Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Như Lai Thọ Lượng

14 Tháng Năm 201607:07(Xem: 7930)
Như Lai Thọ Lượng

NHƯ LAI THỌ LƯỢNG

Nguyễn Thế Đăng

Như Lai Thọ Lượng

 

Như Lai thọ lượng là phẩm thứ 16 của kinh Pháp Hoa.

Trước khi nói về thọ lượnggiác ngộ của Như Lai, Đức Phật đã nói ba lần: “Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thật của Như Lai”. Chữ “thật” này còn được nhắc lại năm lần nữa trong phẩm ngắn chưa tới mười trang này.

Lời nói chắc thật của Đức Phật là: “Thật ta thành Phật đến nay đã vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức vô số kiếp”. Như Lai đã thành Phật từ vô lượng vô biên kiếp, nghĩa là thọ lượng của Như Lai cũng đã vô lượng vô biên kiếp. Thọ lượnggiác ngộ của Như Lai là một, và sẽ trải dài đến tương lai vô lượng vô biên. Đức Phật nói “sẽ diệt độ, chỉ vì chúng sanh mà dùng phương tiện nói”.

Đến nay vô lượng kiếp
Vì độ chúng sanh vậy
Phương tiện hiện Niết-bàn
thật không diệt độ
Thường trụ đây thuyết pháp.

Thọ lượng giác ngộPháp thân của Đức Phật Thích-ca và cũng là của tất cả chư Phật thì luôn luôn hiện hữu từ vô thủy đến vô chung.

Với chúng ta, tin là tin rằng cuộc đời chúng ta, dù có thế nào, luôn luôn nằm trong thọ lượnggiác ngộ vô lượng vô biên của Như Lai. Thật ra, chúng ta đang sống trong thọ lượng giác ngộ vô lượng vô biên của Như Lai. Cuộc đời của mỗi chúng ta, dù ngắn ngủi, bấp bênh, lên xuống, thành bại thế nào đi nữa thì cũng luôn luôn trùng khít với thọ lượng giác ngộ vô lượng vô biên của Như Lai. Nghiệp riêng của mỗi chúng ta có là gì đi nữa, nghiệp của thế giới chúng sanh, của tất cả sự vật, của tất cả chư thánh hiền có là gì đi nữa, thì vẫn nằm trong và luôn luôn trùng khít với thọ lượng giác ngộ vô hạn của Như Lai. Như một giọt nước trong đại dương thì luôn luôn nằm trong và trùng khít với đại dương.

Tin nghĩa là hiểu, hiểu tức là tin. Tin hiểu cuộc đời hữu hạn vô thường, với hạnh phúc và khổ đau của chúng ta và tất cả mọi chúng sanh, luôn luôn là một với thọ lượng giác ngộ vô biên không giới hạn của Như Lai. Tin hiểu là thấy biết được rằng cuộc sống của mỗi chúng tathọ lượng giác ngộ vô tận. Tin hiểu là thấy biết được rằng sự hiện hữu của mỗi chúng ta, của thế giới, chúng sanh và sự vật là thọ lượng giác ngộ vô tận. Tất cả là sự thị hiện của thọ lượng giác ngộ vô lượng vô biên của Như Lai.

Thế nên kinh Hoa Nghiêm nói: “Ba nghiệp thân khẩu ý trở thành vô biên” (Phẩm Thập định, thứ 27).

Không có sự vật nào, không có chúng sanh nào có thể nằm ngoài, tách biệt với thọ lượng giác ngộ vô biên của Như Lai. Một sát-na là một khoảnh khắc. Trong một sát-na có ít nhất 60 lần sanh diệt. Những sanh diệt trong khoảng sát-na đó vẫn là thọ lượng giác ngộ vô biên của Như Lai. Mỗi vi trần là một không gian nhỏ nhất, không thể nằm ngoài, tách biệt với thọ lượng giác ngộ vô biên của Như Lai, nên chính nó là thọ lượng giác ngộ vô biên của Như Lai.

Phẩm Thí Dụ, thứ ba, đức Phật nói: “Hiện nay ba cõi này, đều là của ta cả”. “Của ta”, nghĩa là ba cõi này, cho đến mỗi sát-na và mỗi vi trần, đều của thọ lượng giác ngộ Như Lai và là thọ lượng giác ngộ vô biên của Như Lai.

“Ba cõi là của ta”, không có sự vật nào, chúng sanh nào nằm ngoài, khác biệt với cái của ta này. Không có sự vật nào không là cái của ta này. Của ta là thọ lượng giác ngộ của Như Lai.

Vì trong cái thấy biết của Đức Phật thì ba cõi chính là “thật tướng của tất cả các pháp”:

“Vì Như Lai như thật thấy biết tướng của ba cõi, không có sanh tử, hoặc lùi mất, hoặc xuất hiện, cũng không ở đời hay diệt độ, chẳng có thật, chẳng không hư, chẳng phải như, chẳng phải khác, chẳng như ba cõi mà thấy ba cõi. Các việc như vậy, Như Lai thấy rõ, không có sai lầm”. (Phẩm Như Lai thọ lượng, thứ 16).

Tất cả các pháp là thọ lượng giác ngộ vô biên của Như Lai:

Vì tất cả các pháp
Thảy đều là không tịch
Không sanh cũng không diệt
Không lớn cũng không nhỏ
Vô lậuvô vi.
(Phẩm Tin Hiểu, thứ 4).

Tất cả các pháp, con ngườithế giớithọ lượng giác ngộ của Như Lai, đây là tính cách thiêng liêng rốt ráo của thế giới.

Thấy tất cả chúng sanh trong thọ lượng giác ngộ của Như Lai, đây là tâm từ rốt ráo.

Tất cả chúng sanhthọ lượng giác ngộ của Như Lai mà họ không hay biết, đây là đồng thể đại bi.

Tin hiểu sanh mạng mình là thọ lượng giác ngộ Như Lai vô biên vô tận, đây là giải thoát.

Thấy tất cả những lỗi lầm của mình đều xảy ra trên và trong thọ lượng giác ngộ của Như Lai, đây là chân sám hối…

(Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số 242+243)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1257)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1620)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1743)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1306)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 998)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1307)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 1797)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1358)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1460)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1287)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2589)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1280)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1305)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1589)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1567)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1530)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1365)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2512)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1514)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1499)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1285)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1332)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1497)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1452)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1335)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1306)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1415)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2067)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1443)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1411)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1513)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1749)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1429)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1298)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1572)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1307)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1603)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2220)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1376)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1852)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1577)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1665)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1519)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1858)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1568)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1354)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1633)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1488)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1451)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1242)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1168)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1210)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1434)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1546)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1526)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 958)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1407)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1416)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1555)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1799)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant