay cả khoa học gia lẫn nhà Phật học đều tương đồng trên quan điểm xây dựng khái niệm không gian - thời gian trên thực nghiệm; một bên dựa trên kiến thức và thí nghiệm khoa học, bên kia thì nhờ chứng thực tâm linh và trí tuệ Phật Pháp.

Theo Vũ trụ quan Phật giáo, Hoà Thượng Thích Thiện Hoa, Trích từ Phật Học Phổ Thông, “Cái ‘có’ và ‘không’ ở đây là ‘có’, ‘không’ tương đối. ‘Có’ là một cái gì, ‘không’ cũng là một cái gì. Còn nói một cách tuyệt đối, thì trong vũ trụ này chưa bao giờ có một cái không hoàn toàn không cả. Cũng như cái có mà ta thường thấy chung quanh ta cũng không phải hoàn toàn, vĩnh viễn có.  ‘Có, không’ đều tương đối, nghĩa là dựa vào nhau mà thành.  Hoặc trong một chỗ này có thì chỗ khác không, hoặc đắp đổi nhau trong thời gian có trước rồi không sau, hay không trước rồi có sau. Khi ấy lấy riêng ra từng pháp mà xét, thì thấy tuần tự có thành, trụ, hoại, không, nhưng xét toàn thể thì phút giây này cũng đồng thởi có thành, có trụ, có hoại, có không cả.  Như thế, để kết luận: không phải cái không xuất hiện trước là có.  Không và có đều có một lần. Và vì thế, cho nên không thể có nguyên nhân đầu tiên của cái có.  Trong hiện tượng giới ta thấy có sanh diệt, có thể có, chúng ta cho là vô thường. Nhưng nếu xét toàn thể vũ trụ, đứng về thật tại giới, thì chẳng có sanh diệtvạn hữuthường trụ.”

Thực tại, tất cả từ Không (Năng lượng, energy) ra Có (Sắc, matter,) Từ Có ra Không.  Như Einstein đã từng nhận thấy, năng lượng - một thực thể xuất hiện ngay trong khoảng khắc sau khi vũ trụ hiện hữu – và vật chất đồng nhất. Chúng chỉ biểu hiện khác lối.  Trong luận lý đó, năng lượng (không sắc) có thể được biến cải trở thành vật chất (sắc,) và vật chất có thể chuyển đổi thành năng lượng.  Sau đó là những gì xãy ra trong trung tâm của những hành tinh; chúng dùng phản ứng nguyên tử tổng hợp để biến chuyển một phần của chất khí chứa đựng trong nó thành những yếu tố nặng hơn (bắt đầu từ helium và dẫn đến  iron.)  Một luồng năng lực kinh khủng của năng lượngnăng lượng đó duy trì trên trái đất, những hành tinh có sự sống, và tự trong vũ trụ -  như là một sản phẩm được cung cấp.  Không có năng lượng, vũ trụ mà ta biết sẽ ngừng hiện hữu.

As Einstein once learned, energy—an entity that emerged just moments after the universe came into existence—and matter are one and the same. They merely manifest in different ways. In that sense, energy can be converted into matter, and matter can be converted into energy. The latter is what happens in the center of stars; they use nuclear fusion to convert a portion of their gas content into heavier elements (starting at helium, and leading to iron). A tremendous amount of sheer energy—energy that goes on to sustain Earth,  other inhabited planets, and the universe itself—is released as a by product. Without energy, the universe as we know it would cease to exist. (Why Scientists Think the Universe is Slowly Dying, Posted By: Jaime Trosperon: August 30, 2015In: News, Physics, http://www.fromquarkstoquasars.com/why-scientists-think-the-universe-is-slowly-dying/)

Trên 
giả thuyết nếu một khối vật chất khi được nén đến tối đa, tỷ trọng đầu tiên của nó (g/cm3) lên đến vô cực, rồi sau đó giảm dần xuống. Nói rõ hơn, nếu nén các vật thể đến một tỷ trọng cao, nhiệt độ của chúng sẽ tăng một cách kinh khủng

Năm 1950, thí nghiệm mẫu của Goerge Gamow chứng minh rằng một nhiệt độ tăng đến vô cực và tỷ trọng ở số 0; chỉ trong một giây đồng hồ, nhiệt độ đó lên đến 15 tỉ độ, và tỷ trọng của nó cũng bằng tỷ trọng của không khí mà chúng ta đang thở.

Một số lượng khác đến từ những khoảng trống mênh mông trong vũ trụ. Ở đây, những Hố đen (Blackhole) bí mật, khi nuốt tinh tú và Binary Stars đã tạo nên những vụ nổ bùng kinh thiên động địa (Cataclysmic explosions,) trong khi những Thiên Hà (Galaxies) đang hoạt động phun ra những luồng hơi khí (gas) và vật thể (matter.)

From Wikipedia, The Universe is all of time and space and its contents. The Universe includes planets, stars, galaxies, the contents of intergalactic space, the smallest subatomic particles, and all matter and energy. The observable universe is about 28 billion parsecs (91 billion light-years) in diameter at the present time. The size of the whole Universe is not known and may be infinite. Observations and the development of physical theories have led to inferences about the composition and evolution of the Universe.

Di chuyễn của những nguyên tử trong không gianCư Sĩ Truyền Bình gọi là là di chuyển vật thể đi xa không giới hạn và không mất nhiều thời gian bằng phương thức liên kết các rối lượng tử (quantum entanglement.)  Liên kết lượng tử là sự kết nối giữa hai hoặc nhiều nguyên tử hoặc hạt cơ bản (elementary particles.) Đặc điểm của liên kết lượng tử là chúng được kết nối bằng một phương thức kỳ lạ mà Albert Einstein gọi là “Spooky action at a distance” (Tác động ma quái từ xa.) Einstein vốn không tin có tác động ma quái này, nhưng thí nghiệm của Alain Aspect năm 1982 tại Paris, áp dụng bất đẳng thức của John Bell trong tính toán, đã chứng minh bằng toán học một cách thuyết phục rằng tác động này là có thật. Tác động này khiến cho người ta chỉ cần đo đạc một nguyên tử hoặc hạt cơ bản ở gần mình thì nắm được chắc chắn tình trạng của đối tác liên kết của nó (entangled partner) bất kể khoảng cách là bao xa [có thể là 18km; 89 miles (dặm Anh) = 143km; hay 541 quang niên.]  Tương tự như trong những trang kinh xưa đã nói về sự liên hệ giữa vật chấtnăng lượng lẫn không có sự phân biệt cơ bản nào giữa Tâm và Vật vượt không-thời.  Tôi nghĩ đây là một chứng minh của quả (effect) xãy trước Nhân (cause) và những gì chúng ta chứng kiến trong cỏi Ta Bà (ráng chịu) này là kinh nghiệm của những quả đã được chính chúng ta sắp xếp trước cho kiếp này.  Như là chúng ta đã mượn tiền ngân hàng từ trước và đã xài hết cho một mục đích nào đó.  Nên bây giờ đang ráng chịu đi cày trả nợ rồi thì than nghèo, than khổ và lầm tưởng là ‘tôi đau.’  Thay vì cái thân nhục thể ngũ uẩn này khổ đau.  Có thể vì vậychúng ta cầu bất đắc khổ vì nợ chưa trả hết nổi thì ráng mà chịu nghèo khổ chứ không có ngân hàng nào cho vay mượn thêm.

Cũng nên biết, ngũ uẩn hay là Ngũ ấm chỉ là năm (pañca) nhóm (skandha) tượng trưng cho năm yếu tố tạo thành con người, toàn bộ thân tâm (mind and body) chứ không phải là những yếu tố tạo ra xum la vạn tượng trong vũ trụVũ trụ ảo (holographic universe) bao gồm ngũ uẩn của con người.   Cho nên phải ‘Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm diệu viên giác Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến vũ trụ giai không’ mới ngoài tâm và ngoài cả Tri Kiến Phật.  Khi đó mới ‘như thị viên giác’ (thấy rốt ráo với phi tánh sáng suốt tròn đầy) được tâm tướngtâm không; không tâm là tướng tâm!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4916)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5529)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5672)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5874)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
(Xem: 5039)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4448)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4742)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4757)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5921)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3347)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5339)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 2993)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(Xem: 4223)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(Xem: 5351)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 4322)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 3407)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 6447)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 5420)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(Xem: 4685)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(Xem: 6330)
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật.
(Xem: 6168)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(Xem: 3970)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(Xem: 6085)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
(Xem: 4688)
Về mặt ngôn từ, thì chữ “công đức” là được dịch nghĩa từ chữ “punna” trong tiếng Pali. Tiếng Anh dịch thành chữ “merit”.
(Xem: 4842)
Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
(Xem: 3471)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy
(Xem: 6350)
Uẩn, thuật ngữ Pāli là khandha (Skt: skandha) thường được dịch sang tiếng Anh là ‘aggregates’ uẩn.
(Xem: 5046)
Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh.
(Xem: 3619)
Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả.
(Xem: 3558)
Mọi hiện tượng và sự vật trên thế gianhoàn vũ này không bao giờ độc lậptồn tại, mà do nhân duyên hòa hợp tạo thành.
(Xem: 5790)
Quan điểm thống nhất trong kinh điển là: sát sanh vi phạm giới luật đầu tiên và chiến tranh là sai lầm ngay cả khi chiến đấu cho mục tiêu phòng thủ hay tấn công.
(Xem: 4350)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.
(Xem: 6079)
Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.
(Xem: 5310)
Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo,
(Xem: 3748)
Định hướng cuộc đời để đạt được mong muốn thích đángyếu tố quan trọng giúp cho ta thăng tiến trên đỉnh cao của sự giác ngộgiải thoát.
(Xem: 3851)
Hơn bao giờ hết, những bản dịch kinh điển rõ ràng dễ hiểu, được chú giải thận trọng, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi đến tay người học Phật đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan trọng.
(Xem: 3785)
Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì?
(Xem: 3589)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 5454)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 4116)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 4476)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 5891)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 3201)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 3152)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 3983)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 4959)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 3637)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
(Xem: 3112)
Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra.
(Xem: 4649)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 4843)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 3536)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
(Xem: 4075)
Nhà Phật thường nhắc đến đạo lý sống Trung Đạo. Cái gọi là Trung Đạo chính là không đi theo hướng cực đoan, quá mức.
(Xem: 4820)
Nhiều trường phái Phật Giáo ngày nay vẫn tụng Kinh Pali, ngôn ngữ của Đức Phật lịch sử.
(Xem: 3657)
Hiện nay, quý vị trẻ thường thích thể hiện mình theo nhiều cách mà mọi người vẫn thường gọi chung chung là muốn khẳng định cái tôi.
(Xem: 3665)
Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu
(Xem: 5209)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 4248)
Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo".
(Xem: 3363)
Buông bỏ phiền não, trước hết là để giải tỏa mọi ưu tư, khiến người ta hạnh phúc.
(Xem: 3043)
Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ.
(Xem: 3109)
Sự quán sát, quán chiếu khởi từ danh tướng - danh là hương, là vị; tướng là những tính chất đặc trưng của chúng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant