Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhập Trung Đạo: Con Đường Bồ Tát Tích Hợp Đại BiTrí Tuệ (bài 2)

13 Tháng Ba 201615:45(Xem: 7928)
Nhập Trung Đạo: Con Đường Bồ Tát Tích Hợp Đại Bi Và Trí Tuệ (bài 2)
Nguyệt Xứng (c. 570 - 650)
NHẬP TRUNG ĐẠO:
CON ĐƯỜNG BỒ TÁT TÍCH HỢP ĐẠI BITRÍ TUỆ
Khai từ của Nhập Trung Đạo (Bài 2) 

Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc
Bản Anh: Introduction to the Middle Way. Chandrakirti’s Madhyamakavatara with  Commentary by Jamgon Mipham. Translated by The Padmakara Translation Group (2002). Shambhala, 2004.

Nhập Trung ĐạoCon Đường Bồ Tát Tích Hợp Đại Bi Và Trí Tuệ

 

Nguyệt Xứng. Nhập Trung Đạo

Tụng 1

Thanh VănĐộc giác sinh từ chư Tối Thắng (Chư Phật)
Chư Phật sinh từ chư Bồ tát.
Đại bi, tính bất nhị, và tâm Bồ đề  
là những nguyên nhân của chư Tối Thắng Tử (Chư Bồ tát)

Tụng 2

Mùa gặt quả Phật, Đại bi như là hạt giống,
như là nước giúp cho tăng trưởng,
thuần thục hạnh phúc lâu dài,
nên mở đầu tôi ca tụng đại bi!

Tụng  3

Hữu tình nghĩ “Tôi” trước nhất và chấp ngã
Nghĩ “của tôi” và tham ái sự vật
Họ bất lực như thùng nước trong lòng giếng.
Và tôi kính lễ lòng đại bi đối với các hữu tình

Tụng 4

Hữu tình vô thường và chẳng có hiện hữu tự tính,
như mặt trăng trong nước dao động
Trí tuệ của chư Bồ tát hoạt động với năng lực đại bi
để giải thoát hữu tình

____________________

Bản sơ đ Giải thích Nhập Trung Đạo

Khai Từ

I. Ý nghĩa của danh đề
II. Kính lễ của người dịch
III. Bộ Luận

A. Kính lễ của tác giả
1. Ba nguyên nhân của chư Bồ tát (Tụng 1)
2. Ca tụng đại bi

a. Ca tụng đại bi trong ý nghĩa tổng quát (Tụng 2)
b. Ca tụng các loại khác nhau của đại bi
i. Ca tụng đại bi có đối tượng là hữu tình (Tụng3)
ii. Ca tụng đại bi có đối tượng là sự biến dịchđại bi không quy chiếu (Tụng 4).

B. Bộ Luận : Chính Văn của Bộ Luận

Mười Địa hoặc Mười Giai Đoạn của Sự Thật Chứng
Địa thứ nhất, địa thứ nhì,… , địa thứ mười .  
Các Tính đức của Mười Địa
Địa tối hậu: Trạng thái Phật

I. Sự thành tựu Trạng thái Phật 
II. Mục đích, danh hiệu Trạng Thái Phật là gì ?  

KẾT  LUẬN

I. Kết luận của phần chính văn của bộ luận Nhập Trung Đạo
A.  Bản văn được viết như thế nào
1.  Cấu trúc của bản văn
a. Bản văn đặt căn bản trên gì [Tụng 52]
b. Bộ luận, được viết theo phong cách này, tuyệt vời phi thường [Tụng 53]
2.  Tại sao bản văn này được viết
a. Mục đích của nó [Tụng 54]
b. Một mệnh lệnh bảo tồn riêng chỉ bộ luận này [Tụng 55]
B. Sự hồi hướng phúc đức do bởi viết bản văn này [Tụng 56]

II. Kết luận về bộ luận
A. Tác giả của bộ luận
B. Dịch giả bản Tạng ngữ
C. Lời cuối cho bản giải thích -- [Mipham Rinpoche viết]

Lời cuối của các nhà biên tập Tây Tạng  

 ----------------------------------------------------------------------------

KHAI  TỪ

Nhập Trung Đạo (Madhyamakavatara) của Nguyệt Xứng (Chandrakirti) là vua của tất cả các bộ luận, minh giải tri kiến tối hậu của Phật Thích Ca đệ nhị, ngài Long Thọ. Trong bản trình bày của chúng ta, chúng ta sẽ thảo luận bốn chủ đề: ý nghĩa danh đề của luận, kính lễ của người dịch (bản Tạng ngữ), toàn văn luận, và kết luận.

I. Ý nghĩa danh đề của luận

Tên Sanskrit của bản tụng gốc là Madhyamakavatara nama, chuyển sang Tạng ngữ là dbu ma la ‘jug pa zhes bya ba (Introduction to the Middle Way), chuyển sang tiếng Việt là Nhập Trung Đạo. “Trung Đạo”: có hai nghĩa. Thứ nhất, trên phương diện tối hậu, nó quy chiếu tới pháp giới (dharmadhatu), trung đạo tuyệt đối, thực tại tính/pháp tính vượt ngoài tất cả các ý niệm. Thứ nhì, nó quy chiếu tới trung đạo kinh văn, đó là những bản văn giới thiệu thực tại tính / pháp tính tối hậu này.

Ở đây chúng ta quan tâm tới trung đạo kinh văn, nó được chia thành hai tạng: giáo pháp của Phật (Tạng Kinh) và các giảng luận về giáo pháp của Phật (Tạng Luận). 

Ở đây chúng ta đang quan tâm đến bản văn “Nhập Trung Đạo” của Nguyệt Xứng minh giải ý nghĩa “Các tụng căn bản của Trung Đạo” của ngài Long Thọ. Nó là một bản dẫn nhập tổng hình thành hai tiếp cận diệu nghĩa thâm sâu và  thực hành vạn hạnh. Về phương diện diệu nghĩa thâm sâu, nó trình bày giáo pháp của các bản kinh theo ý nghĩa tối hậu, cùng với những chỉ giáo của ngài Long Thọ. “Các tụng căn bản về Trung Đạo” là nền tảng chung của các nhà Trung Quán Tự Trị và Trung Quán Hệ Quả (Svatantrikas và Prasangikas), khi xét để phân biệt các quan điểm của họ. Nguyệt Xứng khi luận giải về bản văn “Các tụng căn bản của Trung Đạo” đã nhấn mạnh vào chính chân lí tối hậu, nó vượt ngoài tầm với của tất cả các luận đề. Thế nên ngài theo tri kiến cao siêu của các nhà Prasangikas (Trung quán Hệ quả; Trung quán cụ duyên). Về phương diện tiếp cận thực hành vạn hạnh, ngài giảng ba  phương diện của người bình thường, mười địa hoặc giai đoạn thực chứng thánh giả trên con đường tu tập của hữu học, và mức độ tối thượng của vô học.

II. Kính lễ của người dịch (bản Tạng ngữ).

Bản văn gốc mở đầu với lời cung kính thỉnh cầu

“Kính lễ Ngài Mạn thù thất lợi vương tử, thuần nhã, diệu đức và thanh xuân vô tận”

(“Homage to Manjushri Kumara – tender, glorious, ever-youthful”). Ngài Mạn thù thất lợi được gọi “thuần nhã”, vì ngài  không có những thô cứng của tính tiêu cực, và ngài là “diệu đức” (“glorious”) trong những thành quả phong phú của hai mục đích (cho mình và cho người). Ngài là “thanh xuân vô tận” (“ever-youthful”), bởi vì, mặc dù là vua của chư Phật, ngài xuất hiện trong hình tướng một Bồ tát, con của Phật. Thế nên, vào lúc khởi sự công trình dịch thuật, với những lời  chào mừng này, người dịch kính lễ giáo pháp tối hậu của A tì đạt ma (Đối pháp tạng), kính lễ ngài Mạn thù thất lợi, theo như khuôn mẫu để giới thiệu là bản văn thuộc về Tạng Luận.

III. Luận văn Chính bản.

Nhập Trung Đạo cũng bắt đầu theo ba phần: kính lễ của tác giả (ngài Nguyệt Xứng), thân luận văn, và kết luận.

A. Kính lễ của Ngài Nguyệt Xứng, tác giả

Diễn từ kính lễ của ngài Nguyệt Xứng gồm có hai mục chính. Thứ nhất, ngài nhận diện các đặc hữu của ba nguyên nhân bồ đề tâmkế tiếp ngài ca ngợi đại bi, thứ nhất ca ngợi tổng quát và kế đến ca ngợi ba phương diện của đại bi theo bảng phân loại.

1. Ba nguyên nhân của các Bồ tát  

Tụng 1

Thanh VănĐộc giác sinh từ chư Tối Thắng (Chư Phật)

Chư Phật sinh từ chư Bồ tát.

Đại bi, tính bất nhị, và tâm Bồ đề 

là những nguyên nhân của chư Tối Thắng Tử (Chư Bồ tát)

Trước hết ngài Nguyệt Xứng nói đến các Thanh văn, những vị lắng nghe những chỉ giáo của Đức Phật, thiện tri thức toàn hảo của họ, và rồi giảng dạy những chỉ giáo này cho những người khác. Kế đó ngài nói đến những vị Độc giác Phật, những vị có phúc đứctrí tuệ rộng lớn hơn các vị Thanh Vănthực chứng mau chóng hơn, nhưng họ thấp hơn Chư Phật và thế nên được định một vị trí trung gian. Các vị Thanh VănĐộc giác sinh khởi từ ngôn ngữ của Phật, Tối Thắng Thánh Giả. Chư Phật kế tiếp được nói là sinh từ chư Bồ tát, quy chiếu về thời điểm đặc biệt khi vị Bồ tát, trên con đường tu tập hữu học, nhập thanh tịnh toàn hảo. Giờ đây ba yếu tốnguyên nhân của chư Bồ tát, những người con của Đấng Tối Thắng: thứ nhất, tâm đại bi, nguyện vọng bảo vệ các hữu tình thoát khỏi đau khổ; thứ nhì, tâm bất nhị, trí tuệ siêu việt thấy vượt ngoài các cực đoan hiện hữu và phi hiện hữu; và thứ ba, tâm bồ đề, tâm giác ngộ. Như Ngài Long Thọ nói trong “Bảo hành vương chính luận” (Ratnavali/ Vòng hoa qúy báu)

Nếu chúng ta và toàn thế giới

Nguyện thành vô thượng giác

Căn bản của nó là tâm bồ đề

An định như núi vua của các ngọn núi

Đại bi đi tới mọi phương trời

trí tuệ vượt ngoài tính nhị nguyên đối đãi.

2. Ca tụng đại bi

a. Ca tụng đại bi trong nghĩa tổng quát

Tụng 2

Mùa gặt quả Phật, Đại bi như là hạt giống,

 như là nước giúp cho tăng trưởng,

thuần thục hạnh phúc lâu dài,

nên mở đầu tôi ca tụng đại bi!

Ngài Nguyệt Xứng bắt đầu ca tụng đại bi một cách tổng quát. Kế đến ngài kính lễ các loại đại bi chuyên biệt. Đại bi được tuyên bố là quan trọng ở mở đầu, ở giữa và ở cuối con đường tu tập. Ở lúc khởi hành, đại bihạt giống cho mùa gặt phong phú của phật quả.  Đại bi cũng quan trọng trong thời kì giữa, là một phương pháp hữu hiệu để tăng trưởng, cũng như nước là chính yếu để nuôi dưỡng mùa màng. Chính là nhờ vào đại bi của mình, các Bồ tát đã không bị thoái lui trong các quyết tâm của mình mặc dù đối diện với vô lượng hữu tình cư xử ác độc, và chẳng hề biết ơn. Sau cùng nói đến đại bi cũng quan trọng ở giai đoạn cuối, vì nó thuần thục thành trạng thái hạnh phúc lâu dài. Kết quả là ngài Nguyệt Xứng cao quý tuyên bố rằng vào lúc khởi đầu ngài sẽ  ca tụng đại bi.

b. Kính lễ các loại khác nhau của đại bi

Kế tiếp Ngài tiến hành kính lễ, thứ nhất đại bi có các hữu tình là đối tượng; thứ nhì, đại bibiến dịch là đối tượng; và thứ ba, đại bi chẳng có quy chiếu.

i. Kính lễ đại bi có các hữu tình là đối tượng (chúng sinh duyên đại bi)

Tụng  3

Hữu tình nghĩ “Tôi” trước nhất và chấp ngã

Nghĩ “của tôi” và tham ái sự vật

Họ bất lực như thùng nước trong lòng giếng.

Và tôi kính lễ lòng đại bi đối với các hữu tình

Trước nhất, có một chấp thủ “Tôi” là một ngã bị đinh ninh là hiện hữu, kế đó sinh khởi ý niệm “của tôi”. Tất cả điều đó được xem là thuộc về ngã này -- tỉ dụ các mắt của bạn -- kế đến được đinh ninh là hiện hữu thực hữu, và sinh ra tham ái với nó. Chính vì điều này mà hữu tình lang thang bất lực trong sinh tử luân hồi, từ Hiện hữu Trời Hữu Đỉnh cho xuống tới Địa ngục Vô gián (= tra tấn không ngừng), như quay theo bánh xe quay dẫn nước tưới ruộng. Ngài Nguyệt Xứng kính lễ đại bi với các hữu tình lang thang như thế. Hình ảnh bánh xe quay dẫn nước tưới ruộng để diễn tả tình trạng chúng sinh có sáu ý nghĩa thích hợp.  

(1) Giống như các thùng nước được buộc dây thừng vào bánh xe quay, các hữu tình bị buộc chặt chẽ bởi các sợi dây của nghiệp và những phiền não.

(2) Sức mạnh dẫn đẩy của thức thì giống như một người đang quay bánh xe nước.

(3) Sinh tử luân hồi thì giống như một giếng sâu, từ cõi trời hữu đỉnh cho tới địa ngục Vô Gián -- một vực thẳm không đáy, mà hữu tình bị ném quăng xuống liên tục.

(4) Giống như những cái thùng nước bị buộc vào sợi dây xích, các hữu tình rơi xuống các cõi thấp hơn một cách tự nhiên, trong khi đó họ được kéo lên các cõi cao hơn với một sự gắng sức lớn lao.

(5)  Các thùng nước trên sợi dây xích giống như mười hai chi duyên khởi: ba chi Vô minh, Ái và Thủ liên quan đến phiền não, hai chi Hành nghiệp và Hữu, liên quan đến nghiệp, và bảy chi khác liên quan đến sinh trong luân hồi. Về ba nhóm này, không thể nói nhóm nào thứ nhất, thứ nhì, hoặc thứ ba, vì chúng tiếp theo nhau không gián đoạn giống như một que lửa quay vòng trong không khí.

(6)  Cuối cùng, ba loại đau khổ (khổ của khổ, khổ của biến dịch, khổ toàn diện do duyên hội) đều giống như các con sóng mà ngày theo ngày làm xao động nước trong giếng, cứ tràn lên nhau không ngừng nghỉ.

ii. Kính lễ đại bibiến dịch vô thường là đối tượng (pháp duyên đại bi) và kính lễ đại bi chẳng có quy chiếu (vô duyên đại bi)

Tụng 4

Hữu tình vô thường và chẳng có hiện hữu tự tính,

như mặt trăng trong nước dao động

Trí tuệ của chư Bồ tát hoạt động với năng lực đại bi

để giải thoát hữu tình

Những hữu tình lang thang đều giống như sự phản chiếu của mặt trăng trong nước xao động bởi gió. Chúng không giống nhau dù chỉ trong một sát na. Ngài Nguyệt Xứng kính lễ đại bi cho họ, đại bi thấy rằng họ đang biến mất mau chóng, nghĩa là, vô thường và do bản chất chẳng có hiện hữutự tính. Khi nói rằng những hữu tình đều giống như mặt trăng được phản chiếu trong nước trong suốt xao động bởi một cơn gió nhẹ, sự phản chiếu và mặt nước giúp phản chiếu đều giống nhau, ở mỗi thời điểm, vô thường và rỗng thông trong bản chất của chúng. Với sự lí hội thông hiểu này, các Bồ tát đều thấm nhuần một lòng đại bi thấy rằng hữu tình bị chìm đắm trong đại hải tri kiến của các tạo tác vô thường, một đại hải kết hợp bởi những dòng sông mênh mông đen thẳm của vô minh. Họ tri nhận rằng trong đại hải này, bị quấy động bởi những ngọn gió của dòng tâm niệm, nguyên nhân của rất nhiều tổn hại, các hữu tình phải đương đầu những hiệu quả của các hành nghiệp thiện và ác của họ, phản chiếu trong đại hải giống như mặt trăng trong đại hải, (tan tác theo sóng nước). Đại bi xem các hữu tình như sát na tan biến theo sát na được gọi là đại bibiến dịch vô thường là đối tượng. Đại bi đặt tiêu điểm trên các hữu tình chẳng có hiện hữutự tính thì dược gọi là đại bi phi quy chiếu.

Tóm lại, ba loại đại bi là:

(1) đại bi có đối tượng là các hữu tình nói chung, theo nghĩa không chỉ định riêng biệt;

(2) đại bi có đối tượng là các hữu tình trong sự biến dịch vô thường; và

 (3) đại bi có đối tượng là các hữu tình chẳng có hiện hữu thực hữu.

Đây là điều nên lí hội thông hiểu rằng ba loại đại bi này đều có một phương diện giống nhau, thái độ mong muốn các hữu tình đều thoát khỏi đau khổ; chúng khác nhau chỉ về các phương diện chuyên biệt của đối tượng.

B. Thân của Luận văn

Thân của luận văn thảo luận ba chủ đề chính: mười địa hoặc mười giai đoạn thực chứng, phẩm tính của mười địa, và địa tối hậu của phật quả.

-------------------------------------------------------------------------------------

Tụng  5

Xuyên qua hồi hướng với đại nguyện Phổ Hiền

Chư Bồ tát an trú trong Hoan Hỉ Địa, địa thứ nhất.

Và từ đây trở đi, đạt được địa này,

họ được gọi là Bồ tát

-----------------------------

Chú thích

1. Bồ tát Phổ Hiền giảng về Đại bi (Kinh Hoa Nghiêm):                                                                              “Bồ tát quán sát chúng sinh không nơi nương tựa mà khởi đại bi. Quán sát chúng sinh tính chẳng điều thuận mà khởi đại bi. Quán sát chúng sinh nghèo khổ không căn lành mà khởi đại bi. Quán sát chúng sinh ngủ say trong đêm dài vô minh mà khởi đại bi. Quán sát chúng sinh làm những điều ác mà khởi đại bi. Quán sát chúng sinh đã bị ràng buộc, lại thích lao mình vào chỗ ràng buộc mà khởi đại bi. Quán sát chúng sinh bị chìm đắm trong biển sinh tử mà khởi đại bi. Quán sát chúng sinh vương mang tật khổ lâu dài mà khởi đại bi. Quán sát chúng sinh không ưa thích pháp lành mà khởi đại bi. Quán sát chúng sinh xa mất Phật pháp mà khởi đại bi…”

2. Bồ tát

Mở đầu pháp thoại Con đường của Phật, OSHO giảng: “Các bồ tát thân mến của tôi. Vâng, đó là cách tôi nhìn vào các bạn. Đó là cách các bạn phải bắt đầu nhìn vào các bạn. Bồ tát là một vị phật trong thể tính, một vị phật trong hạt giống, một vị phật đang ngủ, nhưng có tất cả tiềm năng để thức dậy. Theo nghĩa đó, mỗi người đều là bồ tát, nhưng không phải mỗi người đều được gọi là bồ tát — chỉ những ai đã bắt đầu lần mò tìm ánh sáng, những ai đã bắt đầu ao ước một bình minh, trong những trái tim của những ai hạt giống không còn là hạt giống, nhưng đã trở thành một chồi cây, đã bắt đầu vươn lên.
Các bạn là các bồ tát bởi vì các bạn khao khát ý thức, tỉnh biết hoàn toàncảnh giác về nguy hiểm, bởi vì các bạn tìm kiếm chân lí”

(Con đường của Phật. Quyển 1. Trích dẫn này do Đặng Hữu Phúc dịch)
***
OSHO giảng ở mở đầu The Book of Wisdom. The Heart of Tibetan Buddhism. (p.17)

“Con người sống trong đam mê (passion). Khi tâm trí phân biệt (mind) biến mất, đam mê được chuyển hoá thành đại bi (compassion)
Tinh yếu thứ nhất: thật tướngnhư như (truth is)
Tinh yếu thứ nhì: Hữu tâm/tâm trí phân biệt (mind) là chướng ngại duy nhất
Tinh yếu thứ ba Vô tâmcửa giải thoát.
Ngài Atisa gọi vô tâm là tâm bồ đề [= tâm-Phật; tâm thức - Phật; tỉnh biết; tỉnh biết thanh tịnh]
“No-mind is bodhichitta [=Budha-mind; Budha-consciousness; awareness; pure awareness]”
*
Về câu hỏi “Khi nào con thuyền tới bờ bên kia?” OSHO trả lời. “Không có bờ bên kia, đây là bờ duy nhất chúng ta có. Và không phải là vấn đề đi tới một nơi nào khác, mà chỉ là vấn đề tỉnh biết ở đây và bây giờ. Không bao giờ là ở đó, luôn luôn là ở đây; không bao giờ là vấn đề ở thời điểm đó, mà luôn luôn là bây giờ. Thời điểm này gồm cả tính toàn thể của tính thật tại”. (The Book of Wisdom… p.117)

*

Ngài Tăng Triệu giảng Bổn Vô (= Chân Như), Duyên Hội, Tánh Không, Pháp Tánh, Thật Tướng là cùng một nghĩa.
*
Bồ tát lấy việc trên cầu đạo Bồ Đề, dưới hoá độ chúng sinh làm bản nguyện và lấy tại gia làm điểm xuất phát, ở ngay trong thế gian hoạt động với đời, lấy việc cứu độ làm cơ sở, vì nhu cầu giải thoát chung, cố kiến thiết một thế giới tốt đẹp hơn “

(Đại Thừa Tư Tưởng Luận. Kimura Taiken. Thích Quảng Độ dịch. p.166) - Bồ đề: Giác

3. Kalu Rinpoche giảng về Đại Bi

Ba cấp độ của đại bi.

Có ba loại đại bi: đại bi quy chiếu vào hữu tình, đại bi quy chiếu vào thật tại; và đại bi không quy chiếu. Chúng xuất hiện thứ tự tiếp theo nhau.

Đại bi quy chiếu vào hữu tình (= Chúng sinh duyên đại bi) (compassion with reference to beings) khởi sinh khi chúng ta nhận thức sự đau khổ của những kẻ khác. Đó là loại thứ nhất của đại bi khởi sinh và làm cho chúng ta nỗ lực sâu xa làm mọi thứ chúng ta có thể giúp đỡ những kẻ đang chịu khổ đau. Nó bừng dậy hiển lộ ra khi chúng ta nhận thức được cái đau đớnđau thương của những kẻ khác. (It emerges when we perceive the pain and suffering of the others).

Hình thái đại bi này có đặc tướng (marked) -- chẳng bao giờ có thể vẫn cứ vô-cảm bất-động (unmoved) trước các đau thương của các hữu tình, và -- cố gắng làm tất cả những gì có thể làm được để giúp giảm bớt đi những đau thương cho hữu tình.

Đại bi quy chiếu vào thật tại (= Pháp duyên đại bi) (compassion with reference to reality) khởi sinh khi chúng tamột kinh nghiệm thật sự về năng-lực của vô minh, khi chúng ta thật sự nhận thức được như thế nào các hữu tình tạo lập sự đau thương của chính họ. Đại bi này duyên hội xảy đến khi chúng ta thật sự thấy những kẻ khác gắng sức như thế nào để có có hạnh phúc và tránh đau thương, nhưng do không nhận thức sáng tỏ những nguyên nhân của hạnh phúc và những phương tiện để tránh thoát đau thương, họ tạo ra càng nhiều nguyên nhân của đau thương và họ không có được cái ý niệm về làm thế nào để vun trồng những nguyên nhân của hạnh phúc. Họ bị mù tối do vô minh của họ; những tác ý và tác hành của họ mâu thuẫn lẫn nhau.

Xuyên qua sự hiểu biết sáng tỏ tính như huyễn của thật tại, nhận thức thật sự về tình huống này phát sinh ra loại thứ nhì của đại bi, mạnh mẽ, mênh mông và cơ bản thâm sâu nhiều hơn khi so sánh với loại thứ nhất.

(Through understanding the illusory nature of reality, genuine perception of this situation brings forth this second type of compassion, which is more intense and profound than the first kind.)

Đại bi không quy-chiếu (= Vô duyên đại bi) (compassion without reference) không chấp thủ ý niệm về chủ thể, khách thể, hoặc ý định; đó là sắc tướng tối thượng của đại bi của một vị phật hoặc của đại bồ táttùy thuộc vào sự thật chứng tính không. Chẳng bao giờ có bất cứ một quy chiếu tới một “ta” hoặc “kẻ khác”.

(Compassion without reference retains no notions of subject, object, or intention; it is the ultimate form of a buddha‘s or great boddhisattva‘s compassion and depends upon the realization of emptiness. There is no longer any reference to a “me” or “other”)

Đại bi này khai mở tự nhiêntức thời. Thật là điều quan trọng cho chúng ta: để trở nên quen thuộc với ba loại đại bi này, để nhận biết sáng tỏ thứ bậc của chúng, và để bắt đầu sinh hoạt ở mức độ thứ nhất, mức độ chúng ta có khả năng đi vào nhiều nhất.

(Trích từ: Kalu Rinpoche. Tính Không, Tâm của Đại Bi. Thư Viện Hoa Sen.org)

Phụ Bản : Chủ nghĩa Hư vô

Phật Quang Đại Từ Điển, Thích Quảng Độ dịch, in 2000, 6 quyển 7374 trang + quyển Mục lục.

Chân như: Sanskrit: bhuta-tathata; tathata. Chỉ cho bản thể chân thực tràn khắp vũ trụ; là nguồn gốc của hết thảy muôn vật.
Còn gọi Như như, Như thực, Pháp giới, Pháp tính, Thực tế, Thực tướng, Như lai tạng, Pháp thân, Phật tính, Tự tính thanh tịnh thân, Nhất tâm, Bất tư nghị giới….
Trong sách Phật Hán thời kì đầu dịch là:
Bản Vô. Chân, chân thật không hư dối; Như, tính của sự chân thật ấy không thay đổi….

Hư Vô chủ Nghĩa (Nihilism): Chủ nghĩa phủ định tất cả đạo đức, tập quán, chế độ, tôn giáo, hoặc chân lí, giá trị của bất cứ sự vật gì.

Theo “Patrul Rinpoche. Lời vàng của Thầy tôi”. Bản dịch 2008, http:/vietnalanda.org. thì

“Những người theo chủ nghĩa thường hằng (eternalism) tin là có một cái ngã thường hằng và một đấng tạo hoá (tạo lập thế giới) hiện hữu vĩnh cửu bên ngoài ta, chẳng hạn như các vị thần Isvara và Vishnu.
“những người theo thuyết hư vô (nihilism) tin rằng tất cả sự vật hoàn toàn tự phát, không có đời quá khứ hay đời vị lai, không có nghiệp quả,không có tự dogiải thoát

“ Có 360 biểu từ vọng kiến (false view) và 62 biểu từ tà kiến (wrong view) (biểu từ = statement), có thể gộp chung thành hai nhóm: chủ nghĩa thường hằngchủ nghĩa hư vô (hư vô = đoạn diệt; chấm dứt, không có gì cả).

Theo quan điểm hành động không tạo nghiệp quả thì thiện hạnh không đem lại lợi ích, và ác hạnh không đem lại tổn hại.”

Nếu bạn có một thoáng chút ý niệm về danh từ chân như, bạn sẽ biết bản chất của bạn là tính Bản Phật Phổ Hiền (Nature of Primordial Buddha Samantabhadra) (Phổ Hiền= All- around Goodness).

Như vậy bạn chấp thuận, tùy thuận, và hỗ trợ (blessing) cho chính cuộc đời bạn, cuộc đời của kẻ khác, hiện hữu tồn sinh, và bạn chung vui xẻ buồn với mọi người, với vạn hữu, chung lưng đấu cật với mọi người để chống lại các thảm họa do con ngườithiên nhiên gây ra (do vô minh, do duyên khởi) và bạn đem lại an-ổn-không-sợ-hãi cho mình, cho người (benediction: vô uý thí) Như thế bạn không bước tới hư vô.
Và bạn đôi mắt không long lanh giọt lệ thiên thu.

Một thoáng ý niệm về chân như, giúp bạn nhận thức bạn vốn là đấng phúc đức, tốt lành, thiện hảo, bạn đã gặp chính mình (encounter yourself), gặp bản lai diện mục, “ta về gặp lại tình ta, dấu chân viễn mộng chỉ là phù vân” . Mong các bạn hiểu là

“Đam mê là khao khát mê say.
Đại bithương yêu quý mến.
Đam mêlòng dục (tham), đại bi là vô dục (vô tham).
Đam mê muốn sử dụng người khác như một phương tiện.
Đại bi tôn trọng người khác như một cứu cánh nơi chính mình.
Đam mê tiếp tục trói bạn vào mặt đất vào bùn nhơ, và bạn chẳng bao giờ thành một đoá sen.
Đại bi làm bạn trở thành một đoá sen.
Bạn bắt đầu vượt lên trên thế giới bùn lầy của dục vọng, tham lam, sân hận.
Đại bi là sự biến hoá của các năng lượng của bạn…
Bạn trở thành một sự tuỳ thuận, chấp thuận, và hỗ trợ cho chính bạn và toàn thể tồn taị”
(Osho. Đại Bi. Compassion.1985. Reprinted 2006)

Đã từ nhiều năm nay, những người theo chủ nghĩa hư vô, chủ trương thiện hạnh không đem lại lợi ích, ác hạnh không gây tổn hại, và hành động không tạo nghiệp quả, đã đem lại rất nhiều đau thương cho con người và môi trường sinh sống.

 Ngài Vô Trước (Asanga 375-430) giảng: “Si, Ngu si, Vô minh, Vô trí, Vô kiến, Phi hiện quán, Hôn muội, Hắc ám…là đồng nghĩa”.

Vô minh là xem ta và kẻ khác là hai, không phải là một, ta và thế giới là hai, không phải là một, thế nên cứ thoải mái gây tổn hại cho kẻ khác, cho môi trường sinh sống… cho ta một cái nhìn sâu sắc về đời sống Việt Nam hiện nay dưới ảnh hưởng của Si, Ngu si, Vô minh, Vô trí, Vô kiến, Phi hiện quán, Hôn muội, Hắc ám...

Cơ trời vận nước, biết đâu lường!

Nhìn đến dân tình, đứt ruột thương!

Gái dệt hở vai, manh áo bạc!

Trai cày lép bụng, bát cơm vàng!

Phá nhà, người sợ quân đầu núi,

Lả chết, ai chôn xác dọc đường?

Nghĩa nặng ơn sâu, chưa báo đáp!

Đèn xanh một ngọn, lệ muôn hàng!

(Nhượng Tống. Tận Trung Báo Quốc. Ca kịch chèo cổ.

http://www.talawas.org/?p=26179)

Nhân dịp năm mới, thân chúc các bạn một năm mới vui vẻ, mạnh khoẻ, đứng vững trên tính thiện của mình, trên đất nước khốn khổ, “càng yêu càng khổ, càng khổ càng yêu”

“Bể đổi, dâu thay, ngày biến chuyển,
Trời kinh, đất nghĩa, một cương thường!
Kể việc nước thì thật là nát bét!
Dân không nước, nước không hồn
Nhưng nếu giang sơn không có bất bình
Trời biển đâu có mượn chúng mình vá lấp

Mặc nhân dân khóc sớm kêu trưa?
Mặc cho non sông bùn nhơ bụi phủ?
Nếu cứ khoanh tay đứng, bỏ tay ngồi,
Với đất nước chúng ta là kẻ có tội!
Dưới mái nhà lửa đã đốt đầu
Vậy mà phường cẩu trệ vẫn tranh nhau xôi thịt!

Nghĩ, càng nghĩ, càng căm, càng tủi!
Tằm già, thương kén chẳng thành tơ!
Còn chúng ta, chúng ta có làm sao cứu vớt giúp nổi
Hay đành sấp mặt mãn đời nô lệ ?
(Trích dẫn và kết hợp theo thứ tự mới — từ Nhượng Tống. Tận Trung Báo Quốc)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2707)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
(Xem: 2028)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 3033)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2646)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3553)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3379)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4219)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3736)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
(Xem: 4276)
Khi chúng ta mới học lần đầu rằng cứu cánh của sự tu tập đạo Phật có tên gọi là Nibbana (Nirvana, Niết-bàn),
(Xem: 2360)
“Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác.
(Xem: 3530)
Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn.
(Xem: 4213)
Tâm là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về “điều gì” luôn luôn thay đổi, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác.
(Xem: 3997)
“Cánh cửa bất tử đã mở ra cho tất cả những ai muốn nghe”, đây là câu nói của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ.
(Xem: 2921)
Trong các kinh thường ví chân tâm là viên ngọc, như viên ngọc như ý, viên ngọc ma ni, lưới Trời Đế Thích…Bài kệ này chỉ thẳng Viên Ngọc Tâm
(Xem: 3409)
Trong Nguồn thiền, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Người ngộ ngã pháp đều không, hiện bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”.
(Xem: 3530)
Trong Kinh Văn Thù quyển hạ có chép: Ngài Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn thì đệ tử của Ngài phân hóa bộ phái như thế nào?
(Xem: 4591)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 3933)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”
(Xem: 4817)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 4084)
Mất 11 năm khổ công tầm đạo, Đức Phật Thích Ca đã đạt đại giác ngộ sau 49 ngày quyết tâm thiền định dưới cội cây bồ đề.
(Xem: 3064)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”...
(Xem: 3805)
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao?
(Xem: 3953)
Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô trụ, tánh tướng tịch nhiên, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt.
(Xem: 3125)
Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phậtdi giáo tối hậu cho các chúng đệ tử: “Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.”
(Xem: 3649)
Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN).
(Xem: 4497)
Đức Phật, một nhân vật lịch sử 3000 năm về trước, ra đời tại Bắc Ấn, là bậc giác ngộ toàn triệt, là bậc đạo sư với nghi biểu đặc biệt xuất hiện ở đời.
(Xem: 3763)
Con người sanh ra để hưởng thụ qua lục dục như tài, sắc, danh, thực, thùy (Ngủ nghỉ), .v.v. Con người trải qua một chu kỳ già, bệnh và cuối cùng là chết.
(Xem: 2306)
Nguyên bản: Teachings On The Eight Verses On Training The Mind. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Anh dịch: Thupten Jinpa. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 2668)
Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được.
(Xem: 3073)
Kinh Tiểu Duyên (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp.....
(Xem: 2761)
Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất.
(Xem: 4634)
“Thiên đường có lối sao chẳng đi Địa ngục không cửa dấn thân vào”
(Xem: 4978)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 2870)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê,
(Xem: 5379)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 2897)
Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật.
(Xem: 3335)
Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất.
(Xem: 4421)
Nguyên tử giải phóng trở thành nguyên tử năng là đánh dấu thời đại đại phát minh của nhân loại. Là họa hay là phước tạm thời không bàn luận đến.
(Xem: 4983)
Luân hồinhân quả là hai sự kiện tương quan. Bởi chúng sanh còn nghiệp trái của nhân quả thiện ác nên mới bị luân hồi.
(Xem: 4746)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 3289)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa...
(Xem: 4594)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 4317)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 6183)
Mùa xuân là dịp để trở về, dừng bước chân hoằng hóa để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời.
(Xem: 3541)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
(Xem: 4081)
Trước đây rất lâu từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phật giáo không biết làm giàu.
(Xem: 6058)
Trong không gian mênh mông của vườn kinh điển Đại Thừa, Diệu Pháp Liên Hoa là đoá hoa vi diệu nhất mà chính Đức Thế Tôn đã ca ngợi
(Xem: 5455)
Trong cuộc sống, nếu một người mất đi niềm tin sẽ trở nên vị kỷ, bất cần và gặt hái khổ đau, dễ dàng bị tác động vào những...
(Xem: 4107)
Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy.
(Xem: 33335)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 3213)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết.
(Xem: 4201)
Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này
(Xem: 4771)
Kinh Biệt Giải Thoát Giới - tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya
(Xem: 3136)
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục.
(Xem: 3852)
Có nhiều bài kệ rất hay khi xướng lên hay khi tán tụng; hoặc giả khi mạn đàm Phật Pháp; nhưng cũng có lắm bài kệ...
(Xem: 3589)
Từ nhỏ, lúc mới vào chùa khi 15 tuổi của năm 1964 và năm nay 2020 cũng đã trên 70 tuổi đời và hơn 55 năm sống trong Thiền Môn
(Xem: 6607)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 2818)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
(Xem: 3272)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
(Xem: 4636)
Phật tại thế thời ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân Phật diệt độ, Áo não tự thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant