Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Niết Bàn (song ngữ)

11 Tháng Ba 201612:10(Xem: 8250)
Niết Bàn (song ngữ)

NIẾT BÀN

Barbara O'Brien
Nguyễn Văn Tiến

Niết Bàn (song ngữ)


Niết bàn thì ở khắp mọi nơi, ít nhất là đối với những người nói tiếng Anh. Từ ngữ nầy đã được dùng trong Anh Ngữ với ý nghĩa là "hạnh phúc" hoặc "bình yên". Niết Bàn cũng là tên của một ban nhạc chơi nhạc-grunge nổi tiếng của Hoa Kỳ, cũng như là tên của nhiều sản phẩm tiêu-thụ, từ nước đóng chai, đến nước hoa. Nhưng Niết Bàn thật sự là gì? Và Niết Bàn đóng vai trò gì trong Đạo Phật?

Trong ý nghĩa tâm linh, niết bàn (hay nibbana trong tiếng Pali) là một từ ngữ tiếng Phạn cổ-xưa có nghĩa là "dập tắt", với nghĩa rộng là "dập tắt ngọn lửa". Nhiều người Tây Phương đã nghĩ theo nghĩa đen của từ ngữ nầy, nên họ cho rằng mục đích của đạo Phật là chùi-sạch chính mình. Nhưng Đạo Phật, hoặc niết-bàn, không phải chỉ là như thế.

SỰ GIẢI THOÁT, CHỨ KHÔNG PHẢI SỰ LAU-CHÙI-CHO-SẠCH:

Người thời xưa coi lửa là một yếu tố, một trong những hình thức cơ bản nhất của vật-chất có thể mang-đi được. Trong văn hóa của Ấn Độ vào thời Đức Phật, lửa được xem là tương đương với không-khí, hoặc một cái gì đó giống như chất ê-te (ether).

Chúng ta nên hiểu rằng chúng ta chỉ có thể nhìn thấy yếu tố lửa, như là ngọn-lửa nếu lửa được tiếp nối với một loại nhiên liệu nào đó.

Khi lửa được tiếp cận với nguồn nhiên liệu, lửa trở nên nóng và bùng lên, và chúng ta nhìn thấy ngọn lửa. Khi lửa được tách rời ra khỏi nhiên liệu, lửa chuyển sang một trạng thái khác. Mặc dù lúc nầy, con người không nhìn thấy lửa, lửa vẫn có sự tồn tại, trầm tĩnh, và bình thản.

Tất nhiên, đấy không phải là những gì chúng ta hiểu về lửa, ngày hôm nay. Tuy nhiên, sự hiểu biết nầy đã giải thích lý do tại sao Đức Phật đã dùng từ ngữ niết-bàn với ý nghĩa là "giải thoát", hoặc là "cởi sợi giây trói ra."

Cho nên, niết-bàn là sự giải thoát, tuy nhiên, giải thoát từ cái gì? Câu trả lời thông thường là "vòng luân-hồi," mà thường được định nghĩa là chu kỳ sinh ra, rồi mất đi, rồi tái-sinh. (xin lưu ý rằng "tái sinh" (từ thần-thức) không có nghĩa là "đầu thai" (từ linh-hồn), như một số người hiểu lầm.) Niết Bàn cũng được xem là giải thoát khỏi sự đau khổ, hoặc sự căng thẳng / sự đau đớn / sự không hài lòng trong cuộc sống.

Sau khi Đức Phật giác ngộ, trong bài giảng đầu tiên của ngài, Đức Phật đã giảng về Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế). Bốn Sự Thật nầy căn bảngiải thích tại sao cuộc sống căng thẳng, và làm cho chúng ta thất vọng, và tại sao chúng ta bị mắc kẹt, và phải vật lộn với cuộc sống, giống y như là ngọn lửa không tách ra khỏi được nguồn nhiên liệu. Đức Phật cũng cho chúng ta phương thuốc chữa bệnh, và con đường giải thoát chính là Con Đường Cao Quý Có Tám Phần (Bát Chánh Đạo).

Đạo Phật, thật ra, không phải là một hệ thống về niềm tin, mà Đạo Phật chính là sự thực hành, để cho phép chúng ta buông xả sự dính mắc, và ngừng lại sự đấu tranh trong tâm chúng ta.

NIẾT BÀN KHÔNG PHẢI LÀ MỘT NƠI CHỐN:   

Vì thế, một khi tâm chúng ta được giải thoát, điều gì sẽ xảy ra kế tiếp? Các pháp môn của Đạo Phật diễn-dịch niết-bàn theo một lối khác nhau, tuy nhiên, họ thường đồng ý rằng niết-bàn không phải là một nơi chốn. Mà niết-bàn là một trạng thái của tâm. Tuy nhiên, Đức Phật cũng có nói rằng, bất cứ điều gì chúng ta có-thể nói hoặc tưởng-tượng về niết-bàn đều sai-lầm, bởi vì niết-bàn hoàn-toàn khác-biệt với cõi người của chúng ta. Vì lý do nầy, niết-bàn không có định-nghĩa, bởi vì ngôn ngữ không đủ để diễn tả niết-bàn. Niết Bàn vượt ra ngoài không-gian, thời-gian, và định-nghĩa.

Nhiều kinh điển, và các lời bình luận nói về đi-vào (nhập) niết-bàn, tuy nhiên, nói cho đúng, niết-bàn không-thể đi-vào giống như chúng ta đi-vào một căn-phòng, hoặc là chúng ta có-thể tưởng-tượng là đi-vào thiên-đường.

Học-giả, và cũng là nhà-sư theo Phật-Giáo Nguyên-Thủy Thanissaro Bhikkhu nói rằng, "... vòng luân-hồi, cũng như niết-bàn không phải là một nơi chốn. Vòng luân-hồi là quá-trình tạo ra các nơi-chốn, thậm-chí toàn-bộ thế-giới, (điều nầy được gọi là  sự trở-thành), và rồi chúng ta đi lang-thang qua các nơi-chốn nầy (điều nầy được gọi là sự sinh ra). Niết Bàn là sự chấm-dứt của quá-trình nầy."

Chúng ta đôi khi bị mắc-kẹt vì xử-dụng từ-ngữ "đi vào" (nhập niết-bàn), tuy nhiên, bởi vì Anh Ngữ chưa có từ-ngữ nào để nói cho đúng-đắn về ý-nghĩa nầy của niết-bàn. 

Tất nhiên, có nhiều thế hệ Phật Tử đã tưởng-tượng niết-bàn là một nơi-chốn, bởi vì họ không-thể tưởng-tượng khác hơn thế. Vì thế, chúng ta có thể sẽ gặp những người Phật Tử đã có sự suy-nghĩ như thế. Cũng có những vị lớn tuổi tin-tưởng rằng một người phải được sinh ra là một người đàn-ông mới có thể vào niết-bàn được. Đức Phật lịch-sử chẳng bao giờ nói như thế, tuy nhiên, niềm tin của các người nầy phản ảnh từ một số kinh-điển Đại-Thừa. Tuy nhiên, Kinh Duy Ma Cật (Vimalakirti) đã hoàn-toàn không chấp-nhận khái-niệm nầy.

NIẾT BÀN THEO PHẬT-GIÁO NGUYÊN-THỦY:

Phật Giáo Nguyên Thủy diễn tả hai loại niết-bàn (nirvana) - hoặc là nibbana, vì các vị theo Phật Giáo Nguyên Thủy thường dùng tiếng Pali.

Loại đầu tiên là "niết-bàn có phần-còn-dư" (hoặc là hữu-dư niết-bàn). Loại nầy được so sánh với những mảnh-vụn than-củi hãy còn cháy sau khi dập-tắt ngọn lửa, và điều nầy diễn-tả một người đã giác-ngộ, hoặc là một vị A La Hán. Vị A La Hán hãy còn nhận biết sự vui-thú, và sự đau-đớn, tuy nhiên ông ta (hoặc bà ta) không còn bị trói buộc bởi các điều nầy.

Loại thứ nhì là đại-niết-bàn, đó là niết-bàn sau-cùng, hoặc là niết-bàn hoàn-toàn (niết-bàn không có phần-còn-dư, hoặc vô-dư niết-bàn), đó là "đã đi-vào" niết-bàn, sau khi chết. Bấy giờ, những mảnh-vụn than-củi thì đã nguội-mát. Đức Phật đã dạy rằng, nếu nói niết-bàn là một trạng-thái có-mặt thì không đúng, bởi vì khi nói có-mặt có nghĩa là bị giới-hạn bởi thời-gian và không-gian, thế nên, nếu nói niết-bàn là một trạng-thái không-có-mặt cũng không đúng.

NIẾT BÀN THEO PHẬT-GIÁO ĐẠI-THỪA:

Một trong những đặc-điểm khác-biệt của Phật Giáo Đại Thừa là hạnh-nguyện Bồ Tát. Phật Tử theo Đại Thừa là nguyện ở lại cõi người (thế giới hiện tượng), và phấn đấu để đưa mọi chúng sanh đến giác ngộ. Điều nầy không-phải chỉ thực-hiện trong ý-nghĩa của lòng vị-tha, mà còn qua sự hiểu biết là họ không có cách nào khác. Trong ít nhất một số trường phái Đại Thừa, họ nghĩ rằng tất cả mọi vật đều cùng-nhau tồn-tại, "một-người" đạt niết-bàn thì không-có ý-nghĩa gì cả.

Phật Giáo Đại Thừa cũng dạy rằng luân-hồi, và niết-bàn không thật-sự riêng-biệt. Một người nhận-biết, hoặc cảm-nhận tánh-không của mọi hiện-tượng sẽ nhận ra rằng niết-bàn, và luân-hồi không đối-chọi nhau, thay vào đó, cả hai cùng hòa-nhập với nhau. Niết Bàn chính là bản-chất thật-sự tinh-khiết của luân-hồi. 

Source-Nguồn: http://buddhism.about.com/od/Existence/fl/Nirvana.htm


 NIRVANA

Barbara O'Brien

Nirvana is everywhere, at least for English speakers. The word has been adopted into English to mean "bliss" or "tranquility." Nirvana also is the name of a famous American grunge band, as well as of many consumer products, from bottled water to perfume. But what is it, really? And how does it fit into Buddhism?

In the spiritual sense, nirvana (or nibbana in Pali) is an ancient Sanskrit word that means something like "to extinguish," with the connotation of extinguishing a flame. This more literal meaning has caused many westerners to assume that the goal of Buddhism is to obliterate oneself. But that's not at all what Buddhism, or nirvana, is about.

LIBERATION, NOT OBLITERATION

The ancients considered fire to be an element, one of the most basic forms matter could take. In the culture of India at the time of the Buddha, fire was thought to be equivalent to air, or something like aether (but not exactly).

It was understood that we can see the element of fire as flames only when fire is stuck to some kind of fuel.

When fire is trapped by fuel it becomes hot and agitated, and flames are visible. When the fire is separated from fuel it passes into a different state. Although the fire is no longer visible to humans, it still permeates existence, coolly and serenely.

That is not at all how we understand fire today, of course. However, this understanding does explain why the Buddha used the word nirvana to mean "liberation" or "unbinding."

So nirvana is liberation, but liberation from what? The standard answer is "samsara," which usually is defined as the cycle of birth, death, and rebirth. (Note that "rebirth" is not necessarily reincarnation as you might understand it.) Nirvana is also said to be liberation from dukkha, or the stress / pain / dissatisfaction of life.

In his first sermon after his enlightenment, the Buddha preached the Four Noble Truths. Very basically, the Truths explain why life stresses and disappoints us, and why we are stuck and struggling like a flame stuck to fuel. The Buddha also gave us the remedy, and the path to liberation, which is the Eightfold Path.

Buddhism, then, is not so much a belief system as it is a practice that enables us to stop sticking and struggling.

NIRVANA IS NOT A PLACE

So, once we're liberated, what happens next? The various schools of Buddhism understand nirvana in different ways, but they generally agree that nirvana is not a place. It is more like a state of existence. However, the Buddha also said that anything we might say or imagine about nirvana will be wrong, because it is utterly different from our ordinary existence. For this reason, it also defies definition, because language is inadequate to define it. Nirvana is beyond space, time, and definition.

Many scriptures and commentaries speak of entering nirvana, but (strictly speaking), nirvana cannot be entered in the same way we enter a room, or the way we might imagine entering heaven.

The Theravadin scholar Thanissaro Bhikkhu said, "... neither samsara nor nirvana is a place. Samsara is a process of creating places, even whole worlds, (this is called becoming) and then wandering through them (this is called birth). Nirvana is the end of this process."

We do sometimes get stuck using words like "enter," however, because English vocabulary hasn't developed words that properly relate to nirvana.

Of course, many generations of Buddhist have imagined nirvana to be a place, because they couldn't imagine it as not a place. So you may run into Buddhists with that understanding. There is also an old folk belief that one must be reborn as a man to enter nirvana. The historical Buddha never said any such thing, but the folk belief came to be reflected in some of the Mahayana sutras. This notion was very emphatically rejected in the Vimalakirti Sutra, however.

NIBBANA IN THERAVADA BUDDHISM

Theravada Buddhism describes two kinds of nirvana - or nibbana, as Theravadins usually use the Pali word.

The first is "nibbana with remainders." This is compared to the embers that remain warm after flames have been extinguished, and it describes a living enlightened being, or arahant. The arahant is still conscious of pleasure and pain, but he or she is no longer bound to them.

The second type is parinibbana, which is final or complete nibbana that is "entered" at death. Now the embers are cool. The Buddha taught that this state is neither existence - because that which can be said to exist is limited in time and space - nor non-existence.

NIRVANA IN MAHAYANA BUDDHISM

One of the distinguishing characteristics of Mahayana Buddhism is the bodhisattva vow. Mahayana Buddhists vow to remain in the phenomenal world and strive to bring all beings to enlightenment. This is not done just a in sense of altruism, but with the understanding that it cannot be otherwise.  In at least some schools of Mahayana, because everything inter-exists, "individual" nirvana is nonsensical.

Mahayana Buddhism also teachings that samsara and nirvana are not really separate. A being who has realized or perceived the emptiness of phenomena will realize that nirvana and samsara are not opposites, but instead completely pervade each other. Nirvana is the purified, true nature of samsara.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7842)
Thưa Đại Vương, những người, có được tài sản lớn, mà không bị chúng làm say đắm... rất hiếm hoi trên đời này... Diệu Liên Lý Thu Linh
(Xem: 7898)
Bạo lực, khủng bố đã xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau trong những trường hợp khác nhau có liên quan đến cuộc đời của đức Phật... Thích Huệ Pháp dịch
(Xem: 9011)
Chánh Ngoa Tập (Uốn nắn những điều sai ngoa) trích từ bộ Vân Thê Pháp Vựng, Đời Minh, chùa Vân Thê ở Cổ Hàng, Sa-môn Châu Hoằng soạn, Như Hòa dịch.
(Xem: 26202)
Từ điển bách khoa Phật giáo Việt Nam, Tập 1 và 2; HT Thích Trí Thủ chủ trương, Lê Mạnh Thát chủ biên
(Xem: 13871)
Các tác phẩm Phật giáo viết bằng Buddhist Hybrid Sanskrit xuất hiện sau khi Pāṇini đã hoàn thành việc chuẩn hóa tiếng Phạn vào khoảng đầu thế kỷ thứ 4 trước dương lịch.
(Xem: 28035)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 19891)
Tu Tuệ là cách tu tập bằng thiền định phân giải, tức hướng vào mục tiêu phát huy sự hiểu biết, một sự hiểu biết siêu nhiên về bản chất đích thực của mọi vật thể và mọi biến cố...
(Xem: 7797)
Nghiệp không phát động từ bên ngoài mà sinh ra từ bên trong tâm thức của chính mình. Mỗi hành động (karma) đều tạo ra một hậu quả.
(Xem: 7644)
Làm sống lại những tiến bộ của người xưa, mỗi Phật tử sẽ trở thành gạch nối giữa quá khứhiện tại... Đỗ Thuần Khiêm
(Xem: 7514)
Khái quát trên đủ thấy Ðại Tạng kinh Hán văn là một bảo vật vô giá của Phật giáo và chung cho cả nền văn hóa thế giới... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 8066)
Cũng giống như trong Phật giáo, vạn pháp không hiện hữu, chỉ có mối liên hệ của chúng là hiện hữu... Trịnh Xuân Thuận
(Xem: 9772)
Trên thực tế, tất cả giáo huấn của Đức Phật đều nhằm giúp chúng ta vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Phương pháp tiếp cận thật sự rất hợp lýthực tiễn.
(Xem: 22790)
Phật Giáo Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của nó luôn luôn gắn liền với dòng sinh mệnh của dân tộc... Trần Tri Khách
(Xem: 16948)
Khi Đức Phật ra đời, Ngài đã chỉ bày rõ ràng, cặn kẽ cho người xuất gia cũng như người tại gia ở từng địa hạt một của tâm linh... HT Thích Như Điển
(Xem: 8592)
Đức Phật A Di Đà không tự làm cho tội của chúng sanh tự tiêu hủy, mà cảnh giới của Ngài là nơi những chúng sanh ấy có thể nương nào đó để tồn tạitiến tu thêm nữa... HT Thích Như Điển
(Xem: 10428)
Phương pháp chuyển hóa tâm thức của Đạo Phật không chỉ là một vấn đề niềm tin mà cũng là một niềm tin đạt đến được qua thiền phân tích... Đức Đạt Lai Lạt Ma
(Xem: 10605)
Sau khi dạy cho chúng ta hiểu khổ là gì và nguồn gốc của khổ, Đức Phật đã chỉ cho chúng ta con đường diệt khổ, tức là Bát Chánh Đạo...
(Xem: 11294)
Theo truyền thống tín ngưỡng của dân gian, có lẽ hình tượng 2 vị Thần TàiThổ Địa không xa lạ gì với người dân Việt Nam.
(Xem: 9915)
Phật giáo Mỹ sẽ phải phản ánh những nguyên tắc dân chủ, trong cái nghĩa “tự do và công lý cho mọi người”.
(Xem: 10587)
Muốn được giải thoát, trước hết chúng ta phải quan sát sự vật một cách thật cặn kẽ để có thể biết được và hiểu rõ bản chất thật sự của chúng.
(Xem: 12732)
Ý niệm về kinh liễu nghĩa và kinh không liễu nghĩa song hành với ý niệm về hai sự thật: Sự Thật Tương ĐốiSự Thật Tuyệt Đối.
(Xem: 8821)
Bản-thể-của-Phật còn gọi là Như Lai Tạng, Phật Tính, Pháp Giới, Chân Như... (tiếng Phạn là Tathagatagarbha), là một khái niệm quan trọng của Đại Thừa Phật Giáo.
(Xem: 19891)
Khi gọi là điều đạo đức, người ứng dụng hành trì sẽ cảm thấy có nhu cầu hướng tới, bởi điều đạo đức luôn mang đến hạnh phúc an lành cho con người.
(Xem: 20870)
Bát chánh đạocon đường tâm linh có khả năng giúp cho người phàm trở thành bậc Thánh. Trước hết là Chánh kiến, tức tầm nhìn chân chính...
(Xem: 21419)
Đọc Bát Đại Nhân Giác để trải nghiệm các giá trị cao siêu trong từng nếp sống bình dị, theo đó hành giả có thể tự mình mở mắt tuệ giác, trở thành bậc đại nhân...
(Xem: 13473)
Phật pháp ẩn tàng trong tất cả sự sự vật vật, và con đường giác ngộNhư Lai tuyên thuyết vốn dành cho tất cả chúng sinh có duyên được tiếp cận với đạo Phật.
(Xem: 10585)
Biết thân là huyễn mộng còn khó vứt bỏ huống hồ người chẳng giải ngộ. Nương vào lời Phật mà hành, tự ta mới có thể chuyển mệnh...
(Xem: 9559)
Sáu ba-la-mật là Bồ-tát hạnh. Bồ-tát hạnh gồm có hai sự tích tập: tích tập phước đức là làm lợi lạc cho người khác và tích tập trí huệ là xóa tan bóng tối vô minh...
(Xem: 26800)
Theo giáo lý đạo Phật, không ai có thể siêu độ cho ai, không ai có thể giải thoát cho ai, ngoại trừ chính cá nhân người đó.
(Xem: 10764)
Những Tỷ-kheo trong hội chúng bậc Thánh rõ biết “Đây là khổ”. Vì thấy rõ khổ nên nhàm chán, viễn ly, không tham danh vọng...
(Xem: 12150)
Trung quán tông luận phá mọi kiến giải về Thực tướng, không phải để phủ nhận Thực tướng mà để đưa đến Prajña (trí tuệ Bát-nhã)...
(Xem: 30954)
Đây là bộ sách trích lục những từ ngữ trong phần “Chú Thích” và “Phụ Chú” của bộ sách GIÁO KHOA PHẬT HỌC do chúng tôi soạn dịch...
(Xem: 14159)
Người Phật tử, dù là xuất gia hay tại gia đều không thể sống buông thả, phóng dật. Bởi lẽ, chúng ta nhận thức đời người là vốn quý, cuộc sống lại có hạn.
(Xem: 11172)
Môn Nhân minh học Phật giáo dạy chúng ta tư duy đúng đắn để có nhận thức đúng đắn, là chìa khóa của mọi thành công ở đời.
(Xem: 11112)
Ý thức sâu sắc của người Phật tử đối với tầm quan trọng thực tiễn của hiện tại khiến cho họ năng động hơn, tỉnh táo hơn, làm việc hết mình trong hiện tại.
(Xem: 11260)
Đạo Phật nhắc nhủ chúng ta, muốn giác ngộgiải thoát, đi theo con đường Phật chỉ bày thì phải đi, phải tu, chứ không thể nói suông được.
(Xem: 11656)
Tất cả Phật tử chúng ta hãy sống thiện như những cái cây có bộ rễ toàn hút những chất ngọt trong đất. Nhất định đời sống chúng ta sẽ an lạc hạnh phúc.
(Xem: 12767)
Để dạy Vô ngãVô phân biệt trong khi hành động theo cách phân biệt kỳ thị là không phù hợp lời nói với hành động.
(Xem: 24087)
Kiến thức là gì? Nó đã được thu thập hàng nghìn năm qua hằng bao kinh nghiệm, tích trữ trong trí não như kiến thức và ký ức. Và từ ký ức đó, tư tưởng (thought) phát sanh.
(Xem: 14937)
Hiện tại là giờ phút duy nhất mà mình có thể chọc thủng được bức màn thương đau, bức màn vô minh để có thể tiếp xúc được ngay với an lạc, với hạnh phúc, với tuệ giác.
(Xem: 11658)
Góp duyên để người xuất gia hoàn thành sứ mạng thiêng liêng đồng nghĩa với hạnh nguyện hộ pháp.
(Xem: 20280)
Nếu ai bị ái làm khổ thân mà diệt được thì gọi là cứu cánh, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh an ổn, cứu cánh vô dư (Niết-Bàn).
(Xem: 10625)
Trong các thứ hạnh phúc, được thực tập và sống theo lời Phật dạy là an vui, hạnh phúc lớn nhất. Nhờ đó, ta có được bình yên, hạnh phúc thật sự...
(Xem: 10404)
Muốn vô hiệu hóa cơn giận, trước khi nó bộc phát, Phật dạy ta hãy thường xuyên quán chiếu, xem xét sâu vào nội tâm để ta luôn tỉnh giác từng tâm niệm của mình.
(Xem: 12299)
Xin hãy đọc Kinh điển với tâm sáng suốt thanh tịnh, không vội tin chắc vào bất kỳ điều gì, mà phải nỗ lực thông qua sự hành trì thực nghiệm...
(Xem: 11513)
Sự thật về mọi sự là vô thường, khổ, vô tự tánh, vô ngã, giả hợp, như mộng, như huyễn được đạo Phật gọi là chân lý tuyệt đối, tối hậu (chân đế).
(Xem: 14312)
Cùng với chánh niệm thường trực, tàm và quý chính là hai nhân tố vô cùng quan trọng để mỗi người tự răn nhắc mình hướng thượng và thăng hoa.
(Xem: 11969)
Do định sinh trí huệ, dùng trí huệ này quán sát các pháp sẽ thấy biết như thật, quán sát vũ trụ vạn vật đúng như nó là, không sai sót mảy may.
(Xem: 24675)
Những gì Đức Phật dạy chúng ta, bằng hai con đường: tâm linh và khoa học con người sẽ đạt được cứu cánh giải thoát khỏi tất cả mọi ràng buộc...
(Xem: 12371)
Chúng ta phải cố gắng loại trừ tất cả những cảm xúc tiêu cực và phát triển những cảm xúc tích cực - vô hạn lượng - đặc biệt trong sự thực hành Phật Giáo...
(Xem: 22313)
Để thành tựu được lễ dâng y kathina, người thí chủ cần phải có sự hiểu về tấm y gọi là “Y Kathina” và nghi thức làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng.
(Xem: 12584)
Đối với nhà Phật cho là con người ai cũng có Phật tánh, mà có Phật tánh tức là có tánh tốt.
(Xem: 12736)
Có thể nói, sự hiểu biết đúng đắn thuyết nhân quả nghiệp báo của đạo Phật sẽ tạo cho mỗi người một ý thức trách nhiệm rất cao đối với cá nhân mình và xã hội.
(Xem: 12651)
Đã là người đệ tử thì chúng ta phải tin và hành theo lời dạy của Phật, đó mới đúng là người đệ tử chân chánh, biết tôn sư trọng đạo, hiếu nghĩa trọn vẹn.
(Xem: 16834)
Có một thời gian Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên phụ trách trông coi việc dựng thiền-thất tại vườn Lộc-Dã; một hôm trong lúc Tôn-giả đang đi kinh hành trên khoảng đất trống...
(Xem: 13779)
Bất cứ một hiện tượng nào được phát sinh ra cũng đều phải nhờ vào một sự kết hợp của nhiều nguyên nhân và nhiều điều kiện...
(Xem: 13062)
Cách tốt nhất để vượt thắng những điều không may, hay những thứ xui xẻo hãy tự mình làm nên những công đứcthiền quán về tánh không...
(Xem: 13528)
Nghiệp báo của sự tàn phá môi trường được phản ánh trong cuộc thảm sát đẫm máu bạo tàn dòng họ Thích Ca (Sakyā) bởi lòng hiềm thù mê muội của vua Tỳ Lưu Ly...
(Xem: 12622)
Với người xuất gia, phẩm vị được khẳng định ở giới hạnh chứ không phải ở tuổi tác. Có thể đầu xanh tuổi trẻ nhưng vẫn được tôn trọng cung kính...
(Xem: 14516)
Lòng tin là không nghi ngờ, không thắc mắc, không do dự, trung thành, tín cẩn. Khi nói chuyện với một người, có khi chúng ta tin liền điều người ấy nói...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant