Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Pháp Tại Thế Gian, Chẳng Lìa Thế Gian Mà Giác

25 Tháng Hai 202318:14(Xem: 1403)
Phật Pháp Tại Thế Gian, Chẳng Lìa Thế Gian Mà Giác
Phật Pháp Tại Thế Gian, Chẳng Lìa Thế Gian Mà Giác
(Lục Tổ Huệ Năng)


Nguyễn Thế Đăng

Đức Phật Sử Dụng Thần Thông, Phép Lạ Như Thế Nào

Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn, cho đến khi chính thức xuất gia để dạy pháp, ngài không hề ẩn tu một mình. Trong suốt từ khi, thấy được tự tánh, đại ngộ ngài không ngừng tự giác - giác tha, lợi mình - lợi người, như dạy cho sư Huệ Minh trên đường đi lánh nạn chẳng hạn.

 Một vị thực hành Bồ tát đạo là vừa tự giác vừa giác tha, ở giữa cuộc đời cùng với mọi người. Cách tu của Lục Tổ là thấy bản tánh và sống sâu rộng bản tánh ấy giữa thế gian, trong đời sống hàng ngày, trong những điều tưởng chừng nhỏ nhặt:

Nếu khôngtâm đạo
Hạnh tối chẳng thấy đạo
Nếu thật người tu đạo
Chẳng thấy lỗi thế gian.
Nếu thấy người khác lỗi
Tự mình đã sai rồi
Người lỗi ta chẳng chê
Ta chê, ta có lỗi.
Chỉ dẹp tâm thấy lỗi
Phiền não thảy phá trừ
Thương ghét chẳng dính tâm
 Nằm duỗi hai chân nghỉ.
 Muốn độ cho người khác
 Cần phảiphương tiện
 Chớ để người có nghi
 Tức là tự tánh hiện.
 Phật pháp tại thế gian
 Chẳng lìa thế gian (mà) giác
 Lìa thế tìm giác ngộ
 Giống như tìm sừng thỏ.
Chánh kiến gọi xuất thế
 Tà kiến gọi thế gian
 Chánh tà đều dẹp sạch
 Tánh giác ngộ rõ ràng.
 (phẩm Trí Huệ, Pháp Bảo Đàn Kinh)

 “Giác ngộ” là giác ngộ tánh Không. “Tánh giác ngộ” là tánh Không. Thế gian là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, lìa năm uẩn mà tìm tánh Không thì “giống như tìm sừng thỏ”, vì bản tánh của  năm uẩntánh Không.

 Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, của mình là tánh Không (vô ngã), sắc, thọ, tưởng, hành, thức, của người là tánh Không (vô pháp). Như thế tất cả thế gian sanh tửtánh Không, bản tánh của thế gian sanh tửtánh Không. Đây là kết luận của Đại thừa: “Sanh tử tức Niết bàn, phiền não tức Bồ đề.”

 

Lục Tổ Huệ Năng chỉ rõ tánh Không, tức là Đại Trí huệ tánh Không rốt ráo (Ma ha Bát nhã ba la mật) trong phẩm Trí huệ như sau:

Các thiện tri thức! Trí Bát nhã giác ngộ, người đời đều vốn tự có, chỉ vì chuyên theo tâm mê nên chẳng thể tự ngộ. Phải nhờ đại thiện tri thức chỉ dẫn cho thì được thấy tánh. Hãy biết, người ngu kẻ trí tánh Phật vốn không sai khác, chỉ do mê ngộ chẳng đồng mà có ngu có trí…

 Thiện tri thức! Ma ha Bát nhã ba la mật là tiếng Phạn, nghĩa là trí huệ đến bờ giải thoát.  Cái này phải tâm làm chứ chẳng ở nơi miệng niệm. Miệng niệm tâm làm, ắt tâm miệng tương ưng. Bản tánh là Phật, lìa tánh thì không có Phật nào khác.

 Sao gọi là Ma ha? Ma ha là lớn, tâm lượng rộng lớn như hư không, không có biên bờ cũng không vuông tròn lớn nhỏ, xanh vàng đỏ trắng, cũng không giận, không vui, không phải không trái, không lành không dữ, không đầu không cuối. Các cõi Phật đồng như hư không, diệu tánh của người đời vốn Không, không pháp nào có thể đắc. Tự tánh chân không cũng lại như vậy

Bản tánh phật, trí Bát nhã, tự tánh chân không người đời đều vốn tự có, đây Nền tảng, Con đường và Quả của Phật giáo. Con người phải chứng thực được “tâm lượng rộng lớn như hư không” để giải thoát, giác ngộ.

 Lục Tổ nói tiếp:

Thiện tri thức! Chớ nghe ta nói Không bèn bám chấp không. Thứ nhất chớ bám chấp không, nếu tâm trống không mà ngồi yên lặng tức là bám chấp vào cái không vô ký.

Thiện tri thức! Hư không thế giới bao hàm sắc tướng vạn vật, mặt trời mặt trăng, tinh tú, núi sông đất đai, suối rừng, người thiện người ác, pháp thiện pháp ác, thiên đường địa ngục, tất cả đều ở trong cái Không. Tánh Không của người đời cũng lại như vậy.

Thiện tri thức! Tự tánh bao hàm muôn pháp, đó gọi là lớn. Muôn pháp đều ở trong tánh của con người. Nếu thấy tất cả những điều xấu tốt của người mà đều chẳng lấy bỏ, cũng không dính nhiễm, tâm như hư không, đó gọi là lớn, nên nói là Ma ha.

 Thiện tri thức! Người mê thì miệng nói, người trí thì tâm làm. Lại có người mê, tâm trống không mà tĩnh tọa, trăm thứ không nghĩ, bèn tự cho đây là lớn. Với hạng người ấy không thể nói được, vì mắc vào tà kiến.

 Thiện tri thức! Tâm lượng rộng lớn khắp cả pháp giới, dùng tới bèn rõ rõ phân minh. Ứng dụng liền biết hết thảy, tất cả là một, một là tất cả, đến đi tự do, tâm thể không trệ ngại tức là Trí huệ Bát nhã.

 Thiện tri thức! Hết thảy trí Bát nhã đều từ tự tánh mà sanh, chẳng phải từ ngoài vào, cho nên chớ dùng lầm ý, đó gọi là Chân tánh tự dụng”.

 Chỉ trong một đoạn này, ngài Huệ Năng hai lần bài bác việc ngồi thiền giữ tâm trống không, bám chấp vào cái không vô ký, nghĩa là cái không không có gì cả, kể cả ánh sáng Trí huệ.

 Tánh Khôngbao hàm sắc tướng vạn vật, tất cả đều ở trong cái Không”. Tánh Không bao trùm tất cả mọi sự, đồng thời tánh Không cũng ở trong tất cả mọi sự, “không có pháp nào có thể đắc”. Tánh Không bao trùm tất cả và là tất cả.

 Bản tánh của con người chính là tánh Không ấy nên có thể giải thoát: “Nếu thấy tất cả những điều xấu tốt của con người mà chẳng lấy bỏ, cũng chẳng dính nhiễm, tâm như hư không, đó gọi là lớn.” Thấy tướng thế gian nhưng chẳng lấy bỏ, chẳng dính nhiễm, tâm như hư không, nên có thể ở nơi thế gian với chúng sanh để cứu giúp họ.

Khi người ta nhận biết và sống thuần thục trong tánh Không ở nơi mình và ở ngoài mình nơi thế giớichúng sanh, người ta tự do. Không phải là tự do vì không có thế gian, không có sắc tướng nào cả, mà là tự do với tất cả thế gian, sắc tướng: “Tâm lượng rộng lớn khắp pháp giới, dùng tới bèn rõ rõ phân minh. Ứng dụng liền biết hết thảy, tất cả là một, một là tất cả, đến đi tự do, tâm thể không trệ ngại, tức là Trí huệ Bát nhã. Hết thảy trí Bát nhã đều từ tự tánh mà sanh, đó gọi là chân tánh tự dụng”.

 Phần sau, phẩm Hộ Pháp, ngài nói “chân tánh tự dụng” này là “tự tánh khởi dụng”, nghĩa là tự tánh Không này không phải là một cái không vô ký mà là hoạt dụng phi thường cho một vị Bồ Tát ở đời để độ chúng sanh:

 “Tự tánh động dụng, giao tiếp nói năng, ngoài thì ở nơi tướng mà lìa tướng, trong thì ở nơi không mà lìa không. Nếu toàn bám tướng tức là thêm lớn tà kiến, còn nếu toàn chấp không thì thêm lớn vô minh”.

Không bám tướng cũng không chấp không là trung đạo của Bồ tát. Một vị hành Bồ tát hạnh thì phải ở thế gian để cứu giúp chúng sanh cho nên tâm phải hoạt động, do đó ngài giảng về vô niệm không phải là không có niệm, không có ý tưởng nào cả:

Sao gọi là vô niệm? Nếu thấy biết hết thảy pháp mà tâm chẳng nhiễm dính, đó là vô niệm. Dùng thì khắp tất cả chỗ, mà cũng chẳng dính bám tất cả chỗ. Chỉ là bản tâm thanh tịnh, khiến sáu thức ra sáu cửa, ở trong sáu trần không nhiễm, không tạp, đến đi tự do, thông dụng không trệ, tức là Bát nhã tam muội, tự tại giải thoát, gọi là hạnh vô niệm.

 Nếu trăm vật chẳng nghĩ đến, khiến cho niệm dứt tuyệt, đó là pháp trói buộc, gọi là biên kiến” (Phẩm Trí Huệ).

Niệm không phải là kẻ thù cần phải tiêu diệt, mà niệm là dụng cụ để làm việc ở đời, bởi vì niệm lưu xuất từ nguồn tánh Chân Như:

 “Thiện tri thức! Vô là không có sự gì? Niệm là niệm cái gì? Vô là không có hai tướng, không có tâm trần lao. Niệm là niệm bản tánh Chân Như. Chân Như là thể của niệm, niệm là dụng của Chân Như.

 Tự tánh Chân Như khởi niệm, chẳng phải mắt tai mũi lưỡi có thể niệm được. Chân Như có tánh do đó mới có niệm khởi. Nếu Chân Như không có thì mắt tai sắc thanh liền tiêu hoại ngay.” (Phẩm Định Huệ)

Bồ tát là người sống trong thế giới các tướng cùng với chúng sanh, và chúng sanh cũng là các tướng. Sống trong thế giới các tướng, các niệm mà người hành Bồ tát hạnh vẫn giải thoát đối với các tướng, các niệm vì chẳng dính nhiễm.

Lục Tổ Huệ Năng nói về pháp môn của ngài lấy Vô niệm, Vô tướng, Vô trụ làm ba trụ cột. Trong kinh Đại Bát Nhã, vô niệm, vô tướng, vô trụ để chỉ tánh Không.

Thiện tri thức! Pháp môn đây của ta từ xưa đến nay, trước hết lập Vô niệm làm tông, Vô tướng làm thể, Vô trụ làm gốc.

Vô tướng là nơi tướng mà lìa  tướng. Vô niệm là nơi niệm mà vô niệm. Vô trụbản tánh của con người.” (Phẩm Định Huệ)

 Nơi tướng mà lìa tướng là nơi tất cả tướng tạo thành thế giới, chúng sanh, mà lìa tất cả tướng ấy. Thế nghĩa là sống nơi thế giới chúng sanh, làm việc vì chúng sanh mà tâm vẫn giải thoát. Vô niệmvô trụ cũng như vậy. Đây là Bồ tát hạnh.

Trong phẩm Sám Hối, Lục Tổ nói về Ba Thân: Thanh tịnh Pháp thân Phật, Viên mãn Báo thân và Trăm ngàn ức Hóa thân. Ba thân này chỉ có trong Phật giáo Đại thừa. Một vị Bồ tát thành tựu dần dần ba thân trên con đường Bồ tát hạnh cho đến hoàn toàn tròn đủ thì thành tựu Phật quả.

Trong ba thân ấy, Hóa thân là do lòng bi của Bồ tát hóa hiện ra trên nền tảng Pháp thânBáo thân. Lòng bi được khai triển trên con đường Bồ tát cho đến khi trọn vẹnđại bi của một đức Phật. Lục Tổ đã cảm nhận sâu sắc sự xuất hiện ở đời của Hóa thân Đức Phật là do lòng đại bi. Ngài nói với sư Pháp Đạt như sau:

Ông hãy cẩn thận, chớ hiểu lầm ý Kinh, thấy Kinh nói khai thị ngộ nhập mà cho đó là cái thấy biết riêng của Phật. Ngài đã là Phật, đã đầy đủ thấy biết, cần gì phải khai mở nửa. Nay ông phải tin cái thấy biết của Phật này chỉ là tự tâm của ông, chớ chẳng có Phật nào khác.

Tất cả chúng sanh vì tự che lấp ánh sáng, tham ái trần cảnh, ngoài thì duyên níu, trong thì nhiễu loạn, nên đành chịu rong ruỗi theo sanh tử. Bởi vậy mới làm nhọc Thế Tôn từ chánh định đứng dậy dùng bao nhiêu lời lẻ khuyên chúng sanh hãy thôi nghỉ, chớ hướng ngoài tìm cầu thì cùng Phật không khác. Cho nên nói khai mở cái thấy biết của Phật.

Ta nay cũng khuyên tất cả mọi người ở trong tâm mình thường khai mở cái thấy biết của Phật.” (Phẩm Cơ duyên)

Bồ tát hạnh Lục Tổ Huệ Năng dạy thì có mặt và thực hành trong đời sống hàng ngày, giữa những con người xã hội.

Công đức ở trong pháp thân, chớ chẳng phải ở chỗ tu phước. Thấy tánh là công, bình đẳng là đức. Niệm niệm không trệ ngại, thường thấy bản tánh, diệu dụng chân thật, đó gọi là công đức.

Trong tâm khiêm hạ là công, ngoài hành theo lễ là đức. Tự tánh kiến lập muôn pháp là công, tâm thể lìa niệm là đức. Chẳng lìa tánh mình là công, ứng dụng không nhiễm là đức.

Nếu tìm công đức pháp thân, hãy y theo đây mà làm, đó là chân công đức.”

(Phẩm Nghi vấn)

Ngài nói tiếp:

Người  tu công đức thì tâm chẳng khinh thường, mà thường kính trọng khắp cả mọi người mọi vật. Nếu tâm thường khinh người, ta và cái ta chẳng dứt, bèn tự mình không có công. Tánh mình giả dối chẳng thật, tức là mình không có đức. Bởi cái ta và cái của ta tự đại, thường khinh dễ hết thảy.”

Những đức tính tưởng chừng như tầm thường của con người, nếu biết chú tâm khai triển thì sẽ lấn át trừ bỏ những tính xấu, những lỗi lầm do bám chấp và khuếch trương “cái ta và cái của ta”. Những lỗi lầm che chướng của sự bám chấp vào cái ta và cái của ta càng tiêu hao thì “công đức Pháp thân” càng hiển lộ.

Vi thứ sử lại hỏi: Ở nhà tu hành như thế nào, xin Đại sư chỉ dạy.

Sư nói: Ta nói cho đại chúng một bài kệ Vô tướng, chỉ y đây tu thì thường cùng ở với ta một chỗ không khác. Bằng chẳng y đây tu thì cạo đầu xuất gia cũng không ích gì đối với đạo.

Tâm bằng nào nhọc giữ giới

Hạnh thẳng nào đợi tu thiền

Ân thì hiếu dưỡng cha mẹ

Nghĩa thì trên dưới cùng thương

Nhẫn thì xấu ác lặng yên

Nếu dùi cây mà ra lửa

Bùn lầy chắc nở sen hồng.

Đắng miệng đích là lương dược

Trái tai hẳn thiệt lời trung

Chuyển lỗi ắt sanh trí huệ

Xấu dỡ trong tâm chẳng hiền

Hằng ngày thường làm lợi ích

Thành đạo chẳng do thí tiền.

Giác ngộ chỉ hướng tâm kiếm

Nhọc chi hướng ngoại cầu huyền

Nghe nói y đây tu hành

Thiên đường chỉ ngay trước mắt.

Thấy tánh và sống trong tánh là việc làm hằng ngày trong đời sống thế gian. Chỉ là trau dồi những đức tính trên nền tảng bản tâm trí huệ; chuyển lỗi trở về nguồn cội trí huệ của từng niệm khởi. Được như thế thì “thiên đường chỉ ngay trước mắt”.

“Tâm bằng, hạnh thẳng, ân, nghĩa, nhẫn” là những biểu lộ của bản tâm hay bản tánh của tâm. Nếu trên những biểu lộ ấy người ta có thể tìm thấy bản tánh của tâm như nền tảng nằm phía dưới, thì đó là “ Nếu dùi cây mà ra lửa, bùn lầy chắc nở sen hồng.” Tu tâm trong đời sống bình thường là như vậy: nơi chổ có sóng hay không có sóng người ta có thể tìm thấy đại dương.

“Trí Bát nhã giác ngộ, người đời đều vốn tự có, chỉ vì duyên theo tâm mê nên chẳng thể tự ngộ”. “Phải biết người ngu kẻ trí tánh Phật vốn không sai khác.” Cái trí Bát nhã vốn tự có này, tánh Phật vốn không sai khác này vẫn thường hiện diện trong đời sống hàng ngày, “thiên đường chỉ ngay trước mắt”.

Thế nên Thiền sư Mã Tổ Đạo Nhất (709 – 788) đời thứ hai sau Lục Tổ, gọi nó là “tâm bình thường”, vì luôn luôn có mặt, “Tâm bình thường là Đạo”. Tổ sư Gampopa (1079 - 1153), vị sáng lập tông phái Kagyu cũng giảng nhiều về bản tâm như là “Tâm bình thường” (TT. Tamal gyi shepa) (Xem Những điểm thiết yếu của Đại Ấn, Khenchen Thrangu Rinpoche, nxb Thiện Tri Thức, từ trang 170 – 174)

Tâm bình thường này biểu lộ mỗi ngày, mỗi phút giây, mỗi niệm niệm, qua các tướng và niệm trong đời sống bình thường hàng ngày. Đây là tâm Vô tướng, Vô niệm, Vô trụ nói theo ngài Huệ Năng. Nhận biết được nó, sống với nó mà không lỡ mất bèn là người vô sự. Vô sự vì không phiền não, thương ghét.

Chỉ dẹp tâm thấy lỗi

Phiền não thảy phá trừ

Thương ghét chẳng dính tâm

Nằm duỗi hai chân nghỉ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1624)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1027)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1507)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1476)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1667)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1924)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1518)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1351)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1369)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1541)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1139)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1264)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1271)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1693)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1638)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2983)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1821)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1362)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1219)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1275)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1403)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1317)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1918)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1680)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1887)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1814)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2385)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1779)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2112)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2188)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2295)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1850)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1970)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2029)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1953)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2589)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1942)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1880)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1940)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1885)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2155)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2296)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1963)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2074)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1876)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1902)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2406)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2317)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3985)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2471)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3182)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2467)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2043)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1795)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3302)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2342)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3021)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2699)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
(Xem: 2021)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant