Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bốn Điều Mang Lại Hạnh Phúc

13 Tháng Năm 201618:27(Xem: 8448)
Bốn Điều Mang Lại Hạnh Phúc
BỐN ĐIỀU MANG LẠI HẠNH PHÚC
CÂU CHUYỆN VỀ CHƯ TĂNG, KỆ 194 - KHO BÁU SỰ THẬT,

Kinh Pháp Cú Minh Họa - Weragoda Sarada Maha Thero -

Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến - Hình Vẽ: P. Wickramanayaka  -
Source-Nguồn: www.buddhanet.net
(Four Factors Of Happiness - The Story Of Many Monks, Verse 194 - Treasury Of Truth,
Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka)

Bốn Điều Mang Lại Hạnh Phúc

BÀI KỆ 194:

194. Sukho Buddhānaṃ uppādo
sukhā saddhammadesanā
sukhā saṅghassa sāmaggi
samaggānaṃ tapo sukho. (14:16)

Hạnh phúc thay, Đức Phật ra đời,
hạnh phúc thay, bài giảng Phật Pháp đúng đắn,
hạnh phúc thay, Tăng Đoàn hòa hợp,
hạnh phúc thay, mọi người cùng nỗ lực tu hành.

Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên (Jetavana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về chư tăng.

Trước kia, có lần các nhà sư thảo luận về câu hỏi "Điều gì mang lại hạnh phúc?" Các nhà sư nầy nhận ra rằng hạnh phúc mang nhiều ý nghĩa khác nhau, tùy theo người trả lời. Vì thế, họ nói rằng, "Đối với một số người, hạnh phúc có nghĩa là phải giàu códanh vọng như một vị vua, đối với một số người khác, hạnh phúc có nghĩa là các thú vui nhục dục, tuy nhiên, đối với một số người khác, hạnh phúc có nghĩa là bữa cơm nấu bằng gạo ngon, và ăn với thịt. Trong khi họ đang trò chuyện, Đức Phật đi vào. Sau khi Đức Phật biết chủ đề họ đang thảo luận, ngài nói, "Các thú vui mà các ông đang đề cập không giúp gì cho các ông thoát khỏi vòng sinh-tử luân-hồi. Trên thế gian nầy, những điều sau đây mang lại hạnh phúc: sự xuất hiện của một vị Phật, được cơ hội nghe những bài giảng cao-quý, đúng đắn về Phật Pháp, và có sự hòa hợp trong Tăng Đoàn." Vào cuối bài giảng của Đức Phật, các nhà sư nầy đã đạt được quả A La Hán.

BÀI KỆ 194, GIẢI THÍCH TỪ TIẾNG PALI:

Buddhānaṃ uppādo sukho, saddhammadesanā sukhā,
saṅghassa sāmaggi sukhā, samaggānaṃ tapo sukho

Buddhānaṃ: của (về) Đức Phật; uppādo: phát sinh; sukho: (là) vui vẻ; saddhammadesanā: bài giảng dạy (sự tuyên bố) về Phật Pháp; sukhā: là vui vẻ; saṅghassa: của (về) tình huynh đệ; sāmaggi: hòa thuận (hợp nhất); sukhā: (là) vui vẻ; samaggānaṃ: của (về) những người hòa hợp; tapo: tu hành; sukho: (là) vui vẻ

Hạnh phúc thay, Đức Phật ra đời. Hạnh phúc thay, bài giảng Phật Pháp đúng đắn. Hạnh phúc thay, Tăng Đoàn hòa hợp. Hạnh phúc thay, mọi người cùng hòa hợp tu hành.

Bài kệ 194 trong Kinh Pháp Cú nầy, đã được anh Tâm Minh Ngô Tằng Giao chuyển dịch thành thơ như sau:

(194) Vui thay đức Phật ra đời! Vui thay giáo pháp giảng nơi cõi trần! Tăng hòa hợp đẹp muôn phần! Đẹp thay giới luật xa gần đồng tu!

BÌNH LUẬN:

Buddhānaṃ uppādo sukho: sự xuất hiện của Đức Phật là môt sự kiện hạnh phúc. Trong câu chuyện truyền thống nói về sự ra đời của Thái Tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha), người mà sau nầy trở thành Đức Phật, đã cho thấy dấu hiệu sau nầy khi thành Phật, Thái Tử sẽ mang lại hạnh phúc cho thế gian. Bây giờ không có người nào tranh cãi về việc họ sinh ra từ bụng mẹ; tuy nhiên, điều nầy thì khác, đối với một vị Bồ Tát. Khi Thái Tử (Bồ Tát) sinh ra từ bụng mẹ, ngài giống như một vị Thầy đi xuống bục giảng, hoặc là một người đàn ông đi xuống cầu thang, ngài duỗi tay chân ra, và trên người ngài chẳng có chất gì dơ bẩn, ngài trông giống như một viên ngọc quý được mặc y phục bằng vải Vārānasi.

Chúng ta cũng có thêm thông tin chi tiết về sự kiện hạnh phúc nầy.

Trước khi Thái Tử sơ sinh chạm mặt đất, ngài đã được bốn vị thiên thần nâng đỡ, và mang đến mẹ ngài, rồi họ nói rằng, "Hoàng Hậu hãy vui mừng lên, vì Hoàng Hậu vừa sinh ra một vị Thái Tử vĩ đại, và cao quý." 

Bốn vị vua lớn nhận lấy Thái Tử sơ sinh từ các vị thiên thần trên một tấm da beo mềm mại, và người tùy tùng của Hoàng Hậu nhận lấy Thái Tử từ các vị vua, trên một cái áo choàng lụa. Thái Tử sơ sinh đặt chân xuống đất, rồi đối mặt ngài về hướng Đông. Một cái lọng trắng được che trên đầu ngài.

Kế tiếp, có vô số vũ trụ xuất hiện, cùng hợp lại trông giống như một vũ trụ duy-nhất. Chư thiênloài người đã cúng dường nhiều hoa và hương nhang, vân vân..., và nói rằng, "Thưa Bậc Vĩ Đại, ở thế gian nầy không có ai bằng ngài; và không có ai cao quý hơn ngài." Đức Phật sơ sinh nhìn chung quanh, và không thấy ai bằng ngài, rồi ngài bước đi bẩy bước về hướng Bắc. Sau bước thứ bẩy, Đức Phật tuyên bố, "Ta là bậc Thầy của vũ trụ. Kiếp nầy là kiếp cuối cùng của ta. Cho nên, ta sẽ không còn tái sinh nữa." Bởi vì, đây là sự ra đời của Đức Phật, một người độc nhất, và kỳ diệu, một người được sinh ra trên thế giới, bởi vì lòng từ bi thương yêu thế giới, vì sự tốt đẹp, vì lợi ích, và vì hạnh phúc của chư thiênloài người.

Khi Đức Phật ra đời, một nguồn ánh sáng không-giới-hạn vô cùng rạng rỡ, vượt trội hơn cả ánh sáng của các vị thiên thần, chiếu rọi qua toàn-bộ vũ trụ. Vô số các vị thiên thầncõi trời Tāvatiṃsa (cõi trời Ba Mươi Ba, hoặc cõi trời Đao Lợi) vô cùng vui mừng khi biết một vị Phật tương lai đã ra đời, rồi họ ăn mừng bằng cách tham gia vào nhiều cuộc vui chơi, và các cuộc thể thao để giải trí.

Vào thời điểm Đức Phật ra đời, công chúa Bhaddhakaccānā (Da-Du-Đà-La, tức là Yasodharā) được sinh ra, Đại Đức Channa (Xa Nặc) và Đại Đức Kāludāyi được sinh ra, và con ngựa Kiền Trắc (Kanthaka) được sinh ra. Cây Bồ-Đề, và bốn kho báu to lớn, được phát sinh từ lúc nầy.

Saṅghassa sāmaggi: Tăng Đoàn là đoàn thể quan trọng, gồm những người độc thân (giữ giới không dâm-dục), được thành lập một cách dân chủ, và lâu đời nhất bởi Đức Phật. Nói đúng ra, Tăng Đoàn dùng để chỉ các vị đệ tử cao quý, những người mà đã hiểu biết rõ ràng về bốn Con Đường và bốn Quả Vị. Các vị tăng sĩ thông thường ngày nay chính là các đại diện của Tăng Đoàn.

GHI CHÚ CỦA NGƯỜI DỊCH:

Tăng Đoàn các đệ tử của Đức Phật, có thể được xem như là có bốn nhóm, hoặc là tám nhóm. Có bốn nhóm [đệ tử cao quý] khi Con Đường (path) và Quả Vị (fruit) được xem như một cặp, và tám nhóm [đệ tử cao quý], khi Con Đường (path) và Quả Vị (fruit) được tách riêng ra:

1. (1) con đường dẫn đến dòng Nhập Lưu (Tu Đà Hoàn); (2) quả của dòng Nhập Lưu;

2. (3) con đường dẫn đến dòng Nhất Lai (Tư Đà Hàm); (4) quả của dòng Nhất Lai;

3. (5) con đường dẫn đến dòng Bất Lai (A Na Hàm); (6) quả của dòng Bất Lai;

4. (7) con đường dẫn đến dòng A La Hán; (8) quả của dòng A La Hán.

The Sangha of the Tathagata's disciples (Ariya Sangha) can be described as including four or eight kinds of individuals. There are four [groups of noble disciples] when path and fruit are taken as pairs, and eight groups of individuals, when each path and fruit are taken separately:

1. (1) the path to stream-entry; (2) the fruition of stream-entry;

2. (3) the path to once-returning; (4) the fruition of once-returning;

3. (5) the path to non-returning; (6) the fruition of non-returning;

4. (7) the path to arahantship; (8) the fruition of arahantship.

(Source-Nguồn: en.wikipedia.org)

Source-Nguồn: http://www.buddhanet.net/pdf_file/dhammapadatxt1.pdf


SHORT TITLE:

The Story Of Many Monks, Verse 194, Treasury Of Truth

FULL TITLE:

Four Factors Of Happiness
The Story Of Many Monks, Verse 194 - Treasury Of Truth,
Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero -
Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net


 VERSE 194:

194. Sukho Buddhānaṃ uppādo
sukhā saddhammadesanā
sukhā saṅghassa sāmaggi
samaggānaṃ tapo sukho. (14:16)

Blessed is the birth of Buddhas,
blest True Dhamma’s Teaching,
blest the Sangha’s harmony
and blessed is their striving.

While residing at the Jetavana Monastery, the Buddha spoke this verse, with reference to many monks.

Once, many monks were discussing the question “What constitutes happiness?” These monks realized that happiness meant different things to different people. Thus, they said, “To some people to have the riches and glory like that of a king is happiness, to some people sensual pleasure is happiness, but to others to have good rice cooked with meat is happiness.” While they were talking, the Buddha came in. After learning the subject of their talk, the Buddha said, “The pleasures that you have mentioned do not get you out of the round of rebirths. In this world, these constitute happiness: the arising of a Buddha, the opportunity to hear the Teaching of the Sublime Truth, and the harmony among monks.” At the end of the discourse, those monks attained arahatship.

EXPLANATORY TRANSLATION (VERSE 194)

Buddhānaṃ uppādo sukho, saddhammadesanā sukhā,
saṅghassa sāmaggi sukhā, samaggānaṃ tapo sukho

Buddhānaṃ: of the Buddha; uppādo: arising; sukho: (is) joyful; saddhammadesanā: the proclamation of the Dhamma; sukhā: is joyful; saṅghassa: of the brotherhood; sāmaggi: concord (unity); sukhā: (is) joyful; samaggānaṃ: of those in concord; tapo: religious practice; sukho: (is) joyful

The arising of the Buddhas is joyful. The proclamation of the Dhamma is joyful. The concord of the Sangha is joyful. Joyful indeed is spiritual practice in harmony.

COMMENTARY

Buddhānaṃ uppādo sukho: the arising of the Buddha is a blissful event. In the traditional lore regarding the birth of Prince Siddhattha, who was later to become Buddha, there is an indication of the happiness he would bring to the world later as the Buddha. Now other mortals on issuing from the maternal womb are disagreeable; but not so the Bodhisatta. He issued from his mother’s womb like a preacher descending from his pulpit, or a man coming down stairs, stretching out both hands and feet without any impurities like a jewel thrown upon a vesture of Vārānasi cloth.

There are further details about this blissful event.

Before the child touches the ground, he is received by four deities, and is presented to the mother, saying, “Be rejoiced, O’ Queen, you have given birth to a great being.”

Four great kings received the child from the deities into a soft leopard skin, and from them the child was received by the retinue of the Queen into a silken robe. The child set his feet on earth, and faced the Easterly direction. A white canopy was raised over him.

Innumerable universes appeared like one compound. Gods and men made offerings with flowers and incense, etc., and said, “O Great Being, there is none to equal you here; whence any superior.” Looking on all sides the Buddha saw no equal of his, and took seven steps in the Northern direction. As the seventh step was taken, the Buddha declared, “I am the chief of the world. This is my last birth. There will be no more births for me.” For, this is the birth of the Buddha, the unique and marvellous being, who is born in the world out of compassion for the world, for the good, the benefit and the happiness of gods and men.

As the Buddha was born, a limitless super radiance surpassing that of the gods traversed through the entire universe. Myriads of gods in the heaven of Tāvatiṃsa immensely rejoiced to hear of the birth of the future Buddha and engaged in much revelry and sport.

At the time of the birth of the Buddha, there were also born Bhaddhakaccānā (Yasodharā), the Ministers Channa and Kāludāyi, and Kanthaka, the horse. The Bodhi-tree and the four great treasures, too, arose at this time.

Saṅghassa sāmaggi: Sangha is the oldest, democratically constituted, historic celibate Order, founded by the Buddha. Strictly speaking, the Sangha denotes those noble disciples who have realized the four Paths and four Fruits. The ordinary bhikkhus of the present day are merely their representatives.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12653)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12269)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11049)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10922)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13375)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11798)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13685)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11920)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11185)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12214)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12415)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20609)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12442)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12468)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11731)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11609)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22445)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13588)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29713)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11553)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16767)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12019)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16860)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12085)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17939)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12656)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13186)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14776)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22645)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10597)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14071)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13882)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13736)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13881)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13954)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14844)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13868)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18430)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22816)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15409)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17337)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22426)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14278)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12596)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11181)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17778)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13221)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13120)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18812)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17196)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13533)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12933)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14711)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14668)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15888)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13531)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27451)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13258)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16739)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
(Xem: 21405)
Tiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant