Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giác NgộGiải Thoát

22 Tháng Năm 201611:11(Xem: 11351)
Giác Ngộ Và Giải Thoát

GIÁC NGỘGIẢI THOÁT

Mãn Tự

Giác Ngộ Và Giải Thoát

       

Trong những bộ Kinh chúng ta học thường thấy hai từ Giác NgộGiải Thoát. Tất cả người tu học đều lấy hai từ đó làm cứu cánh để đi tới. Đạo Giác Ngộ nếu không có hai từ Giác Ngộ- Giải Thoát thì cũng giống như tất cả các Tôn Giáo trên thế gian này đặt hết niềm tin vào Ngoại giới để mong cầu hay thần phục hay được hội nhập vào những gì mà chính những người sáng tạo ra cũng ù ù cạc cạc mông lung mơ hồ, lý luận trường uốn để lung lạc những thành phần hiểu biết nông cạn. Họ đem sách vở lời nói của thời xa xưa để minh chứng rằng đó là sự thật; tuy nhiên nếu hỏi rằng ông đã đến đó chưa- đã gặp Đấng đó chưa thì không một ai trả lời được, vì sao? Vì thật ra những gì họ truyền bá ra chỉ là sản phẩm trong tưởng tượng mà thôi. Một vài dòng ở trên để tóm tắt về sự mong cầu ngoại giới của các vị tu hành mà không tự tin vào chính mình, không đủ ý chí dũng mãnh để thắng được chính mình.

Giác Ngộ hay Giải Thoát là tự thân trãi nghiệm, là thành quả nỗ lực thực hành tu tập, là sự dám đem thân tâm này ra làm thí nghiệm, là sự thấy biết như thật sự vận hành- sự chuyển biến của thân tâm này, từ ô nhiễm đến thanh tịnh, từ trói buộc đến Giải thoát, từ vô minh đến Giác ngộ; không mơ hồ- không hý luận, không trường uốn quanh co. Do tự thân trãi nghiệm nên những gì các Vị Giác Ngộ hay thật Giải Thoát nói ra giống như diễn tả màu sắc trái táo trong lòng bàn tay hay chỉ tay trong bàn tay của Họ vậy.

Vậy Giác NgộGiải Thoát là giống nhau hay khác nhau? Nếu khác nhau thì khác nhau như thế nào; còn nếu giống nhau thì giống nhau điểm nào. Để rõ ràng cấp độ sai biệt của hai từ đó thì không từ nào thích hợp hơn là từ “Vô Minh”. Vô Minh là nói chung cho tất cả chúng sanh trong thế giới Ta Bà này, tuy nhiên thế giới Ta Bàchúng ta đang sống vô cùng đặc thù trong Pháp giới này vì Nó dung nhập nhiều tầng lớp nhiều cấp độ khác nhau; có thể là ô trược có thể là thanh tịnh hay vừa thanh tịnh vừa uế; nó cũng không chống đối; không giống như các Cõi trời hay các Cõi địa ngục; hay có thể lấy nước Mỹ để hình dung, vì nước Mỹ có thể dung chứa tất cả các chủng tộc trên quả địa cầu này.

căn cơ bất đồng như vậy nên Vô Minh cũng có dầy có mỏng. Khi Đức Như Lai xuất hiện ban Pháp thì cũng tùy theo trình độ mà ban Pháp cho kế hợp; Với cấp độ căn cơ Nhị Thừa thì Vô Minh, Thế Tôn ban Pháp Vô Minh diệt là Giải ThoátVô Minh sanh ra cây mười hai nhân duyên nên sinh tử tiếp nối; hay Tứ Thánh Đế -Khổ Tập Diệt Đạo; nhờ Khổ Tập “Diệt” nên thấy được Đạo Bát Chánh; Vì sợ chán cái khổ của thân tâm này nên cầu Niết Bàn, vì Tâm loạn động không yên nên cầu an lạc thanh tịnh, không dám xả Pháp vì sợ tập khí nhiều đời tu tập giáo pháp Bà la môn trở lạ. Vì vậy, nên biết rằng sự tu hành trình độ Nhị Thừa chỉ Diệt cái Ngã mơ hồ cùng Vô Minh không thật; còn Pháp thì giữ lại để đối trị.

Còn những Vị có tâm thương xót chúng sinh bị mê mờ chìm trong sinh tử, tâm từ bi vô lượng nguyện chịu khổ thay cho chúng sinh, nguyện độ tận chúng sinh cho đến lúc không còn một chúng sinh nào để độ. Với các Vị có tâm kiên cường ý chí dũng mãnh, với tâm nguyện mênh mông bao la, không ngại sinh tử chẳng màn Niết Bàn, mà chỉ vì cứu khổĐại Bi Tâmdũng mãnh đi tới. Với các Vị đó, Đức Như Lai ban Pháp Bồ Tát Đạo Bát Nhã Tánh Không, nhờ tu học Bát Nhã Tánh Không các Vị Bồ Tát Giác Ngộ thấy ra thật tướng các Pháp nên Tâm các Ngài không lay động, dũng mãnh tinh tấn bước đi, quyết chí hoàn thành tâm nguyện Vô Thượng Bồ Đề dù có trãi qua bất khả tư nghị vô lượng thời gian.

Giác Ngộ Tánh Không nên các Ngài thấy thật tướng thế gian không có gì là thật; Nó giống như mộng ảo như chiêm bao, như hoa đốm trong không gian khi dụi mắt; Sắc thân tuy có nhưng tuyệt nhiên không có người làm chủ vì Tánh tứ đại không dừng trụ. Có cái khổ nhưng không người chịu khổ vì tâm ba thời luôn luôn chuyển động, có nghiệp báo nhưng không người thọ lãnhnghiệp báo không tự tánh do chấp thủ mà ra; có sự trói buộc nhưng không người bị trói, vì trói buộc do lãnh nạp mà có.

Các Vị Bồ Tát từ Sơ hoan hỷ địa đến đệ thất Viễn hành địa thì việc làm của các Ngài là từ cái nhân, nghĩa là đã thấy được tâm niệm vận hành luân chuyển bên trong hay Tâm hiện lượng theo Lăng Già. Tuy là như vậy nhưng đó vẫn là Hữu công dụng hạnh vì còn gia công đối trị, cho đến khi bước lên đệ bát Bất Động địa thì mới hoàn toàn tự tại việc làm của các Ngài là Vô công dụng hạnh vì đó là nhân trong nhân.

Còn Giải Thoát là các Vị tu hành thấy “Thật có” thân-tâm-pháp, thế giới- các cõi- ta người..v.v… Vì thấy thật có như vậy nên bị thật có trói buộc, vì bị trói buộc nên mới cầu giải thoát đến Niết Bàn. Dù rằng có Giải Thoát Niết Bàn nhưng không thật vì giống như sóng và nước. Thật ra từ lâu xa các vị đó chỉ thấy sóng mà không nhận ra nước, nếu nhận ra rằng sóng không từ đâu mà có nếu không có nước, thì cũng chẳng cầu Giải Thoát Niết Bàn.

Đó là sự khác nhau giữa Giác NgộGiải Thoát. Giác Ngộ là từ Căn Bản Trí thấy được thật tánh của Chơn Thức. Thật tánh của Chơn Thức (hay thật tánh các Pháp) là không đến không đi, không sinh không diệt, không một không hai, không có không không, không tịnh không uế, không còn không mất..v.v… ba thời bình đẳng tất cả chúng sinh đều đầy đủ, cho đến các bậc Thánh, Đại Bồ Tát, Chư Như Lai cũng không hai không khác. Nó ung dung tự tại vận hành không một ai có thể nắm bắt trì kéo lại được cũng như mặt trời du hành từ đông sang tây vậy. Vì thật tánh các Pháp như vậy nên Đức Thế Tôn nói rằng: “Có chư Như Lai xuất hiện hay không xuất hiện thì Pháp Tánh vẫn là Như”.

Còn Giải Thoátcảm giác mình bị trói buộc, tuy nhiên để tìm ra nguyên nhân đầu mối xiềng xích trói buộc thì mịt mờ không thể biết nó từ đâu đến, là quá khứhiện tại, là hữu hình là vô hình, là thân là tâm là pháp, là thế giới là ngã là Thần linh, là có là không..v.v…

Trong thời Thế Tôn có 96 Triết thuyết của 96 Triết gia đạo sư Ấn giáo. Tuy nhiên để giải đáp nguyên nhân của sự trói buộc và sự chấm dứt trói buộc thì không một vị nào biết được. Vì bị trói buộc luẩn quẩn trong cái thức luận lý nên mỗi vị đưa ra Triết thuyết khác nhau. Có vị cho rằng là Phạm Thiên làm ra, có vị lại quả quyết rằng không phải Phạm ThiênTự Tại Thiên, có vị lại cho là Đại Ngã, có vị lại phủ định tất cả mà cho rằng tự nhiên như vậy..v.v… Còn Lão Tử Trung Hoa thì nói rằng là Đạo làm ra, còn Thiên Chúa Giáo thì tin rằng đó là sự tình cờ của Thượng Đế.

Trong Giáo Pháp điều phục chúng sinh của Thế Tôn gồm có ba loại: Một nói về Nhân, hai nói về Quả, ba nói về Nhân Quả. Các Vị tu sĩ vào thời Thế Tôn xuất hiện hầu hết đều từ đạo Hindu Ấn giáo mà trình độ thì ở trong đám mây huyền bí thần quyền. Với trình độ căn bản như vậy thì không thể nào nhận được Giáo Pháp thâm sâu huyền diệu nên Thế Tôn tùy thuận giảng giải về Quả trong Quả là Khổ- khổ khổ- hành khổ- hoại khổ. Tuy nhiên vì sự mong cầu khác nhau nên các tu sĩ đó thực hành nhiều hạnh khác nhau theo niềm tin của đạo Hindu. Thí dụ như để được kiếp sau sinh vào gia đình giàu sang, quyền lực quý phái trong nhân gian, hay được sinh lên các cỏi Trời để thọ hưởng ngũ dục thượng diệu thì phải thực hành khổ hạnh như hạnh con chó, con bò, con công, con trĩ..v.v… Còn như muốn được sinh lên các cỏi Trời cao hơn, thượng diệu thù thắng hơn như Phạm Thiên, Tự Tại Thiên thì phải biết thiền định và giết dê trừu tế lễ cầu xin. Còn có một số vị thật tâm tu hành mong cầu Giải Thoát, họ lìa bỏ thế gian tìm nơi thanh vắng núi sâu rừng rậm để thiền định quyết tâm đạt được quả vị A-la-hán. Dù rằng trong giáo lý Hindu có danh từ Quả vị A-la-hán mà Pháp tu hành đến Quả vị A-la-hán thì không, nên mỗi vị tu sĩ phải tự mình mò mẫm mà đi. Vì vậy từ lâu xa, không có vị nào thật sự chứng Quả A-la-hán đúng nghĩa của nó trong đạo Hindu; mà chỉ thành Tiên thiên ngoại đạo như A-tư-đà hay Uất-đầu-lam-phất chứng Phi tưởng phi phi tưởng xứ; hay cũng có những vị chứng được Quả vị thứ ba là A-NA-HÀM. Tuy nhiên, cũng chỉ ngơ ngơ ngẩn ngẩn ở cỏi Trời Bất Hoàn với tâm thức tam thiền mà thôi.

Ban đầu, Đức Thế Tôn chuyển Pháp Luân tại vườn Lộc Uyển độ bốn anh em tu sĩ Kiều Trần Như với bài Pháp Khổ-Tập-Diệt-Đạo mà sau này là Tứ Thánh Đế. Khi nghe xong thời Pháp thì bốn anh em tu sĩ Kiều Trần Như  đều được Giải Thoát. Vậy trong bài Pháp Khổ-Tập-Diệt-Đạo sao gọi là Chuyển Pháp LuânGiải Thoát chỗ nào?

Giải Thoát có nghĩa là từ lâu bị trói buộc, bây giờ được mở ra; hay bị kẻ thù bắt giam nhốt tù đày, bây giờ được cứu thoát; hay như con chim bị nhốt trong lồng, bây giờ phá được lồng bay ra được tự do tự tại; hay trong tâm tư bị trói buộc trong định kiến chấp thủ, bây giờ được thiện tri thứctrí tuệ khai mở nên gút mắt được tiêu tan..v.v… Còn Chuyển Pháp Luân có nghĩa là bài Pháp chuyển đổi được ý nghĩ, chuyển đổi được tư duy, chuyển đổi được tâm thứcchuyển đổi được tư tưởng..v.v… Nên nhớ phá bỏ và chuyển đổi là hai sự việc khác nhau; vậy Khổ-Tập-Diệt-Đạo ở đâu là Chuyển Pháp Luân.

Khi mang lấy sắc thân vật lý này không một ai trốn tránh được cái Khổ; tuy nhiên để giải thoát cái khổ thì có thiên hình vạn trạn muôn màu muôn vẽ; dù vậy vì không biết nguyên nhân hay nguồn gốc tạo nên cái Khổ, nên mọi triết thuyết đều mang tính cách tiêu cực mù mờ. Chỉ riêng về Hindu Ấn giáo hầu hết cho rằng Khổ là do làm nhiều điều không tốt ở kiếp trước, là do Đại ngã làm ra, là vi trầnPhạm thiêntự nhiên..v.v… mà tất cả đều gán cho ngoại giới mà Ta là nhân tố chính thì lại không có chút phần nào trong đó hết.

Không như những đạo sư Vệ đà, khi có người hỏi Thế Tôn là gì? Là Thượng Đế, là Thần Linh, là Quỉ..v.v… theo niềm tin của Ấn giáo, thì Ngài trả lời dứt khoát rằng: “Tất cả đều không phải, mà Ta là người Giác Ngộ”; vì Giác Ngộ nên Thế Tôn thấy nguồn gốc và nguyên nhân phát sinh cái Khổ, không phải như kinh sách hay niềm tin của nhiều trường phái hướng ngoại diễn tả; mà nguyên nhân nguồn gốc của cái Khổ là do “Tập” và muốn chấm dứt cái Khổ là phải “Diệt” cái Tập.

Chuyển Pháp Luân trong Tứ Thánh Đế là Tập-Diệt; hai từ Tập-Diệt đánh bại và vô hiệu hóa tất cả triết thuyết lấy ngoại giới làm cứu cánh của đạo Hindu. Tập-Diệt là dũng mãnh quay về tự thân, dũng mãnh nhận lấy những gì mình tạo ra thì chính mình giải quyết lấy; không mơ màng, không cầu xin, không van lạy.v.v… Vì có bao giờ người khác ăn mà ta no, người khác uống mà ta hết khát. Tập-Diệt là một tiếng sấm đánh động phá vỡ tất cả những tế bào từ lâu bị tiêm nhiễm bởi giáo điều thần quyền hướng ngoại thần phục dâng hiến. Tập-Diệt là Giải Thoát vì mở ra Chánh Kiến mà từ lâu nó bị che bởi giáo điều trói buộc. Tập-Diệt là dựng lại một con người chân chính đúng nghĩa mà từ lâu bị đánh mất bởi ươn hèn vị kỷ bởi vô minh tham ái.

Nơi vườn Lộc Uyển, Đức Thế Tôn Chuyển Pháp Luân lần đầu về Tứ Thánh Đế thì bốn anh em tu sĩ Kiều Trần Như được Giải Thoát cũng nhờ hai chữ Tập-Diệt; làm sao biết như vậy? Chính là bài kệ bốn câu, một trong bốn anh em Ngài Kiều Trần Như đáp lại câu hỏi của Ngài Xá Lợi Phất và giúp Ngài Mục Kiền Liên cũng được Giải Thoát nên sau này vị tu sĩ nào cũng thuộc nằm lòng đó là “Vạn Pháp nhân duyên sinh, cũng theo nhân duyên diệt”.

Trước thời Thế Tôn xuất hiện thì các vị ĐạoVệ đà bằng thiền định sâu xa quyết tâm suy tìm các nguyên nhân đầu tiên phát sinh ra vũ trụ này, vô minh từ đâu mà có, sự đau khổ trên thế gian này ai làm ra, con người sau khi chết là còn hay không còn, vũ trụ này là hữu biên hay vô biên, có thế giới khác hay không có thế giới khác..v.v… Cuối cùng là cho ra một mớ triết thuyết hỗn độn rối mù. Cũng như khoa học ngày nay cũng phát minh ra cổ máy để mong tìm ra hạt nguyên thủy hay hạt của Chúa mà họ nghĩ tưởngnguyên nhân hình thành vũ trụ sau một vụ nổ lớn.

Trong kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Thế Tôn Như Lai chỉ ra rằng “Khi còn sinh tử mà nói về Niết Bàn thì Niết Bàn cũng là sinh tử”. Các Đạo sư Vệ đà thời xa xưa cũng như các nhà khoa học ngày nay đều cùng chung ý tưởngtìm ra nguyên nhân đầu tiên. Tuy nhiên dù có tìm ra nguyên nhân đầu tiên theo các vị đó nghĩ thì cũng chỉ là “Lấy nó nhận nó” mà thôi; vì không rời cái Thức mà Thức là cái biết phồn tạp ôm đồm tổng hợp không có gốc gác.

Trong kinh Giải Thâm Mật, Bồ Tát Di Lặc hỏi Thế Tôn rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, Ấn tượng chánh định của Quán cùng với tâm thức chánh định nên nói là khác hay không khác”. Thế Tôn dạy rằng: “Nên nói không khác”. Thưa Thế Tôn vì sao không khác? Thiện nam tử, Như Lai nói cái gì thức biết thì cái ấy chỉ do thức hiện. Bạch Thế Tôn nếu ấn tượng tâm thức không khác tâm thức thì làm thế nào tâm thức trở lại nhận lấy tâm thức. Thiện nam tử! ở đây không có chút Pháp nào nhận lấy chút Pháp nào mà chính tâm thức khi sinh ra như thế nào thì hình thành ấn tượng như thế đó.

Một đoạn Kinh trên cho thấy rằng, dù là hành giả ở trong chánh định xâu xa vẫn bị lầm lẫn mơ hồ không nhận ra cái thức vi tế, huống hồ những học giả tri thức không có chánh định sống trong cái thức thô phù mà nói cái nằm sau tâm thức thì đúng là bất khả vô phương.

Khi còn sống trong tâm thức thì chỉ là lấy cái biết mà nhận lấy cái bị biết, rồi nghĩ tưởng rằng ta biết cái này cái kia. Với “Nguyên nhân” đầu tiên thì dù là Thiền định hay khoa học hiện đại cho đến vị lai thì cũng không thể nào tìm ra. Vì thật ra không có cái đầu tiên, không khoảng giữa cũng không có chấm hết. Tuy nhiên, khi Giác Ngộ thì thấy ra Pháp Giới Tánh bất cứ ở đâu cũng là đầu tiên cũng là chấm dứt. Hai từ Tập-Diệt trong Tứ Thánh Đếmở trói cho các vị tu sĩ trình độ nhị thừa được giải thoát, còn Tập-Diệt trong Tứ Diệu ĐếGiác Ngộ Pháp Giới Tánh của Bồ Tát. Trong Kinh dù Nguyên Thủy hay Đại Thừa, Đức Thế Tôn Như Lai chỉ cho chúng ta cái Nguyên nhân và chấm hết đó là Tập-Diệt.

Vô Thượng Giác nên Tâm Như Lai vô cùng bình đẳng với tất cả mười hai loài chúng sinh không phân biệt. Tuy nhiên, vì chúng sinhtâm thức nên mới có nhiều tầng lớp khác nhau, nhận thức khác nhau nên Kinh điển mới phân ra Nguyên Thủy- Đại Thừa. Nếu đứng trên Thế tục đế thì rõ ràng có hai, còn đứng trên Đệ nhất nghĩa đế thì không hai không sai biệt.

Câu chuyện trong Kinh sau đây nói lên sai biệt và không sai biệt- tuyệt nhiên không Đại Thừa- Tiểu Thừa gì hết mà chỉ là trình độ căn cơ. Câu chuyện như thế này! Có vị Trường Trảo Phạm Chí muốn tranh luận Pháp với Thế Tôn mà giá cho cuộc tranh luận hơn thua là thủ cấp của vị Phạm Chí nếu như bị thua. Còn Thế Tôn thì không được xưng là Nhất Thiết Trí nữa nếu bị thua.

Câu vị Phạm Chí đưa ra là: “Tất cả các Pháp Tôi đều không thọ”. Câu hỏi lại của Thế Tôn là: “Cái không thọ đó Ông có thọ không?”. Theo trong Kinh khi Thế Tôn hỏi lại thì vị Phạm Chí phất tay áo bỏ đi một thời gian ngắn Ông cảm nhận mình thua nên quay lại dâng đầu… và không lâu sau Ông đắc Quả A-La-Hán.

Câu “Cái không thọ đó Ông có thọ không?” nói lên hai cấp độ tùy theo căn cơ để nhận lãnh, như vị Phạm Chí nhờ câu hỏi đó mà được “Giải Thoát” khỏi tâm chấp thủ “không thọ” đó là cấp độ thứ nhất.

Còn cấp độ thứ hai là cũng câu hỏi “Cái không thọ đó Ông có thọ không?”; nếu có vị nào đọc lên câu đó mà có đáp án tức thì không qua suy nghĩ thì đó gọi là Vị “Giác Ngộ”… Giác Ngộ- Giải Thoát là như vậy!!!

 

MÃN TỰ

 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8525)
Trong một quyển sách nhỏ «Phật Giáo Nhập Môn» tác giả Fabrice Midal đã dành riêng một chương để tóm lược thật ngắn gọn một số các khái niệm căn bản...
(Xem: 10114)
Phật giáo vào Anh quốc bắt đầu từ thế kỷ thứ 19, qua các công trình dịch thuật kinh điển ở các nước Phật giáo Đông phương.
(Xem: 18518)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 14514)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 8823)
Nói đến “Tính Không” trong Đạo Phật là nói đến một vấn đề mà nhiều người còn thắc mắc, nhất là những người ngoại đạo...
(Xem: 8912)
Phẩm Quán Tứ đế của Trung luận, từ chỗ duyên khởi tức là không, cũng là giả danh về sau, tiếp theo nói: cũng là trung đạo.
(Xem: 8199)
Triết học Phật giáo Đại thừa có hai phương diện, đó là Triết học Phật giáo Đại thừa hay Tánh không luận và Du-già hành tông hay trường phái Duy thức...
(Xem: 8998)
Không là pháp quán chung của Phật giáo, nhưng pháp quán của các nhà Trung Quán không giống với pháp quán của các tông phái khác.
(Xem: 14162)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 8441)
Niệm tức là nghĩ nhớ, ức niệm, suy tưởng, chú tâm quan sát hay hướng tâm đến một đối tượng nào đó thuộc tâm thức và giữ cho đối tượng đó luôn luôn sinh động ở trong tâm...
(Xem: 15275)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13142)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 7807)
"Các thầy Tỷ kheo sau khi ta diệt độ, các thầy phải trân trọng, tôn kính tịnh giới, như người mù tối mà được mắt sáng, nghèo nàn mà được vàng ngọc..."
(Xem: 16648)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15503)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 8983)
Chấp nhận một hình thức Phật giáo rồi dấn thân bằng thực nghiệm, hành giả không cần phải dành quá nhiều công sức cho những vấn đề lý thuyết và những mục tiêu lý tưởng của các truyền thống khác nhau.
(Xem: 7926)
Pháp môn Tịnh độ được sáng lậptu hành dựa trên tư tưởng “Yếm ly Ta bà, hân cầu Cực Lạc”. Song vì sao phải yếm ly Ta bà và lại hân cầu Cực Lạc?
(Xem: 7092)
Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận giải Nobel Hòa Bình 21 năm trước, ngài nói, "Tôi chỉ là một thầy tu giản dị".
(Xem: 11255)
Đạo Phậtđạo nhân quả (nhân nào quả nấy) trên cơ sở lấy “Tâm” làm gốc và được ứng dụng vào trong cuộc sống.
(Xem: 14264)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ (trung Nam Ấn Độ), khi đó Vua Tần Bà Sa La nước Ma Kiệt (trung Bắc Ấn Độ)
(Xem: 10466)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20448)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 8781)
"Các người phải siêng năng tu tập các điều thiện, nhờ tu tập điều thiện mà được mạng sống lâu dài, nhan sắc thắm tươi, sống yên ổn, vui vẻ, của cải dồi dào, uy tín đầy đủ"
(Xem: 9281)
Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay Như Lai sẽ diệt độ. Này Ananda, hôm nay tại điện thờ Càpàla, Như Lai chánh niệm, tỉnh giác, từ bỏ thọ, hành...
(Xem: 24104)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12635)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 7802)
Giải quyết vấn đề thoát khổ, Đạo Phật lấy tâm thức của con người làm trọng tâm, bất cứ hệ tư tưởng Phật giáo nào nếu tách rời tâm thức của con người thì Phật giáo không còn đất đứng.
(Xem: 16243)
Mùa Thu năm 334 trước Tây Lịch (TTL), vua A-Lịch-Sơn Đại-Đế (Alexander the Great) của nước Hy-Lạp bắt đầu cuộc chinh phạt Đông tiến. Nhà vua thấy nhà hiền triết Aristotle...
(Xem: 15585)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 8731)
Indriya có nghĩa là căn, gốc, khả năng, làm chủ, cốt yếu... Bala là lực, là sức mạnh. Vậy ngũ căn là 5 trạng thái tâm căn bản, 5 yếu tố tâm lý căn bản có khả năng kiểm soát tâm, làm chủ tâm.
(Xem: 7642)
Nghiệp là một luật rất công bằng cho tất cả mọi loài, mình tạo thì mình hưởng. Làm phước được phước, làm tội chịu tội.
(Xem: 14601)
Không có người bạn nào tốt hơn cho tương lai hơn là bố thí - ban cho tặng phẩm thích đáng. Đối với tu sĩ, giáo sĩ, người nghèo, và bạn hữu - Biết những tài sản là chóng tàn phai và vô lực.
(Xem: 9302)
"Vô Ngã" là vấn đề tương đối hơi khó và khiến cho nhiều người nghiên cứu về Đạo Phật phải tốn nhiều công sức để truy cứu, tìm hiểu.
(Xem: 15491)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 15137)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16610)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 13466)
Khoa học hiện đại đã tiến đến một biên giới, nơi đó sự gặp gỡ của khoa học Tây phương với minh triết truyền thống tâm linh Đông phương là điều tất yếu.
(Xem: 15316)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 7827)
Tất cả đều được tiếp nối dưới một hình thức này hay một hình thức khác. Đám mây luân hồi ra thành cơn mưa và cơn mưa luân hồi ra thành ra nước trà.
(Xem: 7491)
Đức Phật trong thực tế đã không đưa ra các nghi thức và các nghi lễchúng ta đang thực hiện ngày hôm nay, Ngài cũng không vì vấn đề nghi thứcnghi lễ mà khuyến khích dân chúng...
(Xem: 7340)
Khi thực tập thiền Lạy, ta nhìn sâu vào thân ta để thấy rằng thân này không đích thực là ta, không phải là vật sở hữu của ta. Trong thân này không có cái gì gọi là cái ta riêng biệt để bám víu.
(Xem: 9007)
"Tôi nhất định phục hưng Chánh Pháp. Tôi chỉ cho phép Phật GiáoChánh Pháp chứ không có Mạt Pháp! Bất cứ nơi nào tôi đến, nơi đó sẽ có phước đức, trí huệ và được giảm bớt tai ương."
(Xem: 14012)
Tất cả chúng ta vì bị vô minh che lấp nên khi có mặt trên thế gian đều không có nhận thức sáng suốt, do đó ta chỉ lo thụ hưởng sự ăn uốngnhẫn tâm giết hại các loài vật.
(Xem: 8014)
Mục đích của bài viết này là để hổ trợ trong việc gia tăng sự hiểu biết tốt hơn về tôn giáo, sự khoan dungý nghĩa sâu sắc của các tôn giáo khác từ quan điểm của Phật giáo...
(Xem: 7843)
Dường như trong Kinh Tạng ít nhất có hai lần nhắc đến trường hợp Đức Phật từng cảm nhận các giác cảm đau đớn...
(Xem: 15793)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 10257)
Chúng ta luôn bị bất an, lòng lúc nào cũng nơm nớp lo sợ sinh mạng, quyền lợi, địa vị, vợ con, tiếng tăm, của cải… của mình bị thương tổn hay bị đe dọa.
(Xem: 7683)
Đạo Phật chủ trương trong hiện tại phải sống giải thoát cho chính mình và giúp đỡ mọi người vượt qua nỗi khổ niềm đau để đạt được an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
(Xem: 7508)
Trung-quán-luận hay Trung-quán Ngâm khúc (Madhyamaka-káriká) là một tập thơ của Nàgàrjuna để giảng Giáo lý của đức Phật.
(Xem: 12772)
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
(Xem: 7848)
Các thí dụ trình bày trong bản kinh này đều gần gũi với sự vật, hiện tượng xảy ra, liên hệ trực tiếp đến đời sống con nguời.
(Xem: 8091)
Bài chuyển ngữ dưới đây sẽ tiếp tục đưa chúng ta bước vào một thế giới khác của vấn đề này liên quan đến các hiểu biết khoa học tân tiến ngày nay.
(Xem: 14041)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên đã là cuốn sách làm say mê độc giả một thời, ấy là vì nó là lời tự bạch của một thế hệ...
(Xem: 7277)
Tổ Chức Y Tế Thế Giới (OMS / WHO) định nghĩa sức khoẻ là một "thể dạng an vui toàn diện, từ thể xác đến tâm thần và cả cuộc sống trong xã hội
(Xem: 9178)
Trong Thiện kiến tì-bà-sa cũng có thuyết này, nhưng vì độ người nữ xuất gia nên tổn chính pháp năm trăm năm.
(Xem: 9645)
“Sắc tức là không, không tức là sắc” được trích ra từ kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đã được tinh giản, công thức hóa và xem như một thành ngữ.
(Xem: 13098)
Hiện nay Phật giáo có tiếng nói vô cùng quan trọng đối với Liên hiệp quốc, vì đã đánh thức được lương tri, lương tâm con người.
(Xem: 7579)
Nếu không có ngã, sự liên quan giữa một hành nghiệp và kết quả của nó là điều không thể có, vì nếu tác giả của một hành nghiệp chết, ai sẽ có kết quả?
(Xem: 10123)
Chúng ta lễ lạy để tịnh hóa mọi tình huống trong quá khứ khi ta không kính trọng người khác... Nguyên tác: Lạt Ma Gendyn Rinpoche; Liên Hoa dịch Việt
(Xem: 7189)
Sau khi Đức Phật diệt độ, Tôn giả Maha Kassapa đã triệu tập 500 vị A-la-hán vân tập tại thành Rājagaha để kiết tập kinh điển... Chúc Phú
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant