Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

CHƯƠNG 4 - KẾT LUẬN

19 Tháng Năm 201611:36(Xem: 3979)
CHƯƠNG 4 - KẾT LUẬN

Tủ Sách Bảo Anh Lạc
PHÁP NGỮ
TRONG KINH KIM CANG

Thích Nữ Giới Hương

(Tái bản lần 3)
NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC – 2016

Pháp Ngữ Trong Kinh Kim Cang
CHƯƠNG 4

KẾT LUẬN

 

Đức Phật dạy nếu chúng ta vô minh không nhận được tánh Kim Cang Bát Nhã ba la mật này thì sẽ như bà già mù đi trong rừng xương. Mê muội chấp có ta, người, chúng sanh, thọ giảma lực của vô minh. Bà già ấy vì mù tối nên sẽ không sáng suốt như bố thí thì mong cầu phước hữu vi sung sướng rồi lại đi vào đường khổ vướng mắc sanh tử. Cho nên bây giờ muốn sáng suốt thì chúng ta phải gỡ sự mù tối ở trong mắt ra, đừng để cho mù nữa. Một con mắt mù là do sự chấp ngã làm mù và một con mắt kia bị mù là do chấp pháp nó làm mù. Chúng ta mù là bởi vì chúng ta không thấy đúng sự thật, đã không thấy đúng sự thật mà còn thấy sai nữa và do sự sai lầm này làm cho mình mê lạc trong mười loài chúng sanh. Thí dụ khi bố thí, chúng ta cứ chấp có ta (là người bố thí), có người (là người nhận thí) và có vật (quà để bố thí), cho nên hễ người nào là thân với mình, khen mình, hay cho mình nhiều quà cáp thì chúng ta thích và cho là người tốt. Nhiều khi có người làm bậy nhưng chúng ta vẫn cứ khen. Còn người nào thẳng thắn, thật thà, không cho mình quà bánh, cũng không khen hay lân mẫn thì chúng ta coi thường lạnh lẽo, không thích họ. Có những người tốt, làm điều phải thì chúng ta lại cứ chê cho là xấu, là bậy. Cho nên, Đức Phật dạy không có trí tuệ Kim Cang, không thấy được sự thật, sẽ như bà già mù đi trong rừng xương sọ.

Đức Phật khuyên không chấp ta, người, chúng sanh, thọ giả mới thật là người tin kinh Kim Cang, mới thật là kính thờ vô số Phật. Đức Phật bảo thêm không có tướng pháp, tướng phi pháp nhưng nhớ lúc qua sông, chúng ta cần cái bè, bây giờ lên bờ rồi thì chúng ta bỏ bè lại. Nhưng để bè lại chứ không phải là phá hư cái bè, để cái bè đó cho người khác cần đến thì sử dụng. Cũng như uống thuốc để trị bịnh, khi hết bịnh rồi thì không uống thuốc nữa, nên để thuốc cho người khác dùng chứ không phải phá hủy thuốc đó đi. Thân vàng kim sắc của Đức Phật mà còn là hư vọng thì bao nhiêu cái thân uế trược như chúng ta đây đều không có thật. Đức Phật không cần nói những thân khác, ngài chỉ lấy ngay thân của ngài để minh bạch rằng sắc thânhình tướnghư vọng huyễn ảo. Lìa cả sắc, lìa cả tướng thì mới sống với tánh Kim Cang Bát Nhã này được.

Có nhiều người nếu không học các kinh Đại Thừa như Lăng-nghiêm, Pháp Hoa, Kim Cang thì bao giờ mà biết Phật thật cả, chỉ sống trong ảo giả, trong đường mê mà cứ cho là thật. Sống cho những tướng và cảnh sống đây là thật. Cho nên nhờ học kinh Kim Cang hôm nay giúp chúng ta trở về với mình, với cái thật của ta, còn hình tướng thì đều hư giả, đừng khởi tâm yêu thích bám vào thân mình, đừng ích kỷ tật đố. Dùng trí Kim Cang để buông tâm yêu thích thân (ái ngã), biết coi thường thân này để phụng thờ Tam bảo, phục vụ đại chúng.

Cuộc đời sanh tử đều hư vọng. Thân như bóng chớp, chiều tà. Quang cảnh cũng thế vừa mưa rồi chợt nắng, vừa mới sáng rồi lại tối. Nay chuyện này mai chuyện khác luân chuyển thay đổi. Như bông hoa sáng tươi, chiều héo; như bóng bóng nước chợt thấy liền tan, đều là những cái không có. Chúng ta từ nhỏ đến lớn, ăn cơm uống nước bào chế ra máu, bào chế ra da thịt, tạo ra đống đất này, rồi hít thở không khí, lãnh nắng ấm mặt trời để giữ thân và nương tựa vào thân này, sống chết với cái này và cứ thế vẫn theo thói quen vơ vào những giả tạm trong nhiều đời kiếp. Bây giờ chúng ta sống với cái chân thật của mình, tuy là vô sanh bất diệt nhưng tâm mê của chúng ta vẫn cứ chạy theo những hư vọng, cho nên biến hóa hết thân này sang thân khác. Vì vậy, pháp ngữ trong Kinh Kim Cang là mở con mắt trí tuệ cho chúng ta, khiến cho chúng ta sống với tánh Bát Nhã của mình. Khi chúng ta nhận thân Kim Cang thường còn, đừng nhận thân hư vọng này là chúng ta hết mù một con mắt về ngã. Nhận cảnh thường trụ, đừng nhận cảnh hư vọng này là của mình tức hết mù con mắt về pháp. Giác tỉnh được ngã pháp là tỉnh được tánh Kim Cang. Những gì chúng ta đang thấy là trong mê lầm gọi là kiến hoặc (cái nhìn sau lầm). Tỉnh ra và phá được kiến hoặc gọi là chứng Tu-đà-hoàn. Phá được tư hoặc (suy nghĩ sai lầm) sẽ chứng A-na-hàm, quả vị á-thánh của Tiểu thừa. Nếu ngay nơi thân giả tạm này đây mà chúng ta nhận được tánh đang nghe, đang thấy, đang nếm, đang ngửi là tánh Kim Cang Bát Nhã thì chúng ta sẽ thành Phật.

Bà già nghĩa là già cỗi lắm rồi, đã lâu lắm rồi sống với vô minh mê hoặc. Sự ngu si mù lòa này chúng ta đã sống với nó quá lâu khiến nó gần như là thể chất của mình rồi và cứ nhận sự vô minh ấy là tôi. Bây giờ muốn nhận ra nó không phải là mình thì chúng ta phải có công phu bền bỉ. Giống như tờ giấy chúng ta đã gấp lại rồi. Lâu ngày vết gấp rất rõ rệt, khó phai. Khi mở tờ giấy ra, vết hằn vẫn còn đấy. Chúng ta cần bẻ ngược lại vết hằn ấy để nó từ từ phôi phai đi và sẽ mất hằn dấu vết. Trong sự tu tập, chúng ta cũng thế, nghĩa là chúng ta phải biết từng niệm quán Tứ Niệm Xứ, quán tánh Kim Cang và phải quán liên tục ta mới nhận ra và bỏ dần tập khí chấp ngã và pháp. Còn nếu không, mỗi ngày sáu căn tiếp xúc sáu trần, chúng ta cứ đưa mắt nhìn, tai cứ nghe hàng vạn lần, mũi cứ ngữi, lưỡi cứ nếm, thân cứ tiếp xúc, ý cứ tuởng pháp trần thì đều là trong chấp ta (có cuộc đời của mình), ngoài chấp cảnh (môi trường sống xung quanh). Mỗi một ngày hiện tại chúng ta học kinh Kim Cang nhưng hàng ngày chúng ta vẫn tập sự ngu si mù lòa ấy. Mỗi một lần đưa mắt nhìn, ý thức liền cho ngay là cái tôi đang nhìn, tôi đây đang thấy chùa chiền, đường xá, cây cảnh, sông núi. Tôi đang có con mắt, tai nghe, mũi ngữi, miệng nếm, thân xúc, ý biết, tức đang có sáu căn là cuộc đời của tôi và sáu trần là cảnh chung quanh, tức vẫn đang có những chấp ngã pháp kết tủa chung quanh.

Tu tập là đi ngược dòng thói quen. Chúng ta tập buông sự chấp ngã, buông niệm chấp có thân, tâm, cảnh và cuộc đời của mình. Mặc dù chúng ta học Kim Cang Bát Nhã rồi nhưng chúng ta vẫn kết sự si ám, vẫn cứ thuần kết sự mù lòa làm mình. Cho nên bây giờ mỗi một niệm chúng ta phải tập tỉnh ra, mỗi sự xúc chạm, căn trần phải nhận ngay vô ngãvô pháp. Phải có công phu nghiêm ngặt như vậy thì chúng ta mới chứng Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hoàn, A-na-hàm và mới thật chứng A-la-hán và tiến đạt đến các quả vị quả vị thánh Tiểu thừa. Đó là chúng ta học cách tu tập của pháp Tiểu thừa đã để nhận từng niệm của mình. Tiến lên đại thừa, Kinh Kim Cang dạy chúng ta tập nhận từng niệm để độ tất cả chúng sanh. Mỗi một niệm tham là một con ma. Mỗi một niệm sân là con rắn hay con quỷ. Mỗi một niệm khởi lên là một loài noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh, hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng, hoặc phi hữu sắc, hoặc phi vô sắc, hoặc phi hữu tưởng, hoặc phi vô tưởng. Chúng ta phải độ cho hết mười loài chúng sanh ấy nghĩa là tỉnh ra, đừng nhận niệm ấy là thật, để nó tan đi. Chúng ta từng niệm, từng niệm độ chúng sanh trong tâm của mình, hàng ngày độ cho chúng nó vào vô dư Niết bàn, trở về tánh vô sanh, không có loạn niệm nữa. Chúng ta an định vào cái thật, suốt ngày chúng ta phải đối với từng niệm để cho nó tỉnh ra, đấy là việc đầu tiên chúng ta phải làm.

Bên ngoài sáu căn đối với sáu trần, chúng ta biết là huyễn, là vô ngã, cho nên không có chấp sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Biết tất cả là huyễn, nên việc đầu tiên là buông xuống, như thế gọi là không chấp. Trình độ buông được vọng tâm, vọng thân, vọng cảnh, chỉ mới là đạt được tông chỉ của tiểu thừa. Nhưng trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy Bồ tát phải bố thí, nghĩa là bồ tát tu lục độ vạn hạnh và trước khi tu lục độ vạn hạnh, bồ tát phải tu trình độ Tiểu thừa, phải giải thoát được các vọng thân, vọng tâm và vọng cảnh. Chúng ta tập buông đi và tập đối xử với mọi người bằng tâm Bồ tát, tâm từ bi, hỷ xả, tâm lục độ vạn hạnh, tập được tâm nào, tập được đến đâu thì quý đến đó. Đây là Phật sự của người học đại thừa và trong Đại thừa chúng ta phải xong các pháp quán của Tiểu thừa. Nếu chưa có tiểu thừa mà nói đại thừa thì vô lý, chưa có căn bản mà đã nói đến trưởng thành là không thể được, cho nên phải lo tu Tiểu thừa trước. Chúng ta phải tập tu đừng chấp ngã, đừng chấp pháp, tỉnh ra, buông được vọng thân, vọng tâm và vọng cảnh. Rồi dùng tâm thanh tịnh trong sáng ấy mà tu các công đức tiến lên Đại thừa, tối thượng thừa viên đốn. Lúc đó, chúng ta sẽ thấy khả năng tâm của chúng ta sẽ bao la, diệu dụng và hữu ích rất nhiều. Lúc đó hàng phục tâm nghĩa là độ được mười loài chúng sanh ở tâm mình và an trụ tâm sẽ là đưa mười loài chúng sanh trở về tự tánh Niết bàn vô sanh mà không thấy một chúng sanh nào được độ. Đó là an cư lạc nghiệp, là giải thoát, minh tâm kiến tánh.

Như vậy, trong những năm đầu thuyết pháp, Đức Phật muốn chúng ta tin sáu căn, sáu trần, sáu thức là hư vọng trước, buông được luân hồi sanh tử, rồi từ từ Đức Phật mới nói đến tánh Kim Cang, chân tâm thường trụ của các kinh Đại Thừa, để chúng ta vào pháp viên đốn. Đó là một đời giáo hoá của Phật bởi vì Phật nói đến đâu còn đợi cho các đệ tử tu chứng phần đó, rồi Phật mới nói tiếp nữa. Đợi cho các đệ tử tu chứng thấy được hết cái giả rồi, chứng được A-la-hán, buông được thật sự những cái giả, lúc bấy giờ Phật mới bắt đầu nói đến đại thừa của kinh Kim Cang, Lăng Nghiêm, vv... để vào tâm thường trụ ngay nơi mình. Chúng ta bây giờ chỉ học thôi chứ không bắt buộc có sự tu chứng, cho nên chúng ta học nhanh, học cả tiểu thừađại thừa chung cùng một lúc và nhiều Phật tử bây giờ rất thông thạo, nhiều vị còn trẻ mà đã học Kim Cang và Lăng nghiêm rồi. Như vậy cũng hay để chúng ta biết đường đi để khỏi bị những cái giả đánh lừa. Chúng ta hẳn biết đường đi đã, còn tu chứng thì tính sau (vì chúng ta không phải là thượng căn) và cố gắng nhanh lên. Đức Phật đã thị tịch rồi, nhưng những kinh như kinh Kim Cang đóng vai trò như kim chỉ nam giúp cho chúng ta kiến tánh thành Phật.

 Đức Phật giảng xong kinh Kim Cang. Tôn giả Tu-bồ-đề cảm nhận được sự thống khổ của vô minh nên ngài khóc, cảm thương chúng sanh mê muội mãi loanh quanh trong sáu đạo luân hồi mà không biết họ vốn có tánh Phật thường trụ. Còn chúng ta thì cười và thích cam phận làm bà già mù đi trong rừng xương sọ, chứ làm cái khác cao thượng hơn thì chúng ta thấy khó khăn, không làm nổi. Tôn giả Tu Bồ Đề mừng vì ngài chữa được bịnh mù loà, vì hai chấp trước ngã và pháp và bốn tướng trạng của ta, người, chúng sinhthọ giả không còn quấn chặt ngài nữa. Ngài vô cùng cảm kích và vui mừng đến chảy nước mắt bởi lẽ bây giờ ngài đã chứng ngộ rằng trong khi bố thí, nên thực hành hạnh bố thí vô tướng và trong khi độ sinh, nên thực hành cách độ sinh vô ngã. Như vậy gọi là cách an trụ tâmhàng phục tâm rốt ráo. Đây là Pháp Ngữ quan trọng chính yếu của kinh Kim Cang. Đây là pháp viên đốn cao sâu nhiệm mầu mà tôn giả Tu Bồ Đề được nghe và được thể nhập. Từ đây, Tánh Không Bát Nhã ba la mật của ngài đã được sáng tỏ và từ đây, ngài được mệnh danh là Giải Không đệ Nhất trong chúng trung tôn của Đức Thế Tôn

Kinh này gọi là Kim Cang Bát Nhã, nhưng từ đầu tới giờ chúng ta không thấy trong chánh văn Phật nói gì đến chữ Kim Cang Bát Nhã Ba la mật cả. Nhưng thật ra khi Đức Phật dạy không có tướng ta, tướng người, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, tướng pháp và phi pháp… đó là Đức Phật đang khai trí tuệ Kim Cang Bát Nhã cho chúng ta. Trí Kim Cang Bát Nhã này có sẵn ở nơi mình, chứ không phải của Phật và Phật đang khai mở cho chúng ta thấy. Đức Phật đang dùng lời nói để khai tuệ Bát Nhã. Hễ chúng ta buông được sự mê muội của ngã chấppháp chấp thì tuệ Bát Nhã của chúng ta hiện tiền. Chính trí Kim Cang của chúng ta đang phá những mê muội của mình, những mê muội đang biểu lộthân khẩu ý đây. Đức Phật đang dùng lời nói, phương pháp để tuệ Bát Nhã của chúng ta được hiển thị ra, chính tuệ hiểu biết này đang phá ngã chấp, pháp chấp, đó chính là tánh biết của chúng ta đang làm việc này. Đấy là Kim cang, là chân không Bát Nhã. Hễ thọ trì pháp ngữ (16 pháp ngữ của chương 2) đến đâu, chúng ta tỉnh đến đâu thì đó là chúng ta đang lên bờ kia “đáo bỉ ngạn” đến đó. 

Nhờ công đức thường xuyên thọ trì tụng kinh Kim Cangchúng ta nhận ra tánh Kim Cang bền chất của mình, sống với bản thể thường còn của mình cũng như mình có mắt biết thấy, nhưng phải nhờ đèn mới thấy được ban đêm. Kinh Kim Cang như ngọn đèn, chúng ta nương cuốn kinh để thấy tánh Kim Cang của mình. Chúng ta dùng tánh Kim Cang của mình để chữa hai mắt mù đi, chữa sự chấp ngã pháp. Khi chúng ta tỉnh ra, buông đi là lúc đã chữa lành bệnh mù lòa, là lúc sáng tỏ tánh Kim Cang Bát Nhã ba la mật của mình.

Nam-Mô Bát-Nhã Hội-Thượng Phật Bồ-Tát

Ma-Ha-Tát. (3 lần)

THAM KHẢO

 

1)    Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, Hán dịch: Cưu Ma La Thập. Việt dịch: Thích Trí-Tịnh

http://www.niemphat.com/kinhdien/kinhkimcang/kinhkimcang.html.

2)   Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật giảng giải, PM3, Tôn Sư Hải Triều Âm.

3)     Vòng Luân Hồi, Thích Nữ Giới Hương, NXB Phương Đông: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, 2008. Tái bản lần thứ 4, 2016.

4)     Luân Hồi trong Lăng Kính Lăng Nghiêm, Thích Nữ Giới Hương, NXB Văn Hoá Sài gòn: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, 2008. Tái bản lần thứ 4, 2016.

 


TỦ SÁCH BẢO ANH LẠC

 

1. Boddhisattva and Sunyata in the Early and Developed Buddhist Traditions, Bhikkhuni Gioi Huong, Delhi-7: Eastern Book Linkers, 1st print 2004, 2nd reprint 2005 & Vietnam Buddhist University: 3rd reprint.

2. Bồ-tát và Tánh Không Trong Kinh Tạng Pali va Đại Thừa, Thích Nữ Giới Hương, Delhi-7: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, 2005. Tái bản lần 2, NXB Tổng Hợp Tp HCM, 2008.

3. Ban Mai Xứ Ấn (3 tập), Thích Nữ Giới Hương, Delhi-7: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, 2005; và tái bản lần 2 năm 2006. Tái bản lần ba, Nhà Xuất Bản Văn Hoá Sài Gòn, 2008.

4. Vườn Nai – Chiếc Nôi Phật Giáo, Thích Nữ Giới Hương, Delhi-7: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, 2005. Tái bản lần 2, NXB Phương Đông, 2008.

5. Xá Lợi Của Đức Phật, Tham Weng Yew, Thích Nữ Giới Hương chuyển ngữ, Delhi-7: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, 2005 và tái bản lần 2 tại Delhi 2006. Tái bản lần 3, NXB Tổng Hợp Tp HCM, 2008.

6. Quy Y Tam BảoNăm Giới, Thích Nữ Giới Hương, Tủ Sách Bảo Anh Lạc, Wisconsin, USA, 2008. Tái bản lần 2, 2010 và lần 3 năm 2016

7. Vòng Luân Hồi, Thích Nữ Giới Hương, NXB Phương Đông: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, 2008. Tái bản lần 2, 2010; lần thứ 3, 2014 và lần thứ 4, 2016.

8. Hoa Tuyết Milwaukee, Thích Nữ Giới Hương, NXB Văn Hoá Sài gòn: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, 2008.

9. Luân Hồi trong Lăng Kính Lăng Nghiêm, Thích Nữ Giới Hương, NXB Văn Hoá Sài gòn: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, 2008. Tái bản lần thứ 2, 2012; lần thứ 3, 2014 và lần thứ 4, 2016.

10. Nghi Thức Hộ Niệm Cầu Siêu, Thích Nữ Giới Hương biên soạn, Delhi-7: Eastern Book Linkers, 2008.

11. Sen Nở Nơi Chốn Tử Tù, Nhiều tác giả, Thích Nữ Giới Hương chuyển ngữ, NXB Văn Hoá Sài gòn: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, 2010.

12. Nữ Tu và Tù Nhân Hoa Kỳ, (2 tập), Thích Nữ Giới Hương, NXB Văn Hoá Sài gòn: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, 2010; tái bản lần thứ 2 năm 2011; lần thứ 3, 2014 và lần thứ 4, 2016.

13. Quan Âm Quảng Trần, Thích Nữ Giới Hương, NXB Tổng Hợp: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, 2010; tái bản lần 2 năm 2012; lần thứ 3, 2014 và lần thứ 4, 2016.

14. Nếp Sống Tỉnh Thức của Đức Đạt Lai Lạt Ma Thứ XIV: (2 tập), Thích Nữ Giới Hương, NXB Hồng Đức: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, năm 2012. Tái bản lần thứ 2, 2014 và lần thứ 3, 2016.

15. A-Hàm: Mưa pháp chuyển hóa phiền não, (2 tập), Thích Nữ Giới Hương, NXB Hồng Đức: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, năm 2012. Tái bản lần thứ 2, 2014 và lần thứ 3, 2016.

16. Góp Từng Hạt Nắng Perris, Thích Nữ Giới Hương, NXB Hồng Đức: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, năm 2014.

17. Pháp Ngữ của Kinh Kim Cang, Thích Nữ Giới Hương, NXB Hồng Đức: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, năm 2014.      Tái bản lần thứ 2, 2016.

18. Tập Thơ Nhạc Nắng Lăng Nghiêm, Thích Nữ Giới Hương, NXB Hồng Đức: Tủ Sách Bảo Anh Lạc, năm 2014.

19. Chùa Việt Nam Hải Ngoại (Overseas Vietnamese Buddhist Temples), Võ Văn Tường & Từ Hiếu Cồn, vol 2, Thích Nữ Giới Hương chuyển Anh ngữ. NXB: Hương Quê, 2016.

20. Việt Nam Danh Lam Cổ Tự (The Famous Ancient Buddhist Temples in Vietnam), Võ Văn Tường. Chuyển Anh ngữ: Thích Nữ Giới Hương. NXB: Phương Nam, 2016.


 

ĐĨA CA NHẠC PHẬT GIÁO

CHÙA HƯƠNG SEN

 

1. Đào Xuân Lộng Ý Kinh, Thơ: Thích Nữ Giới Hương, Nhạc: Nam Hưng, volume 1, năm 2013.

2. Niềm Tin Tam Bảo, Thơ: Thích Nữ Giới Hương, Nhạc: Hoàng Y Vũ & Hoàng Quang Huế, volume 2, năm 2013.

3. Trăng Tròn Nghìn Năm Đón Chờ Ai, Thơ: Thích Nữ Giới Hương, Nhạc: Võ Tá Hân, Hoàng Y Vũ, Khánh Hải, Khánh Hoàng, Hoàng Kim Anh, Linh Phương và Nguyễn Tuấn, volume 3, năm 2013.

4. Ánh Trăng Phật Pháp, Thơ: Thích Nữ Giới Hương, Nhạc: Uy Thi Ca & Giác An, volume 4, năm 2013.

5. Bình Minh Tỉnh Thức (Piano Variations for Meditation), Thơ: Thích Nữ Giới Hương, Độc Tấu Dương Cầm và Hòa Tấu: Nữ Nhạc Sĩ Linh Phương, volume 5, năm 2013.

6. Tiếng Hát Già Lam, Thơ: Thích Nữ Giới Hương, Nhạc: Nam Hưng, volume 6, năm 2015.

7. Cảnh Đẹp Chùa Xưa, Nhạc:  Hoàng Quang Huế, Hoàng Y Vũ, Võ Tá Hân,   & Khánh Hải,  volume 7, năm 2015.

8. Karaoke Hoa Ưu Đàm Đã Nở, Thơ: Thích Nữ Giới Hương, Nhạc: Nam Hưng, volume 8, năm 2015.

 

 

PHÁP NGỮ TRONG KINH KIM CANG

Thích nữ Giới Hương

 

 

Chịu trách nhiệm xuất bản:

BÙI VIỆT BẮC

 

Biên tập: Thế Vinh

Sửa bản in: Quỳnh Trang

Bìa & Trình bày: Thích Nữ Viên Quang

 

 

 

 

NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC

A2 - 261 Thụy Khuê - Tây Hồ - Hà Nội

ĐT: 08044806 - Fax: 08043538

 



 

In tái bản lần thứ ba 2000 quyển, khổ 14x20 cm, tại Xí nghiệp In Fahasa, 177 Trường Chinh, Tân Bình, TP.HCM.

Giấy phép xuất bản số: 70-2012/CXB/146-01/ HĐ, cấp ngày 13 tháng 02 năm 2012. In xong và nộp lưu chiểu tháng 05 năm 2014.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11482)
Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng...
(Xem: 12653)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12266)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11047)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10921)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13374)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11796)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13676)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11915)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11185)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12211)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12415)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20607)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12442)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12468)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11731)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11605)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22443)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13587)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29710)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11553)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16764)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12018)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16858)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12084)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17939)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12655)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13184)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14775)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22641)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10596)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14062)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13881)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13732)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13880)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13952)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14843)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13865)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18429)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22815)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15409)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17335)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22426)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14276)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12596)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11181)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17778)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13221)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13117)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18811)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17194)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13525)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12931)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14710)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14667)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15886)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13529)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27450)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13257)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16739)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant