Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hồi Đầu Thị Ngạn

29 Tháng Tư 201619:26(Xem: 8379)
Hồi Đầu Thị Ngạn

HỒI ĐẦU THỊ NGẠN

Thích Thông Phương

Hồi Đầu Thị Ngạn

I. ĐỊNH NGHĨA
Hồi đầu là quay đầu trở lại hay xoay đầu trở lại. Thị ngạn: chính ngay đó là bờ mé. Đây là một câu người học Phật thường nghe nói, song ý nghĩa ngầm chứa trong đó không dễ gì hiểu hết một cách hời hợt được. Nói quay đầu lại, nhưng quay lại đâu? Rồi chính đó là bờ mé, nhưng là bờ mé gì? Chỗ này thì không thể nói suông, giải thích suông mà được, mà là một sự thể nghiệm chân thật ngay chính mình mới rõ suốt. Để rõ điểm này, xin dẫn chuyện Ngài Văn Thù - Tư Nghiệp.

Sư trước kia sống bằng nghề đồ tể. Một hôm, nhân lúc sửa soạn giết một con heo, bỗng nhiên Sư triệt ngộ bản tánh chính mình, và làm bài kệ:

Tạc nhật Dạ-xoa tâm,
Kim triêu Bồ-tát diện.
Bồ-tát dữ Dạ-xoa,
Bất cách nhất điều tuyến.

Dịch:

Hôm qua lòng Dạ-xoa,
Sáng nay mặt Bồ-tát.
Bồ-tát và Dạ-xoa,
Chẳng cách một kẽ tóc.

Sau đó, Sư đến gặp Thiền sư Đạo ở viện Văn Thù, Đạo hỏi:
- Trong lúc giết heo, ông thấy cái gì mà cạo đầu đi tham bái hỏi thiền?
Sư không nói một lời, đứng im làm thế đang mài dao.

(Tục Truyền Đăng, quyển 31)

Như vậy, làm Dạ-xoa, từ đâu mà làm? Từ "TÂM" thôi chớ gì? Nhưng là tâm ngu si, tâm hung ác. Làm Bồ-tát từ đâu mà làm? Cũng chính từ "TÂM" thôi, ngoài tâm lấy gì làm Bồ-tát? Nhưng là tâm từ bi, giác ngộ. Nếu ngoài tâm, lấy gì gọi là ngu si, hung ác? Lấy gì gọi là từ bi, giác ngộ? Cho nên, Dạ-xoa hay Bồ-tát cũng ngay tâm mình thôi, chỉ cần tỉnh ngộ trở lại là xong, không phải tìm Bồ-tát ở đâu xa. Xem Ngài Tư Nghiệp, xưa kia cũng mài dao mà mê, giờ đây cũng mài dao mà giác. Song trong chỗ này làm sao diễn tả cho người hiểu? Cho nên chỉ im lặng làm thế mài dao, dành cho người tự chứng biết thôi. "Quay đầu lại chính đó là bờ mé", thật có nhiều ý nghĩa nói không thể hết, không thể định nghĩa theo ngôn ngữ, danh từ thông thường mà cho là đã đủ, cần phải có một sự thức tỉnh sâu xa tận nguồn tâmmới không hổ thẹn.

II. ĐÁNH THỨC TÂM CHẠY TÌM BÊN NGOÀI
Nói "quay đầu là bờ mé", là để đánh thức trở lại những tâm đang chạy tìm kiếm lang thang bên ngoài. Chính bệnh hướng ngoại là bệnh chung của con người. Nhưng không có gì lạ, bởi gốc do mê mất "bản tâm" từ lâu, không còn nhớ biết mình là gì, nên cứ chạy đuổi theo ngoại trần, luôn luôn tìm kiếm những cái từ bên ngoài. Dù nói học đạo, vẫn cứ muốn tìm học ở đâu đâu, nếu bảo học đạo mà "không chỗ học", có chịu chăng?
Chúng ta nhìn kỹ lại, ngày nay khoa học đã tiến bộ đến mức thật là siêu, nhưng vẫn là luôn tìm kiếm bên ngoài. Do đó càng tìm, càng thấy còn nhiều điều chưa biết, chưa hiểu! Bởi sức người có hạn, vũ trụ thì bao la, tìm bao giờ cho trọn? Tìm chưa gì thì đã hết một đời người rồi! Câu hỏi vẫn còn luôn để sẵn đó.
Trong đạo, nhất là thiền thì luôn luôn đánh thức chúng ta phải tự soi trở lại gốc, biết GỐC thì rõ ngọn không phải lo ngại gì. Song gốc là gì? Chính là "khéo nhận BẢN TÂM". Bởi dù có cảnh mà không có tâm, thì cảnh đó có cũng như không, chỉ là cảnh chết, không thành vấn đề. Cũng như ngay đây, người sống mà không có tâm, thì sống cũng như chết thôi. Có điều, đã là BẢN TÂM CHÍNH MÌNH, lại phải đi tìm ở đâu? Quả thật càng tìm, càng xa! Như bài kệ Vua Trần Thái Tông nói về núi thứ nhất:

Chỉ sai hữu niệm vong vô niệm,
Khước bối vô sanh thọ hữu sanh.
Tỷ trước chư hương thiệt tham vị,
Nhãn manh chúng sắc, nhĩ văn thinh.
Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách,
Nhật viễn gia hương vạn lý trình.

Tạm dịch:

Chỉ sai hữu niệm quên vô niệm,
Liền trái không sanh nhận có sanh.
Mũi đắm các hương, lưỡi tham vị,
Mắt mờ chúng sắc, tai đuổi thinh,
Lang thang làm khách phong trần mãi,
Ngày cách quê hương muôn dặm trình.

Nghĩa là, ngay trong vô niệm, đang sống trong vô niệm đó, nhưng vừa động khởi, liền rơi vào hữu niệm. Đã có niệm, tức là đi vào trong sanh tử, là trái với THỂ VÔ SANH từ muôn thuở rồi. Chính ngay chỗ đó, là chỗ mê mất bản tâm. Do mê mất bản tâm, nên cứ lang thang trong sáu trần cảnh, cứ buông cái này, bắt cái kia, chạy mãi luân hồi trong sáu nẻo, quên hẳn cả đường về! Trong khi đó, đường về vẫn ở ngay trước mắt! Giờ đây, dù có nghe nói đến bản tâm, song cũng tưởng tượng là cái gì đó, ở đâu đâu, nên lại đi tìm nữa, thật tự đáng thương cho chính mình là đấy!
Chư Tổ đã nhận được chỗ này, nên cảm thấy thương xót vô cùng, do đó các Ngài bằng nhiều phương tiện đánh thức cho người tỉnh lại: CHÍNH CÁI ĐANG CHẠY TÌM ĐÓ, LÀ GÌ? Đâu từng thiếu vắng bao giờ ?
Ngài Đức Sơn một hôm thượng đường bảo:
- Đêm nay chẳng đáp thoại, ai thưa hỏi sẽ ăn ba mươi gậy.
Lúc đó có vị tăng bước ra lễ bái, Sư liền đánh. Tăng thưa:
- Con chưa thốt lời hỏi, vì sao Hòa thượng đánh con?
Sư bảo:
- Ông là người ở đâu?
Tăng thưa:
- Dạ, người Tân La.
Sư bảo:
- Ông chưa bước xuống thuyền, đã đáng ăn ba mươi gậy rồi!

Tại sao chưa bước xuống thuyền đã đáng ăn ba mươi gậy rồi? Đó là Sư muốn đánh thức, "việc này" vốn sẵn nơi mình lại chẳng nhận, bước xuống thuyền tức là bỏ đó mà đi tìm, từ bên Tân La tức Triều Tiên mà chạy sang Trung Hoa tìm hỏi, thì không đáng ăn gậy sao ?
Cũng vậy, Thạch Củng lúc là thợ săn đuổi theo con nai đến gặp Mã Tổ, Mã Tổ hỏi:
- Chú bắn giỏi chăng ?
Thạch Củng đáp:
- Dạ, bắn giỏi.
- Một mũi tên chú bắn được mấy con ?
- Một mũi tên bắn một con.
- Chú bắn không giỏi.
- Hòa thượng bắn giỏi chăng ?
- Bắn giỏi.
- Một mũi Hòa thượng bắn mấy con ?
- Bắn một bầy.
- Vì sinh mạng chúng nó, đâu được bắn một bầy ?
- Chú đã biết như vậy, sao không tự bắn đi ?
- Nếu dạy tôi tự bắn, tức không chỗ hạ thủ.
- Chú này phiền não vô minh nhiều đời, ngày nay chóng dứt.

Đây là Mã Tổ muốn đánh thức Thạch Củng, thay vì cứ lo đuổi bắn bên ngoài, quên mình theo vật, theo cảnh, đành làm thợ săn lang thang tạo nghiệp, sao không thức tỉnh trở lạitự bắn chính mình đi! Tức là nhận trở lại chính mình chân thật! Song chính mình thì có chỗ nào để bắn?
Cho nên, Thạch Củng khéo đáp: "Nếu dạy tôi tự bắn, tức không chỗ hạ thủ"
Thấy đến như thế, tức là sáng tâm, là ngộ trở lại gốc, chính ngay đó là BỜ GIÁC: Buông cung tên, thành Thiền sư - trên kia thì buông dao mổ heo, thành Thiền sư, đồng một đường không khác.
Triệu Châu cũng từng hỏi Hòa thượng Nam Tuyền:

- Thế nào là đạo?
Nam Tuyền đáp:
- Tâm bình thường là đạo.
- Có thể nhằm tiến đến chăng?
- Nếu nghĩ muốn tiến đến liền trái.
Đạo chính ngay tâm bình thường hiện tiền đây mà chưa khởi động niệm đó thôi. Nghĩ tiến đến, tức biến nó thành ra cái đối tượng bên ngoài mình rồi, thì quả tang ngay đó liền trái với nó!

Để rõ thêm điểm này, chúng ta hãy lắng nghe kỹ chuyện Ngưỡng Sơn với Quy SơnMột hôm, Sư về thăm Quy Sơn, Quy Sơn hỏi:
- Chúng sanh trên quả đất nghiệp thức mênh mang không gốc có thể tựa, con làm sao biết họ có hay không có?
Sư thưa:
- Con có chỗ kinh nghiệm.
Ngay lúc đó, có vị tăng đi qua trước mặt, Sư gọi:
- Xà-lê!
Vị tăng xoay đầu lại. Sư thưa:
- Bạch Hòa thượng, chính cái này là nghiệp thức mênh mang không gốc có thể tựa đó!
Quy Sơn bảo:
- Quả đây là một giọt sữa sư tử làm tan sáu đấu sữa lừa!

Vậy nghiệp thức mênh mang ở chỗ nào? Nghe gọi, theo tiếng gọi xoay đầu, chính đó là nghiệp thức mênh mang không biết từ thuở nào chứ gì? Song, ngay đó liền tỉnh ngộ: "Cái gì đang biết xoay đầu đó ?", liền nhổ sạch gốc rễ từ muôn thuở, sáng tỏ trở lại nguồn chân, có nhọc gì? Quả thực, MÊ - NGỘ đâu có cách xa? Chỉ: theo tiếng là mê, rõ tánh là giác, vậy thôi. Mê không thật có cái thể mê nên nói không gốc có thể tựa. Bởi không gốc, cho nên giác liền xong, cũng không có cái mê gì để trừ: ý nghĩa "xoay đầu là bờ mé" quá rõ ràng, còn nghi ngờ gì nữa?

III. TRỪ NIỆM KIA ĐÂY

Thường chúng ta hay nghe nói tu hành phải đạt đến bờ kia, rồi khởi tưởng có bờ này. Tức bỏ bờ này, đếnbờ kia, bị lầm theo ngôn ngữ văn tự mà không hay biết! Nếu còn thấy có bờ này, bờ kia, tức là chưa mở con mắt tuệ, chưa phải là Bát-nhã chân thật. Lục Tổ trong phẩm Bát-nhã của kinh Pháp Bảo Đàn đã dạy: "Ba-la-mật dịch là đến bờ kia, giải nghĩa là lìa sanh diệt. Chấp trước cảnh thì sanh diệt khởi, như nước dậy sóng mòi, tức là bờ này. Lìa cảnh thì không sanh diệt, như nước thường trôi chảy, tức gọi là bờ kia."
Đây Lục Tổ đã nói rất rõ, bờ này, bờ kia chỉ ngay tâm này thôi. Tâm theo cảnh, đi vào sanh diệt, như nước dậy sóng, gọi là bờ này. Tâm lìa cảnh, khế hợp với vô sanh, như nước thường trôi chảy, gọi là bờ kia. Dậy sóng hay thường trôi chảy cũng chỉ là NƯỚC thôi. Theo cảnh hay lìa cảnh cũng chỉ là TÂM thôi. Vậy thì nói gì cố định là bờ này, bờ kia? Đây là khiến cho người phải nhảy một cái nhảy, qua văn tự chữ nghĩa, không kẹt nơi ý niệm kia đây, thì Bát-nhã chân thật luôn luôn hiện tiền, sờ sờ ngay trước mắt, còn phải tìm nơi đâu?
Ông Tú tài Trương Chuyết khi được Ngài Thạch Sương khai thị, tỏ sáng, có làm bài kệ, trong đó có câu:

Phá trừ phiền não trùng tăng bệnh,
Thú hướng chân như tổng thị tà.
Tùy thuận chúng duyên vô quái ngại,
Niết-bàn sanh tử đẳng không hoa.

Tạm dịch:

Phá trừ phiền não càng thêm bệnh,
Tìm đến chân như cũng là tà.
Tùy thuận các duyên không quái ngại,
Niết-bàn sanh tử thảy không hoa.

Nghĩa là còn thấy có trừ phiền não, có đến chân như, tức còn thấy có hai, còn tâm kia đây, lấy bỏ là chưa thấy đạo, là còn đi lệch bên ngoài, nên gọi "cũng là tà". Nếu rõ được chính mình ngay trong tất cả, thì đối mọi duyên đều sáng ngời không mê. Vậy có gì ngăn ngại mà bỏ đây tìm kia? Niết-bàn, sanh tử ở ngay tự tâm thôi, đâu phải ở cõi nào khác từ bên ngoài? Chính cái niệm kia đây là chỗ chướng ngại cho mình. câu chuyện, hai vị Thượng tọa ở thành đô đến gặp Thiền sư Huệ Minh, Sư hỏi:
- Thượng tọa đến đây thì ở Thành đô thiếu Thượng tọa, ở đây dư Thượng tọa. Dư thì ngoài tâm có pháp, thiếu thì tâm pháp chẳng khắp, nói được thì ở, nói chẳng được thì hãy đi.
Hai vị đều không đáp được.

Trong đây có ai nói được? Tại sao hai vị không đáp được? Chỉ vì trong lòng còn chứa đựng niệm kia đây, kẹt trên thân tướng này. Bởi y cứ trên thân tướng này, mới có thân ở đây, thân ở kia, còn trên TÂM THỂ CHÂN THẬT ẤY, thì có tướng gì mà nói đây kia? Cho nên hỏi đó, là gạn lại chỗ thấy của người xem đã THẤY TÁNH hay chưa? TÁNH thì luôn luôn lúc nào cũng hiện tiền nơi mình, có gì là đây kia, mà nói dư, nói thiếu? Nghe nói dư thiếu, đây kia liền theo đó tưởng tượng sanh hiểu nên thành ngăn ngại. Quả thật bị gạt mà không hay! Ý nghĩa xoay đầu là bờ mé, càng quá rõ!

IV. Ý NGHĨA HỒI ĐẦU THỊ NGẠN VỚI THIỀN ĐỐN NGỘ

Với tinh thần của Thiền đốn ngộ, chúng ta thấy ý nghĩa trên đây càng sâu, không thể giải thích dễ dàng theo chữ nghĩaNhư Linh Mặc đến chỗ Hòa thượng Thạch Đầu thưa hỏi không khế hợp, Sư liền đi ra. Thạch Đầu đi theo sau đến cổng, liền gọi:
- Xà-lê!
Sư xoay đầu lại. Thạch Đầu bảo:
- Từ sanh đến tử chỉ là thế ấy, xoay đầu chuyển não làm gì?
Sư liền đại ngộ.

Như vậy, mới đó, trước khi xoay đầu là còn mê, rồi xoay đầu lại liền ngộ, chỉ trong một cái xoay đầu thôi, không phải quay đầu là bờ mé sao? Cái ngộ đó ở đâu chạy lại? Trong đó cái gì là thêm bớt, đây kia? Cũng như Đức Phật thành đạo khi sao Mai mọc. Trước khi sao Mai mọc, Ngài chưa thành đạo; sau khi sao Mai mọc liền thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vậy Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đó ở đâu chạy lại mau như vậy? Rõ ràng thành đó, là thành ngay tự tâm giác ngộ thôi, không có ở đâu khác. Ngoài tâm lấy gì thành? Nếu ngoài tâm mà có đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác để thành, thì đó là cái Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác trong sách vở rồi! Cần phải xoay lại ngay tự tâm mới là đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác sống, trái lại là đạo Vô thượng chết!
Và đây, trường hợp ông cư sĩ Phạm Xung làm Tả thừa, tự là Trí Hư, ông đến gặp Thiền sư Mân ở viện Viên Thông. Uống trà xong, ông thưa:
- Con sắp già rồi mà còn rơi vào con đường quan, nên cách việc này hơi xa.
Thiền sư Mân gọi:
- Nội hàn!
Ông ứng:
- Dạ!
Sư bảo:
- Có xa đâu?
Ông vui mừng thưa:
- Xin thầy lặp lại lời chỉ dạy.
Sư bảo:
- Từ đây đến Hồng Đô có bốn lộ trình.
Ông đứng suy nghĩ. Sư bảo:
- Thấy tức liền thấy, suy nghĩ liền sai.
Ông chợt có tỉnh.

Ông cư sĩ Phạm Xung cứ tưởng là việc này ở đâu đó, cách xa không với tới, nào ngờ ngay tiếng gọi, liền dạ, ai không có? Phải đợi thời gian gì? Cái "biết dạ" đó từ đâu chạy tới? Còn có gì nhanh hơn, gì thực tế hơn? Trong đây ai không có quyền nhận? Chỉ có điều quan trọng là phải chân thật với chính mình.Thiền sư Thiên Quế từng nhắc đệ tử: "Các ông phải chân thật trong mọi việc, không có gì chân thật trong đời mà không chân thật trong Phật pháp, và không có gì không chân thật trong Phật pháp, lại chân thật trong đời."
Sư cũng nói: "Thấy bằng mắt, nghe bằng tai, không có gì trên đời ẩn giấu, các ông muốn ta nói gì nữa?"

(Những nụ cười Thiền)

Nghĩa là, chúng ta cần chân thật ngay chính mình, không tự lừa dối mình bằng những niệm kia đây, thì hiện tại THẤY, NGHE đều nhiệm mầu, đều sáng ngời ánh sáng Chánh Giác, không qua văn tự chữ nghĩa. Sách vở làm sao ghi được cái này? Song trong đây có ai đã thực sự chân thật với chính mình chưa? Một lẽ thật một trăm phần trăm như vậy, tại sao không thấy? Lỗi tại ai?
Kìa, Sùng Tín theo hầu Hòa thượng Đạo Ngộ một thời gian lâu. Một hôm Sư thưa:
- Từ ngày con vào đây đến nay, chưa được Thầy chỉ dạy tâm yếu.
Đạo Ngộ bảo:
- Từ ngày ngươi vào đây, ta chưa từng chẳng chỉ dạy tâm yếu cho ngươi.
Sư thưa:
- Chỉ dạy ở chỗ nào?
Đạo Ngộ bảo:
- Ngươi dâng trà lên, ta vì ngươi mà tiếp; ngươi bưng cơm đến, ta vì ngươi mà nhận; ngươi xá lui, ta vì ngươi mà gật đầu, có chỗ nào chẳng chỉ dạy tâm yếu cho ngươi đâu?
Sư cúi đầu lặng thinh giây lâu. Đạo Ngộ bảo:
- Thấy thì thẳng đó liền thấy, suy nghĩ liền sai.
Ngay câu nói đó, Sư tỏ ngộ.

Bởi Sư cứ tưởng tâm yếu là cái gì cao xa, ở đâu đâu, nên cứ trông chờ, mong mỏi. Không ngờ chính chỗ sống hàng ngày mà tự mê thôi. Điểm cần chú ý là: "Nhận thì liền nhận, suy nghĩ liền sai." Ngay một cử chỉ, hành động đó, mà chưa qua suy nghĩchưa có cái ta xen vào thì có gì che mờ được nó? Ngay đó vẫn sáng ngời, ai không có ?
Cũng như, ngay cái xoay đầu mà chưa kịp suy nghĩ thì "cái gì biết xoay ?" Cần thấy, có cái đầu thì dùng cái đầu xoay, nếu không đầu lấy cái gì xoay? Phải thấy qua cái đầu. Ngay cái xoay đầu mà quên mất chỗ xoay, tự sống dậy trong đó xưa nay chưa từng xoay chuyển, vẫn hằng như thế, còn ai dối gạt được mình? Liền đó quên hết bờ này, bờ kia, chính ngay đó là Đạo, còn tìm đâu nữa? Thật thẳng tắt vô cùng, đâu còn con đường nào hơn! Sáng được chỗ này, thì chính ngay đó là Phật ra đời, và Phật có thể ra đời bất cứ lúc nào, chỉ người có nhận hay không thôi!

V. TÓM KẾT: CHÂN THẬT CHÍNH MÌNH LÀ ĐÂY

Nói dài dòng, rốt cùng chỉ ngay cái sống hằng ngày đây là đủ tất cả, không thiếu thốn. Chỉ cần NHỚ lại là xong! Bởi gọi là MÊ, tức là quên chứ gì? Mà quên cái gì? Quên cái sẵn có thôi!
Ngay đây nhớ lại, là Giác. Chỉ một chút Quên với Nhớ mà tự làm cách biệt xa xôi như trời với đất!

Trong Thiền sử có câu chuyện Thiền sư Trí Thông ở trong hội của Hòa thượng Quy Tông, một hôm đang giữa đêm khuya bỗng la lên:
- Tôi đại ngộ rồi! Tôi đại ngộ rồi!
Sáng ra, Quy Tông hỏi:
- Đêm rồi ai la đại ngộ hãy ra đây xem!
Sư ra thưa:
- Dạ, con.
Quy Tông hỏi:
- Ông thấy cái gì?
Sư thưa:
- Sư cô nguyên là người nữ làm.

Người nghe nói NGỘ, cứ tưởng tượng là cái gì đó thật lạ lùng, kỳ đặc, không ngờ rất đơn giản, không chút màu mè. Ngộ cái gì? "Sư cô vốn là người nữ", vậy thôi! Ai hiểu thế nào thì hiểu! Người không biết, tự làm ra vẻ kỳ đặc, khác thường, để tỏ cho người biết "ta đã ngộ", chính đó là bệnh, biểu lộ tướng ngã mà không hay!
Tóm lại, chân thật là ở ngay chính mình, xoay lại tự tâm là GỐC tất cả pháp, chạy ra ngoài là mê. Để kết thúc, xin dẫn câu chuyệnbà già đến Thiền sư Đại Đồng thưa:
- Nhà tôi vừa mất trâu, thỉnh thầy bói xem!
Sư liền gọi:
- Bà lão!
Bà ứng:
- Dạ!
Sư bảo:
- Đây rồi!
vui vẻ ra về.

Như vậy, trâu có mất đi đâu? Có được ở chỗ nào? Nghe gọi, liền dạ thì trâu vẫn còn đó, vẫn rất là ngoan mà! Chỉ chợt "À!" lên là xong. Quay đầu lại, ngay đó là Bờ Mé, chớ thêm gì khác nữa!

TT Thích Thông Phương (Thiền viện Thường Chiếu)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12653)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12269)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11049)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10922)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13375)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11798)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13685)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11919)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11185)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12214)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12415)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20609)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12442)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12468)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11731)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11609)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22445)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13588)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29713)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11553)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16767)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12019)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16860)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12085)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17939)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12656)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13186)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14776)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22645)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10597)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14071)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13882)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13736)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13881)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13954)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14844)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13868)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18430)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22816)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15409)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17337)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22426)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14278)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12596)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11181)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17778)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13221)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13120)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18812)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17196)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13533)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12933)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14711)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14668)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15888)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13531)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27451)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13258)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16739)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
(Xem: 21405)
Tiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant