Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Những Ẩn Số Huyền Bí

24 Tháng Ba 201616:21(Xem: 10435)
Những Ẩn Số Huyền Bí

Những Ẩn Số Huyền Bí

 

Lê Huy Trứ

Những Ẩn Số Huyền Bí

 

 “In my Heart Sutra’s view, one plus one equals three , and two minus one equals emptiness ().”  Tru Le

 

Nhị nguyên nhi sinh tam thừa (phải tráitrung đạo,)  và 1= Sắc =  = Không.  Nên nhớ định đề Bát Nhã: Không không phải Không mà là Không.

 

Như đã chứng minh trong bài Chân Kinh & Toán Học: 1 + 1 = 3, và 2 -1 = 0.

 

Trong Khám phá ‘Ý nghĩa của những con số,’ Tác giả: Shenyun, Dịch giả: Nhóm biên tập Việt Nguyên, 10 Tháng 12, 2014 viết: “Có một sự khác biệt lớn giữa 10000 và 9999 cộng 1. Trong khi 9999 được xem là một con số “hòa nhịp” với “tâm hồn Đông phương” hơn là một dãy số khó hiểu gồm bốn con số 0 và một con số 1.”

 

Nhà nghiên cứu Alex Bellos cho biết, "Con số không đơn giản để đếm mà nó còn đại diện cho tính cách của mỗi con người.  Sự yêu thích con số nào sẽ tiết lộ về sở thích, suy nghĩ, tính cách con người bạn.  Bởi vậy, tìm hiểu con số yêu thích của mỗi người luôn là một chủ đề hấp dẫn." 

 

Trong nền văn hóa 5000 năm của con người, mỗi con số không đơn thuần chỉ là con số khô khan mà tất cả con số đều có một ý nghĩa đặc biệt của vũ trụ huyền bí.

 

Theo tôi những ẩn số dưới đây còn là những mật mã của lý nhân duyên với ẩn ý tâm linh đầy khoa học huyền bí của vũ trụ chứ không phải tự nhiênchúng ta thích, chọn và dùng chúng trong đời sống.

 

Số 3

 

Trong Phật Giáo, con số 3 gắn liền với 3 giai đoạn quan trọng trong cuộc sống của chúng sinh.  Tuy thường nói sinh lão bệnh tử chứ thật ra chỉ có 3 là Sinh-Lão-Tử vì bệnh lão = lão bệnh tuy 2 chỉ là 1.

 

Phật tử thắc mắc đã hỏi tại sao lại có lệ thắp 3 nén hương? Với con số 3 cũng như 84000 pháp môn nầy, tôi chưa thấy kinh sách nào giải thích rõ ràng.  Tôi nghĩ chỉ có mình tôi không biết tại sao có tới tám vạn 4 ngàn pháp môn?

 

Dù có nghe giảng đó chỉ là con số tượng trưng nhưng đã nói là tượng trưng, thì ai cũng có thể nêu ra bất cứ con số nào cũng được cả.  Dĩ nhiên bây giờ nhất là những chùa ở hải ngoại trong những lễ lược lớn có nhiều người cúng lại trong chánh điện thì thường thắp một cây hương thay vì 3 nén hương thì chúng ta cũng hiểu tại sao rồi.  Tuy nhiên, con số 3 này có thể là con số “Tam vô lậu học?”  Giới hương, Định hương và Huệ hương? Hay số 3 còn tượng trưng cho 1) Sinh, 2) [Lão +Bệnh], 3) Tử.  Lão và Bệnh thì cũng như là một, nên chỉ có Sinh-Lão-Tử?

 

Đối với các tôn giáo khác, số 3 được sử dụng để đại diện cho các tầng trời.  Số 3 cũng có ý nghĩa được nhắc đến không chỉ trong Ba ngôi nhất thể, mà còn trong Ba nhà thông thái và trong kiến trúc nhà thờ.  Trong Kito giáo, số 3 đại diện cho Thiên Chúa Ba Ngôi - Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thành Thần.

 

Số 3 cũng có ý nghĩa quan trọng trong thần thoại Bắc Âu. Ví dụ, Thor đã sử dụng ba vũ khí chính để chống lại những người khổng lồ.

 

Ngoài ra, 3 điểm tạo ra mặt phẳng, ghế 3 chân, thế chân vạc, tam quốc, tinh-khí-thần hợp nhất, ...cho nên con số 3 này rất bí ẩn và đầy thú vị đối với chính ta.

 

Số 7

 

Khi sinh ra, Đức Phật bước 7 bước, nở ra 7 đoá sen.  

 

Những Ẩn Số Huyền Bí

Số 7 rất có ý nghĩa trong Phật giáo.

 

 

Theo Kinh thánh, Thiên Chúa là đấng đã sáng tạo ra vũ trụ, muôn loài trong 6 ngày và ngày thứ 7 Ngài nghỉ ngơi. Truyền thống của người Do Thái cho rằng, số 7 là số thông minh và họ có 7 ngày Thánh lớn trong năm.

 

Người thực hiện nghiên cứu Alex Bellos cho biết: "Sở dĩ nhiều người tỏ ra tôn kính với số 7 là bởi nó mang nhiều ý nghĩa trong suốt lịch sử con người và có tính độc đáo rất riêng".

 

Trong 10 số tự nhiên cơ bản, số 7 là số chỉ chia hết cho 1 và chính nó. Không như các số 6,8,10 chia được cho 2 và 9 chia hết cho 3.

 

Con số 7 còn tượng trưng cho sự thành tựu sinh hóa cả vũ trụ không gian là Đông, Tây, Nam, Bắc; thời gianquá khứ, hiện tại, tương lai.  Đây cũng là con số thường xuyên được nhắc đến trong các nền văn hóa, lịch sử như 7 kỳ quan cổ đại của thế giới, 7 ngày trong tuần, 7 vòng tròn của vũ trụ hay cầu vồng có 7 màu sắc (đỏ, vàng, cam, lục, lam, chàm, tím); âm nhạc có 7 nốt (đồ, rê, mi, pha, son, la, si.)

 

Các cụ thường nói: uốn lưỡi 7 lần trước khi nói; trai uống 7 hớp nước, gái 9 hớp nước sẽ hết bị ‘nất cụt;’ và đêm 7 ngày 3 ra vào không kể cho những kẻ ái dục tình?

7x7 = 49, con số này được dùng nhiều trong các buổi tang lễ tại Trung Quốc. Theo quan niệm, hồn ma sẽ vất vưởng tại dương gian trong vòng 49 ngày sau khi tạ thế. Luật lệ truyền thống quy định phải hành lễ cầu kinh đến khi họ siêu thoát.

 

Trong The Conversation, Steve Humble MBE là nhà nghiên cứu về phát triển và giáo dục quốc tế, và là trưởng khoa Sư phạm Toán bậc Tiểu và Trung học tại Đại học Newcastle, Anh viết, “Năm 1956, nhà tâm lý học George A Miller xuất bản một bài viết trong Tạp chí Tâm lý Học với tiêu đề “Số bảy kỳ diệu, cộng hoặc trừ hai. Trong bài viết, ông nói về số 7, là một số nguyên tố mà ông gặp ở nhiều nơi. Ví dụ, trong tôn giáo, rất nhiều điều liên quan tới số 7, như Bảy tội đáng chết, Bảy lời thề. Còn những người bán hàng tin vào “quy tắc số 7”, nói rằng người ta cần nghe một thông điệp bán hàng bảy lần trước khi có hành động. Tuy nhiên, Miller nói rằng đây không đơn thuần là sự trùng hợp.

 

Ký ức ngắn hạn của chúng ta được chứng minh là có hiệu quả tốt khi nhớ tối đa 7 điều. Chúng ta có thể phân biệtđánh giá về bảy chủng loại khác nhau. Tầm chú ý của chúng ta cũng sẽ nhớ được khoảng bảy vật thể khi liếc mắt. Miller cũng khám phá các lĩnh vực khác liên quan tới việc chúng ta ghi nhận và lưu giữ thông tin và ngạc nhiên phát hiện rằng số bảy dường như xuất hiệnmọi nơi. Tóm lại, Miller không đưa ra kết luận rằng điều này có ý nghĩa gì sâu sắc, nhưng nói rằng rất có thể số bảy đặc biệt hơn những gì chúng ta vẫn tưởng và cần nghiên cứu thêm.”

 

Số 142857 

Đây có lẽ là số vòng (cyclic number) nổi tiếng nhất trong hệ thập phân. Khi nhân 142857 với các số từ 1 đến 6, kết quả đều là sự hoán và dịch chuyển của 142857, riêng nhân với số 7 thì kết quả sẽ là 999999.

Những Ẩn Số Huyền Bí 2

Chắc có lẽ chúng ta sẽ thắc mắc rằng với những số lớn hơn 7 thì quy luật này sẽ tiếp diễn như thế nào? Đây có lẽ là tính chất khiến cho số 142857 trở nên cuốn hút hơn nữa: chúng ta hãy lấy 6 chữ số ngoài cùng bên phải của kết quả, cộng với phần còn lại ở bên trái, liên tục cho đến khi kết quả là một con số có 6 chữ số.  Chúng ta sẽ ngạc nhiên về kết quả của phép cộng liên tục này sẽ luôn là 1 trong 7 chữ số nêu trên. Ví dụ như:

                                                                2015 * 142857  = 287.856855

                                                                 287 + 856855 = 857142

hay như                                        20152015 * 142857  = 2878856.406855

                                                        2878856 + 406855 = 3.285711

                                                                      3 + 285711   = 285714

Ở một khía cạnh khác, cũng đặc biệt không kém: 142857 là phần thập phân vô hạn tuần hoàn của 1/7, có nghĩa là: 1/7 = 0.142857142857142857… Hay là điều huyền bí vốn xuất phát từ số 7? Phải chăng triết lý trong Phật giáo coi trọng số 7 là hoàn toàn có cơ sở?

Số 8

Con số 8 này tương tự như 8 điều bất tử trong đạo Lão hay Bát Chánh Đạo trong Phật Giáo tưởng chừng như hết sức đơn giản, nhưng ít ai biết được một quy luật rất độc đáo của số 8 như một vòng nhân duyên, đếm từ 1 đến 9 rồi từ 9 đến 1:

Những Ẩn Số Huyền Bí 3

Số 8 được cho là biểu tượng của vô cựcthiên đường. Theo quan niệm của người Trung QuốcViệt Nam, số 8 có nghĩa là tốt đẹp, mọi thứ đều phát triển không có điểm dừng tượng trưng cho sự giàu cómay mắn mãi trường tồn.  Con số 8 được tin là rất may mắn trong lĩnh vực kinh doanh.  Cặp số 8 (88) thường được dùng trong buổi hôn lễ nhằm thể hiện niềm hân hoan và cặp đôi được hạnh phúc.  Số 8: Phiên âm là ba (bát), số 8 trong tiếng quảng đông phát âm gần giống chữ phát (phát tài), trong dịp năm mới họ thường chúc nhau 8 chữ: “Chúc mừng năm mới, cung hỷ phát tài!”

Ở phương Tây, số 8 là con số của tính hiệu quả, quyền lực, sức mạnhtôn kính. Nó đại diện cho sự thành côngthịnh vượng.

Số 18, 36, và 108

 

Trong Phật học thì con số 108 tượng trưng cho 108 phiền não (Kleśā) của con người. Lục giác (thị giác, thính giác, vị giác, khứu giác, cảm giác, và thức giác) nhân làm ba, tức ba loại phản ứng (lạc, khổ, vô ký) thì ra con số 18. Mười tám nhân hai, tức hai thể (thiện hay bất thiện) thì có con số 36. Ba mươi sáu nhân ba, tức ba thời (quá khứ, hiện tại, và vị lai) thì là con số 108 phiền nãoNgoài ra trong Tây Du Ký, còn có 36 phép thần thông của Nhị Lang Thần Dương Tiển, và 72 (36x2=72) phép biến hóa của Tôn Ngộ Không.

 

Phật giáo Việt Nam thì giải thích là khi lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) không thanh tịnh vì thiếu lục thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thứcý thức) thì dễ bị dao động bởi lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp). Sáu căn, sáu trần, và sáu thức cộng lại, thành ra thập bát giới (18). Con số này nhân cho sáu phiền não căn bản (tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến) thì là số thành 108 (18x6 =108).

 

Những suy luận sau đây từ wikipedia chỉ là phỏng đoán chứ không có nguồn dẫn chứng:

 

Chuỗi 108 hạt là biểu thị cho cầu chứng 108 pháp Tam Muội mà đoạn trừ 108 phiền não?

 

Chuỗi 54 hạt là biểu thị cho 54 cấp vị quá trình tu hành của Bồ Tát, tức là Thập Tín, Thập Trú, Thập Hạnh. Thập Hồi Hướng, Thập ĐịaTứ Thiện Căn Nhân Địa?

 

Chuỗi 42 hạt là biểu thị cho 42 cấp vị quá trình tu hành của Bồ Tát, tức là Thập Trú, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập ĐịaĐẳng Giác, Diệu Giác?

 

Chuỗi 27 hạt là biểu thị cho 27 cấp vị của Tiểu Thừa tu hành Tứ Hướng Quả, tức là 18 bậc Hữu Học của Tứ Hướng Tam Quả trước, với 9 bậc Vô Học của Đệ Tứ Quả A La Hán?

 

Chuỗi 21 hạt là biểu thị cho 21 vị, tức là Thập Địa, Thập Ba La Mậtquả vị Phật?

 

Chuỗi 14 hạt là biểu thị cho 14 Pháp Vô Úy của Bồ Tát Quán Thế Âm?

 

Chuỗi 1.080 hạt là biểu thị cho 10 cảnh giới, mỗi cảnh giới đều có 108, cho nên cộng thành 1.080?

 

Chuỗi giải thích cuối cùng về 10 cảnh giới của Phật Giáo trên này theo tôi thấy thì nó tình cờ trùng hợp với 10 + 1 chiều không gian (dimensions, cảnh giới, cõi) của Vật Lý Gia Stephen Hawking?

 

Những con số đầy thú vị khác

 

Tiến sỹ Curtis Cooper thuộc Đại học Central Missouri đã tìm ra số nguyên tố lớn nhất được biết tới: (274207281) – 1. Nó có độ dài khoảng 22 triệu chữ số và nếu in ra đầy đủ sẽ phải mất vài ngày để đọc xong. Việc phát hiện ra số này là nhờ công trình hợp tác của những tình nguyện viên sử dụng phần mềm miễn phí GIMPS (Bộ tìm kiếm số nguyên tố lớn qua Internet – Great Internet Mersenne Prime Search) để tìm kiếm các số nguyên tố.

Một số chỉ chia hết cho số 1 và chính nó được gọi là số nguyên tố. Đây là danh sách các số nguyên tố nhỏ hơn 100:  2, 3, 5, 7, 11, 13, 17, 19, 23, 29, 31, 37, 41, 43, 47, 53, 59, 61, 67, 71, 73, 79, 83, 89, 97.

In ‘The 22 million digit number … and the amazing maths behind primes,’ January 20, 2016 11.40am EST, The Conversations: “It is a quite extraordinary figure. Dr Curtis Cooper from the University of Central Missouri has found the largest-known prime number – written (274207281)-1. It is around 22m digits long and, if printed in full, would take you days to read. Its discovery comes thanks to a collaborative project of volunteers who use freely available software called GIMPS (Great Internet Mersenne Prime Search) to search for primes.

A number which can only be divided by itself and 1 without a remainder is called a prime number. Here is a list of the primes less than 100: 2, 3, 5, 7, 11, 13, 17, 19, 23, 29, 31, 37, 41, 43, 47, 53, 59, 61, 67, 71, 73, 79, 83, 89, 97.”

 

Số 13 Xui Xẻo

 

Các con số xuất hiệnmọi nơi trong cuộc sống của chúng ta, và nhiều niềm tin vô cớ – cả xấu lẫn tốt – đã xuất hiện từ những con số. Điều đáng lưu ý là những con số gắn với niềm tin vô cớ ấy hầu như đều là số nguyên tố.  Niềm tin rằng số 13 không may mắn, đặc biệt là có những người mắc chứng sợ Thứ Sáu ngày 13. 

 

Lời giải thích phổ biến nhất cho số 13 không may mắn nói rằng tại bữa ăn cuối cùng có Đức Chúa Jesus và 12 tông đồ, người khách thứ 13 là Judas Iscariot, sau này đã phản bội Đức Chúa Jesus.

 

Giải thưởng cho những nhà nghiên cứu

 

Các nhà toán học đã tìm kiếm những quy luật trong các số nguyên tố hơn 3000 năm qua nhưng chỉ có được một chút hiểu biết. Họ tin rằng sẽ vẫn còn rất nhiều các quy luật của các số nguyên tố vẫn chưa được tìm ra. Phát hiện gần đây là sự tiếp nối của cuộc tìm kiếm đó.

 

Viện toán học Clay đang treo giải 1 triệu Đô la Mỹ cho bất kỳ ai có thể giải được “Bài toán Riemann.” Đây là một bài toán đố phức tạp xuất phát từ những nỗ lực của các nhà toán học trong việc tìm hiểu sự rắc rối của số nguyên tố. Và vì vậy, một số người cho rằng tìm ra các số nguyên tố lớn hơn có thể giúp tìm được lời giải cho bài toán này.

 

Hoặc có thể bạn đang tìm kiếm “sự thật”, điều mà các nhà toán học đã và đang làm từ rất lâu. Erastssthenes là một nhà toán học Hi Lạp làm việc tại thư viện tại Alexandra khoảng năm 200 Trước Công nguyên khi ông phát hiện ra phương pháp đầu tiên liệt kê các số nguyên tố.

 

Ông là người hiếu học (ông thường được gọi là Philogus, có nghĩa là “Người hiếu học”). Ông gọi phương pháp của mình là “cái sàng,” vì số nguyên tố sẽ xuất hiện khi áp dụng phương pháp này – và nó mang màu sắc “sàng lọc” số nguyên tố.

 

Trước hết hãy lưu ý rằng nếu n là hợp số, nghĩa là n=ab, thì a và b không thể cùng vượt quá √n. Ví dụ, với hợp số “21”— 21=3×7— chỉ có số 7 là lớn hơn √21 = 4.58. Vì thế, ông kết luận rằng bất kỳ hợp số n nào đều có thể chia hết cho một số nguyên tố p không vượt quá √n.

 

Theo đó để kiếm tra một số có phải là số nguyên tố hay không, chỉ cần chia số đó cho các số nhỏ hơn hoặc bằng căn bậc hai của nó. Để tìm ra số nguyên tố từ 2 tới 30, chúng ta chỉ cần sử dụng thực tế là √30 nhỏ hơn 7, và sau đó thử chia cho các số nguyên tố 2, 3 và 5.

Vì vậy, nếu bạn viết ra danh sách các số từ 2 tới 30 lên một tờ giấy, chúng ta có thể “sàng lọc” bỏ đi các số chia hết cho 2,3 và 5 thì chúng ta sẽ được các số nguyên tố là 2,3,5,7,11,13,17,19,23 và 29.

 

Định lý cuối cùng của Fermat (Fermat's Last Theorem)

 

Định lý cuối cùng của Fermat (Fermat's Last Theorem) được đưa ra bởi nhà toán học người Pháp Pierre de Fermat vào năm 1637.  Hiểu một cách đơn giản, định lý này phát biểu: "Không tìm được bộ ba số nguyên, tôi gọi là tam nguyên, x, y, z nào thỏa mãn đẳng thức: xn + yn =zn với bất kỳ số tự nhiên n, n>2."

 

Một giáo sư Oxford, Anh Quốc, Sir Andrew Wiles mới đây đã được trao giải thưởng Abel cùng 700.000 USD cho công trình nghiên cứu chứng minh một trong những định lý toán học nổi tiếng nhất có tuổi gần 4 thế kỷ.

 

Vào những năm 1960, khi mới 10 tuổi, cậu bé Andrew Wiles đã bị ám ảnh bởi một cuốn sách ở thư viện địa phương với tựa đề The Last Problem. Cuốn sách này trình bày chi tiết một định lý có tới 330 năm tuổi nhưng lại chưa được chứng minh: Định lý cuối cùng của Fermat, hay còn gọi là Định lý lớn Fermat (Fermat's Last Theorem - FLT)

 

 Những Ẩn Số Huyền Bí 1

Giáo sư Andrew Wiles cùng phương trình Fermat vào năm 1998. Ảnh: Charles Rex Arbogast / AP

 

Nhiều thập kỷ đã qua, cậu bé 10 tuổi ấy giờ là Giáo sư toán học tại Đại học Oxford (Anh), mới đây đã được trao tặng giải thưởng Abel 2016, một giải thưởng được ví như giải Nobel toán học bởi chính điều đã thu hút ông từ khi còn là một cậu bé.

 

Giải thưởng này được trao bởi Viện Hàn lâm Khoa học và Văn chương Na Uy cùng với một khoản tiền mặt hơn 70.000 USD, trong đó, những người bình xét giải thưởng đã mô tả về thành tựu của giáo sư Wiles như là "một thời khắc lịch sử của ngành toán học."

 

Các số bí ẩn khác

 

Số nguyên tố là các con số kỳ lạ và khêu gợi trí tò mò. Ví dụ, không có số nguyên tố nào giữa 370.261 và 370.374, hoặc giữa số 20.831.323 và 20.831.533. Còn các số nguyên tố 13.331, 15.551, 16.661, 19.991, 72.227 và 1.777.771 là những ví dụ về các số đọc xuôi ngược đều như nhau. Các số này không đổi khi chữ số được đảo từ cuối lên đầu.

 

Số 9

Số 9 cũng ẩn chứa một quy luật không kém phần ngạc nhiên.  Số 9: Trong tiếng Trung Quốc, 9 được phiên âm là jiu (cửu), tức mang ý nghĩa lâu bền. Nó là chữ số đơn lớn nhất, tượng trưng cho đại phúc, đại thọ và đại cát. Riêng con số 10 (thập) hoàn hảo là dành cho thần. Trường hợp như Tử Cấm Thành có “9999,5” gian phòng; gần đạt đến số 10000 đại biểu cho sự hoàn hảo dấu “,” đại biểu cho sự hướng đến thiên thượng.

Những Ẩn Số Huyền Bí 4

Ngày tháng năm sinh của bạn

  1. Lấy ngày sinh của bạn nhân với 25
  2. Sau đó cộng với 2255
  3. Rồi lấy kết quả nhân với 4
  4. Trừ đi 4444
  5. Cộng với tháng sinh của bạn
  6. Kết quả nhân với 50
  7. Lại trừ đi 5500
  8. Rồi lại lấy kết quả nhân với 2
  9. Cộng với 2 chữ số cuối trong năm sinh của bạn
  10. Trừ đi 446600

Ngày tháng năm sinh của bạn thật đặc biệt, đúng không nào?

 

References:

 

https://theconversation.com/the-22-million-digit-number-and-the-amazing-maths-behind-primes-53459

 

http://mathworld.wolfram.com/FermatsLastTheorem.html

 

http://www.baomoi.com/Chung-minh-dinh-ly-379-tuoi-giao-su-nguoi-Anh-nhan-700-000-USD/c/18935382.epi

 

http://www.telegraph.co.uk/news/science/12198077/Why-its-so-impressive-that-Fermats-last-theorem-has-been-solved.html

 

https://brilliant.org/discussions/thread/proof-that-1-1-and-1-3/

http://www.tangthuphathoc.net/vn/phvd/tpt2-38.htm

 

http://kenh14.vn/kham-pha/tim-ra-con-so-may-man-duoc-ua-chuong-nhat-20140409092242641.chn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1658)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1626)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1034)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1512)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1494)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1676)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1942)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1526)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1353)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1372)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1549)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1143)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1264)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1276)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1696)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1642)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 3004)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1825)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1365)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1220)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1278)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1409)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1324)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1924)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1683)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1891)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1822)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2391)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1785)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2128)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2220)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2302)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1855)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1977)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2031)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1958)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2595)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1947)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1885)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1945)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1897)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2168)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2301)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1983)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2087)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1886)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1905)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2411)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2323)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3998)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2481)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3197)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2471)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2046)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1797)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3305)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2346)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3031)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2702)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant