Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hãy Quy Y Từ Tận Đáy Lòng

17 Tháng Năm 201614:41(Xem: 8126)
Hãy Quy Y Từ Tận Đáy Lòng

HÃY QUY Y TỪ TẬN ĐÁY LÒNG

Khenchen Konchog Gyaltshen
Thanh Liên

Hãy Quy Y Từ Tận Đáy Lòng

Tam Bảo như lãnh vực hoạt động của mặt trời.
Lòng bi mẫn của các ngài thì vô tư và không bao giờ cạn kiệt.
Hãy quy y từ tận đáy lòng bạn.
Đây là lời khuyên tâm huyết của tôi.

TAM BẢO là Phật, Pháp, và Tăng. Trong Phạn ngữ, Tam Bảo được gọi là ratna, những viên ngọc quý mang lại hỉ lạc. Lãnh vực hoạt động của mặt trời là một phép ẩn dụ để chỉ điều gì hoàn hảo, tràn ngập khắp nơi và không bao giờ cạn kiệt, nó xua tan bóng tối và soi sáng một cách vô tư trên tất cả. Phật, Pháp, và Tăng có những phẩm tính đầy đủ và hoàn hảo, và sở hữu mọi khả năng để xua tan đau khổ và ban những gia hộ trên chúng sinh.

Phật có nghĩa là đấng đã hoàn toàn giác ngộ. Nói cách khác, một vị Phật đã hoàn toàn tỉnh giác khỏi giấc ngủ của sự mê lầm. Ngài thoát khỏi mọi che chướng thô lẫn tế, và đã khám phá hai giác tánh trí tuệ nội tại. Phật quảbản tánh được thiết lập một cách tự nhiên, không pha trộn, không phụ thuộc vào những điều kiện khác. Một vị Phật có trí tuệ toàn hảo, đã hoàn toàn thành tựu bản tánh của lòng bi mẫn, và có mọi năng lực để hiển lộ mọi hoạt động xuất sắc. Có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại, và tương lai. Thực ra, có nhiều vị Phật như vô số hạt bụi. Về cơ bản, thuật ngữ Phật ám chỉ bất kỳ ai có tâm hoàn toàn giác ngộám chỉ những vị thoát khỏi mọi đau khổ và những nguyên nhân của nó. Khi ta chỉ rõ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một vị Phật, Ngài là một khuôn mẫu của điều này. Một vị Phật có bốn thân tướng, tất cả hóa hiện từ Pháp Thân:

1.  Hóa Thân (Nirmanakaya) là một vị Phật hóa hiện trong một thân tướng vật lý. Một Hóa Thân có thể hóa hiện ở bất kỳ nơi đâu như điều gì có sinh khí hay vô tri vô giác—như một con người, một con vật, hay thậm chí một chiếc cầu, nếu cần thiết. Ví dụ như, ta thấy trong tiểu truyện của ngài Asanga (Vô Trước) là Đức Phật Di Lặc đã hóa hiện làm một con chó bị những con dòi phủ kín để tạo ra những điều kiện qua đó Asanga có thể có cơ hội nhìn thấy Ngài. Trong thực tế, những hiển lộ của một vị Phật không thể bị đo lường, bởi chúng thật vô hạn.

2. Báo Thân (Sambhogakaya) là sự biểu lộ của hiển lộ đầy đủ, toàn hảo của những phẩm tính xuất sắc, vô hạn của Đức Phật, được gọi là thân lạc thú—huy hoàng và chói lọi. Mọi vị Phật xuất hiệnhiển lộ trong những cõi Phật vô hạn trong hình thức này. Các Ngài không tụ họp ở đó, các Ngài cũng không nhỏ bé hơn. Báo Thân thì không thể nghĩ bàn và siêu vượt tư tưởng hay sự đo lường tầm thường. Tuy thế, các đại Bồ Tát là những vị đã thành tựu sự chứng ngộ cao cấp có thể hiểu được hình thức này. Báo Thânngôn ngữ vô hạn, nó hòa hợp, du dương và thích hợp với tâm thức của mọi chúng sinh. Hóa ThânBáo Thân hiển lộ để làm lợi lạc mọi chúng sinh qua lòng bi mẫn tinh khiết, trùm khắp.

3. Pháp thân (Dharmakaya) là sự toàn thiện của riêng ta, hoàn toàn thoát khỏi mọi mê lầmđau khổ. Pháp Thân vô hạn và siêu vượt mọi ranh giới. Ta không thể nhìn thấy nó bằng đôi mắt vật lý hay xúc chạm nó bằng bàn tay. Tuy thế nó là căn bản của mọi phẩm tính tuyệt vời, vô hạn—trí tuệ bao la, vô hạn, giác tánh nguyên sơ, và lòng bi mẫn. Nó là căn bản cho sự hiển lộ của an bình, hòa hợp, và đức hạnh, ngay cả trong trạng thái tương đối. Mọi hình tướng hay thân khác nhau của một vị Phật hóa hiện từ Pháp Thân.

4. Thân Tự tánh (Svabhavikakaya)bản tánh bất khả phân của ba thân tướng khác. Nói cách khác, bản tánh trống không của thân là Pháp Thân. Từ đó, hiển lộ không ngừng nghỉ của mọi thân tướngHóa Thân, và sự không thể chia lìa của hai thân này là Báo Thân. Hóa ThânBáo Thân cùng được gọi là rupakaya (Sắc Thân). Sắc ThânPháp Thân thì không thể tách lìa và được bao gồm trong Báo Thân. Ví dụ như, tâm trí tuệ của Đức Phật Thích Ca Mâu NiPháp Thân, ngữ của Ngài là Báo Thân, thân Ngài là Hóa Thân, và bản tánh không thể tách lìa của Ngài là Báo Thân.

Giáo pháp có nghĩa là phương pháp để bảo vệ tâm khỏi các klesha (các phiền não trong tâm). Các Giáo phápliên quan tới chân lý tuyệt đốitương đối, trước hết được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giới thiệu là Bốn Chân lý Cao quý:

  • Chân lý Đau khổ
  • Chất lý Nguồn gốc của Đau khổ
  • Chân lý Ngừng dứt Đau khổ
  • Chân lý Con đường Thành tựu sự Ngừng dứt

Bốn điều này bao gồm hai chân lý—điều thứ nhất, thứ hai và thứ tư được bao gồm dưới chân lý tương đối, và điều thứ ba là chân lý tuyệt đối. Chân lý tương đối là một chiếc cầu dành cho chúng sinh bình thường sử dụng để thể nhập chân lý tuyệt đối. Chân lý tương đối cũng được gọi là “Chân lý của Con Đường,” nghĩa là nó là một phương pháp để tịnh hóa những che chướng thô và tế. Con đường khám phá mọi phẩm tính toàn hảo của Đức Phật, bao gồm lòng đại bitrí tuệ nội tại. Con đường là cách đối trị tối thượng đối với mọi phiền não trong tâm không loại trừ điều nào. Chân lý tuyệt đối thì không thể nhận thức được, nghĩa là nó không thể được giải nghĩa bởi tâm phiền não. Sự không nhị nguyên không thể được tri giác bởi tâm-nhị nguyên. Tâm bận rộn của ta không thể định nghĩa được ý nghĩa tối thượng, tuy nhiên tự bản chất chúng không thể chia lìa—không có chân lý tương đối thì không có chân lý tuyệt đối.

Chúng ta nghiên cứu Giáo phápthực hành chân lý tương đối để kinh nghiệmchứng ngộ chân lý tuyệt đối, sự giác ngộ. Mọi sự ta nghiên cứuthực hành có quan hệ với hai chân lý: ngay từ lúc đầu khi ta bắt đầu đọc bảng mẫu tự abc và học đếm, rồi sau đó khi ta nhận ra mười đức hạnh và bắt đầu tránh mười ác hạnh. Sau đó ta cố gắng từng bước mộtvượt qua Năm Con Đường. Bốn con đường đầu tiên (con đường tích tập, con đường chuẩn bị, con đường nội quán sâu sắc, và con đường thiền định) có liên quan tới chân lý tương đối. Chân lý tuyệt đối (con đường vô học hay con đường của sự toàn thiện) được nhận ra khi ta thành tựu Phật quả.

Ta đi theo năm con đường này với sự hỗ trợ của ba tu tập: shila (giới), samadhi (thiền định quân bằng, định), và prajña (giác tánh thấu suốt phân biệt, tuệ). Khi ta xây một căn nhà, ta cần những vật liệu để làm cột, xây tường, và trần nhà. Bằng cách kết hợp những điều kiện này, ta có thể xây một căn nhà đẹp. Tương tự như vậy, để xây ngôi nhà giác ngộ, ba tu tập này là những vật liệu thô sơ, thiết yếu. Nếu một trong ba điều này bị bỏ quên, lâu đài giác ngộ không thể được xây dựng. Vì thế mọi hành giả Pháp phải cẩn trọng từng phần trong ba tu tập và như nhau. Hãy yêu quý chúng trong trái tim bạn.

Sangha (Tăng) ám chỉ cộng đồng những người tận tụy với việc nghiên cứuthực hành Giáo pháp. Có nhiều cách xếp loại Tăng đoàn: Các Shravaka (Thanh Văn), Pratyekabuddha (Phật Độc Giác), và các Bồ Tát, những vị đã thành tựu những giai đoạn khác nhau chẳng hạn như những con đường khác nhau hay mười bhumi (thập địa). Tất cả các ngài đã có những phẩm tính khác nhau, tùy thuộc vào những thành tựu của các ngài trong con đường tâm linh. Tăng đoàn các hành giả cư sĩ giữ năm giới và có niềm tin không thể lay chuyển nơi Phật, Pháp, và Tăng. Tăng đoàn các tăng và ni là những hành giả giữ các giới luật xuất gia và cam kết hướng cuộc đời mình vào việc nghiên cứuthực hành Giáo pháp. Những tăng đoàn này là những ví dụ lớn lao về những hành giả thành công, là những vị đi theo bước chân của Đức Phật. Các ngài là những đối tượng của sự tôn kính, sùng mộ, và khát khao. Các ngài hoàn toàn dâng hiến cho việc tịnh hóa những mê lầm trong tâm, những tư tưởng tiêu cực và dâng hiến cho việc duy trì thái độ giác ngộ. Ta có thể quy y Tăng là những vị đã thể nhập Con Đường thứ Ba và ở trên, những vị đã thành tựu sự hiểu biết phê bình sâu sắc. Đặc biệt là, ta quy y Tăng đoàn bao gồm những vị đã thành tựu cao cấp trong sự chứng ngộ về hai loại trí tuệ và đã thoát khỏi sinh tử. Vì thế, ba quy y này—Phật, Pháp, và Tăng—thì quý báu và là suối nguồn của mọi lợi lạc trong thế gian.

Một viên ngọc như-ý có những phẩm tính này: 

  • nó rất khó tìm trong thế gian
  • bản chất thanh tịnh
  • có khả năng đáp ứng những ước nguyện của con người trong vùng lân cận
  • là vật trang sức vô song của một quốc gia
  • của cải siêu việt trong mọi loại của cải
  • bản tánh không bao giờ biến đổi

Tương tự như vậy, Phật, Pháp, và Tăng sở hữu những phẩm tính tương tự như những phẩm tính của một viên ngọc như-ý:

  • chúng quý hiếm trong sinh tử
  • hoàn toàn tịnh hóa mọi che chướng thô và tế
  • có mọi khả năng đem lại sự an bình tương đốituyệt đối và mọi phẩm tính xuất sắc
  • là những vật trang sức siêu việt của thế giới, có thể tạo nên sự hòa hợp tuyệt đối
  • lỗi lạc nhất trong chúng sinh
  • không bao giờ nao núng trong việc làm lợi lạc chúng sinh qua trí tuệ, lòng bi mẫn, và các hoạt động.

Trên căn bản của bốn nền tảng, hãy thấu hiểu rằng ba điều này—Phật, Pháp và Tăng—là nơi quy y (nương tựa) không bao giờ vơi cạn và bi mẫn. Vì thế tự đáy lòng bạn, hãy quy y ba điều này. Đặc biệt là, Đức Phậtlòng bi mẫnđiều kiện đối với mọi chúng sinh. Lòng bi mẫntrí tuệ của Đức Phật đến với mọi chúng sinh không loại trừ ai. Trong tâm Đức Phật không có chút phân biệt nào, ngay cả giữa con ngườichúng sanh phi nhân. Ngài đã nuôi dưỡng lòng từ ái một cách không phân biệt. Những gia hộ của Đức Phật không lớn hơn đối với Đạo sư cao cấp, và không suy kém đối với chúng sinh bình thường, ngay cả đối với những côn trùng nhỏ bé. Ta có thể nghe nói rằng một Đạo sư nào đó có một thị kiến của Đức Phật, vì thế ta có thể nghĩ rằng Đức Phật gần vị Thầy này hơn và ở xa ta hơn. Điều này không đúng. Ta nên cảm thấy hoàn toàn tin tưởng rằng Đức Phật thì vô phân biệt và không bao giờ vơi cạn. Mặt trời chiếu sáng một cách vô phân biệt trên ngọn núi cao và trong thung lũng hẹp. Mặt trời có thể được phản chiếu trong hàng ngàn ao hồ không loại trừ cái nào. Tương tự như thế, các gia hộ của Tam Bảo đến với mọi chúng sinh đều ngang bằng nhau.

Nếu ta thực hiện một nỗ lực, sự hỗ trợ của Đức Phật luôn luôn có đó. Bản tánh không phân biệt của Đức Phật thì chân chính đối với tất cả chúng sinh. Điều này giảng nghĩa vì sao Giáo pháp không chỉ dành cho tăng và ni, nhưng có thể được thực hành bởi bất kỳ chúng sinh bình thường nào. Giáo pháp dạy ta làm thế nào giải thoát khỏi đau khổ phổ quát. Đức Phật luôn luôn có mặt bất kỳ nơi nào có cơ hội để giúp đỡ. Khi ta ở trong khí hậu nóng và chạm vào một cơn gió lạnh, ta có thể cảm thấy rằng điều này là gia hộ khỏe khoắn của Đức Phật. Khi trời lạnh và ta cảm thấy một xúc chạm với ánh nắng ấm áp, điều đó cũng là hoạt động gia hộ không bao giờ vơi cạn của Đức Phật. Những gia hộ của Phật, Pháp, và Tăng đồng xuất hiện với khát khao giải thoát khỏi đau khổ và sự quy y của ta. Cả hai đều cần thiết đối với kết quả hoàn hảo.

Ta biết rằng sinh tửlầm lạcđau khổ và ta muốn thoát khỏi trạng thái đó, nhưng ta không biết phải làm sao. Vì thế, ta cần một người hướng dẫn có thể cho ta một phương pháp hoàn hảo, có thể chỉ cho ta phương cách để hoàn toàn thoát khỏi mọi mê lầm. Về điều này, ta hướng về sự quy y Phật, Pháp, và Tăng. Đây là những lợi lạc của sự quy y:

* Ta trở thành một Phật tử và có mọi cơ hội để nghiên cứuthực hành Giáo pháp cao quý.

* Sự quy y trở thành nền tảng để thọ nhận mọi giới nguyện khác và soi sáng con đường giải thoát.

* Quy y tịnh hóa và xua tan mọi che chướng không loại trừ điều gì, giống như nước rửa sạch sự bất tịnh.

* Việc hãm hại từ người và các phi nhân trở nên bất lực.

* Quy y không chỉ thuộc về trí tuệ; đúng hơn, quy y bao hàm toàn bộ con người của ta.

* Phật là thân của sự tịnh hóa mọi che chướng, Pháp là phương pháp để tịnh hóa các che chướng, Tăng là nhóm người trong đó ta thực hành Pháp. Vì thế khi ta quy y Tam Bảothực hành Pháp, các che chướng không thể hoạt động, giống như bóng tối phai lạt khi mặt trời mọc.

* Ta thành tựu mọi điều mong muốn. Chẳng hạn như, ta có thể thành tựu sự toàn thiện của bản tánh nội tại, thuần tịnh của trí tuệ. Ta có thể hiển lộ sự an bình, hạnh phúc, danh vọng, và của cải mà không cần nỗ lựccuối cùng đạt được Phật quả. Trong khi ấy, ta sẽ tái sinh trong các cõi trời và người.

* Nhờ quy y, mọi phẩm tính của trí tuệlòng bi mẫn sẽ tăng trưởng vô hạn.

* Bằng cách quy y Tam Bảo, ta nhanh chóng đạt được Phật quả. Việc nghiên cứuthực hành Giáo pháp, từng bước một, tịnh hóa mọi che chướng không loại trừ điều gì và cuối cùng dẫn tới mục đích tối hậu.

* Khi ta thực hành một cách đúng đắnchân thành, ta sẽ không tái sinh trong những cõi thấp.

Câu chuyện dưới đây minh họa vấn đề này:

Norbu là một vị thần đầy năng lực, một nhà lãnh đạo trong các vị trời. Ông chơi đùa trong vườn của Cõi Trời thứ Ba mươi ba, ở đó nhiều con trai và con gái của những vị trời khác vây quanh ông. Một hương thơm dễ chịu tỏa ra từ thân ông và những vật trang sức của ông luôn luôn tươi tắn. Những người khác không thể chịu đựng nổi việc xa lìa ông. Họ miệt mài trong hoan lạc đến nỗi một trăm năm đã trôi qua trong một chốc lát ngắn ngủi.

Thật không may, những điềm triệu xấu đã bắt đầu xuất hiện trên thân của Norbu. Những bông hoa và vật trang sức của ông đã phai tàn, và một mùi hôi xuất hiện từ thân ông. Ông trở nên bất mãn với vị trí của mình. Các con trai và con gái của các vị trời nhận ra điều này và từ bỏ ông ta. Norbu quán chiếu và tự hỏi: “Điều gì đang xảy đến cho ta?” Bởi các vị trời có sự thấu thị phân biệt, ông nhận ra tình huống và khám phá rằng mọi đức hạnhthiện nghiệp mà ông đã thiết lập trong quá khứ đã bị hủy hoại và cạn kiệt. Bận rộn với những lạc thú, ông đã không tích tập công đức mới mẻ trong đời mình. Khi đó ông tìm kiếm nơi ông sẽ tái sinh sau khi chếtnhận ra rằng ông sẽ bị thụ thai làm một con heo trong một vũng bùn khổng lồ. Việc đề phòng số phận này khiến ông đau khổ không thể chịu đựng nổi.

Norbu đi tới Indra (trời Đế Thích), vua của các vị trời, và xin được bảo vệ để thoát khỏi sự tái sinh khủng khiếp này. Nhưng trời Indra nói: “Ta không có khả năng để giúp ông. Ông nên đi tới Đức Phật để xin cứu giúp.” Trong giây lát, Norbu xuất hiện trước Đức Phật và khẩn cầu một cách chân thànhtuyệt vọng. Khi lễ lạy, ông cầu xin được bảo vệ để khỏi bị tái sinh trong những cõi thấp. Đức Phật khuyên: “Hãy quy y Phật, Pháp, và Tăng,” và ban cho ông giới nguyện quy ygiáo huấn trong việc thiền định. Norbu đã nhất tâm thực hành một cách chân thành. Ngay lập tức sau khi chết, Norbu được tái sinh làm vua của cõi Brahma (Phạm thiên).

Indra (trời Đế Thích) tự hỏi không biết con trai của các vị trời tái sinh ở đâu, vì thế ông hỏi Đức Phật. Đức Phật bảo ông ta tìm kiếm trong cõi Phạm Thiên bởi Norbu đã được sinh ra làm một vị vua ở đó. Khi Indra nhìn thấy điều này là sự thực, ông ngạc nhiên trước năng lực phi thường của sự quy y, và ông đã hát tụng lời tán thán này:

Người quy y Phật, Pháp, và Tăng—
mặc dù được dự định sẽ tái sinh trong một cõi thấp,
thay vào đó, ông được sinh trong một cõi trời khác
bởi ông ta đã quy y khi ở đây trong một cõi trời.

Cao quý biết bao, phi thường biết bao, năng lựcgia hộ của sự quy y!

Hơn nữa, nếu ta quy y Tam Bảođi theo con đường, những đời sau của ta sẽ được những lợi lạc:

* Ta sẽ được đối diện các vị Phật được tô điểm những dấu hiệu chính và phụ, hay gặp những Đạo sư kim cương vĩ đại.

* Trong liên tục những cuộc đời, ta sẽ không bao giờ xa lìa việc nghe Giáo pháp.

* Ta sẽ gia nhập tập hội Tăng đoàn.

Hãy thư thản trong chốc lát và thở một hơi dài. Trong không gian trước mặt bạn, hãy quán tưởng Đức Phật, hiện thân của trí tuệlòng bi mẫn; Pháp, giáo lý toàn hảo; và Tăng, các Bồ TátA La Hán vĩ đại. Hãy phát khởi lòng sùng mộ vĩ đại và khát khao thoát khỏi sinh tử. Hãy quy y một cách chân thành và tụng lời cầu nguyện này hai mươi mốt lần hay hơn nữa:

Nam mô Phật.
Nam mô Pháp.
Nam mô Tăng.

Sau đó, hãy tan hòa sự quán tưởng thành ánh sáng, sau đó ánh sáng này tan vào bạn. Hãy thiền định rằng bạn thọ nhận những gia hộ về trí tuệlòng bi mẫn, chúng tịnh hóa mọi che chướng của bạn. Hãy ngơi nghỉ tâm thức trong trạng thái tự nhiên, là tâm Phật, trong một thời gian. Cuối cùng, hãy hồi hướng công đức.

Trích trong “A Complete Guide to the Buddhist Path” (Một Hướng dẫn Đầy đủ về Con Đường Phật pháp) của Khenchen Konchog Gyaltshen

 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12653)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12267)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11048)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10921)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13375)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11797)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13676)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11916)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11185)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12211)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12415)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20607)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12442)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12468)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11731)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11605)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22444)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13587)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29711)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11553)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16767)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12018)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16858)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12085)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17939)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12655)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13184)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14775)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22642)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10596)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14065)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13881)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13733)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13880)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13952)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14843)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13865)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18429)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22816)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15409)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17336)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22426)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14277)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12596)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11181)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17778)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13221)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13117)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18811)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17196)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13533)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12932)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14710)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14667)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15887)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13529)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27451)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13257)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16739)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
(Xem: 21405)
Tiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant