Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giác NgộGiải Thoát

22 Tháng Năm 201611:11(Xem: 11353)
Giác Ngộ Và Giải Thoát

GIÁC NGỘGIẢI THOÁT

Mãn Tự

Giác Ngộ Và Giải Thoát

       

Trong những bộ Kinh chúng ta học thường thấy hai từ Giác NgộGiải Thoát. Tất cả người tu học đều lấy hai từ đó làm cứu cánh để đi tới. Đạo Giác Ngộ nếu không có hai từ Giác Ngộ- Giải Thoát thì cũng giống như tất cả các Tôn Giáo trên thế gian này đặt hết niềm tin vào Ngoại giới để mong cầu hay thần phục hay được hội nhập vào những gì mà chính những người sáng tạo ra cũng ù ù cạc cạc mông lung mơ hồ, lý luận trường uốn để lung lạc những thành phần hiểu biết nông cạn. Họ đem sách vở lời nói của thời xa xưa để minh chứng rằng đó là sự thật; tuy nhiên nếu hỏi rằng ông đã đến đó chưa- đã gặp Đấng đó chưa thì không một ai trả lời được, vì sao? Vì thật ra những gì họ truyền bá ra chỉ là sản phẩm trong tưởng tượng mà thôi. Một vài dòng ở trên để tóm tắt về sự mong cầu ngoại giới của các vị tu hành mà không tự tin vào chính mình, không đủ ý chí dũng mãnh để thắng được chính mình.

Giác Ngộ hay Giải Thoát là tự thân trãi nghiệm, là thành quả nỗ lực thực hành tu tập, là sự dám đem thân tâm này ra làm thí nghiệm, là sự thấy biết như thật sự vận hành- sự chuyển biến của thân tâm này, từ ô nhiễm đến thanh tịnh, từ trói buộc đến Giải thoát, từ vô minh đến Giác ngộ; không mơ hồ- không hý luận, không trường uốn quanh co. Do tự thân trãi nghiệm nên những gì các Vị Giác Ngộ hay thật Giải Thoát nói ra giống như diễn tả màu sắc trái táo trong lòng bàn tay hay chỉ tay trong bàn tay của Họ vậy.

Vậy Giác NgộGiải Thoát là giống nhau hay khác nhau? Nếu khác nhau thì khác nhau như thế nào; còn nếu giống nhau thì giống nhau điểm nào. Để rõ ràng cấp độ sai biệt của hai từ đó thì không từ nào thích hợp hơn là từ “Vô Minh”. Vô Minh là nói chung cho tất cả chúng sanh trong thế giới Ta Bà này, tuy nhiên thế giới Ta Bàchúng ta đang sống vô cùng đặc thù trong Pháp giới này vì Nó dung nhập nhiều tầng lớp nhiều cấp độ khác nhau; có thể là ô trược có thể là thanh tịnh hay vừa thanh tịnh vừa uế; nó cũng không chống đối; không giống như các Cõi trời hay các Cõi địa ngục; hay có thể lấy nước Mỹ để hình dung, vì nước Mỹ có thể dung chứa tất cả các chủng tộc trên quả địa cầu này.

căn cơ bất đồng như vậy nên Vô Minh cũng có dầy có mỏng. Khi Đức Như Lai xuất hiện ban Pháp thì cũng tùy theo trình độ mà ban Pháp cho kế hợp; Với cấp độ căn cơ Nhị Thừa thì Vô Minh, Thế Tôn ban Pháp Vô Minh diệt là Giải ThoátVô Minh sanh ra cây mười hai nhân duyên nên sinh tử tiếp nối; hay Tứ Thánh Đế -Khổ Tập Diệt Đạo; nhờ Khổ Tập “Diệt” nên thấy được Đạo Bát Chánh; Vì sợ chán cái khổ của thân tâm này nên cầu Niết Bàn, vì Tâm loạn động không yên nên cầu an lạc thanh tịnh, không dám xả Pháp vì sợ tập khí nhiều đời tu tập giáo pháp Bà la môn trở lạ. Vì vậy, nên biết rằng sự tu hành trình độ Nhị Thừa chỉ Diệt cái Ngã mơ hồ cùng Vô Minh không thật; còn Pháp thì giữ lại để đối trị.

Còn những Vị có tâm thương xót chúng sinh bị mê mờ chìm trong sinh tử, tâm từ bi vô lượng nguyện chịu khổ thay cho chúng sinh, nguyện độ tận chúng sinh cho đến lúc không còn một chúng sinh nào để độ. Với các Vị có tâm kiên cường ý chí dũng mãnh, với tâm nguyện mênh mông bao la, không ngại sinh tử chẳng màn Niết Bàn, mà chỉ vì cứu khổĐại Bi Tâmdũng mãnh đi tới. Với các Vị đó, Đức Như Lai ban Pháp Bồ Tát Đạo Bát Nhã Tánh Không, nhờ tu học Bát Nhã Tánh Không các Vị Bồ Tát Giác Ngộ thấy ra thật tướng các Pháp nên Tâm các Ngài không lay động, dũng mãnh tinh tấn bước đi, quyết chí hoàn thành tâm nguyện Vô Thượng Bồ Đề dù có trãi qua bất khả tư nghị vô lượng thời gian.

Giác Ngộ Tánh Không nên các Ngài thấy thật tướng thế gian không có gì là thật; Nó giống như mộng ảo như chiêm bao, như hoa đốm trong không gian khi dụi mắt; Sắc thân tuy có nhưng tuyệt nhiên không có người làm chủ vì Tánh tứ đại không dừng trụ. Có cái khổ nhưng không người chịu khổ vì tâm ba thời luôn luôn chuyển động, có nghiệp báo nhưng không người thọ lãnhnghiệp báo không tự tánh do chấp thủ mà ra; có sự trói buộc nhưng không người bị trói, vì trói buộc do lãnh nạp mà có.

Các Vị Bồ Tát từ Sơ hoan hỷ địa đến đệ thất Viễn hành địa thì việc làm của các Ngài là từ cái nhân, nghĩa là đã thấy được tâm niệm vận hành luân chuyển bên trong hay Tâm hiện lượng theo Lăng Già. Tuy là như vậy nhưng đó vẫn là Hữu công dụng hạnh vì còn gia công đối trị, cho đến khi bước lên đệ bát Bất Động địa thì mới hoàn toàn tự tại việc làm của các Ngài là Vô công dụng hạnh vì đó là nhân trong nhân.

Còn Giải Thoát là các Vị tu hành thấy “Thật có” thân-tâm-pháp, thế giới- các cõi- ta người..v.v… Vì thấy thật có như vậy nên bị thật có trói buộc, vì bị trói buộc nên mới cầu giải thoát đến Niết Bàn. Dù rằng có Giải Thoát Niết Bàn nhưng không thật vì giống như sóng và nước. Thật ra từ lâu xa các vị đó chỉ thấy sóng mà không nhận ra nước, nếu nhận ra rằng sóng không từ đâu mà có nếu không có nước, thì cũng chẳng cầu Giải Thoát Niết Bàn.

Đó là sự khác nhau giữa Giác NgộGiải Thoát. Giác Ngộ là từ Căn Bản Trí thấy được thật tánh của Chơn Thức. Thật tánh của Chơn Thức (hay thật tánh các Pháp) là không đến không đi, không sinh không diệt, không một không hai, không có không không, không tịnh không uế, không còn không mất..v.v… ba thời bình đẳng tất cả chúng sinh đều đầy đủ, cho đến các bậc Thánh, Đại Bồ Tát, Chư Như Lai cũng không hai không khác. Nó ung dung tự tại vận hành không một ai có thể nắm bắt trì kéo lại được cũng như mặt trời du hành từ đông sang tây vậy. Vì thật tánh các Pháp như vậy nên Đức Thế Tôn nói rằng: “Có chư Như Lai xuất hiện hay không xuất hiện thì Pháp Tánh vẫn là Như”.

Còn Giải Thoátcảm giác mình bị trói buộc, tuy nhiên để tìm ra nguyên nhân đầu mối xiềng xích trói buộc thì mịt mờ không thể biết nó từ đâu đến, là quá khứhiện tại, là hữu hình là vô hình, là thân là tâm là pháp, là thế giới là ngã là Thần linh, là có là không..v.v…

Trong thời Thế Tôn có 96 Triết thuyết của 96 Triết gia đạo sư Ấn giáo. Tuy nhiên để giải đáp nguyên nhân của sự trói buộc và sự chấm dứt trói buộc thì không một vị nào biết được. Vì bị trói buộc luẩn quẩn trong cái thức luận lý nên mỗi vị đưa ra Triết thuyết khác nhau. Có vị cho rằng là Phạm Thiên làm ra, có vị lại quả quyết rằng không phải Phạm ThiênTự Tại Thiên, có vị lại cho là Đại Ngã, có vị lại phủ định tất cả mà cho rằng tự nhiên như vậy..v.v… Còn Lão Tử Trung Hoa thì nói rằng là Đạo làm ra, còn Thiên Chúa Giáo thì tin rằng đó là sự tình cờ của Thượng Đế.

Trong Giáo Pháp điều phục chúng sinh của Thế Tôn gồm có ba loại: Một nói về Nhân, hai nói về Quả, ba nói về Nhân Quả. Các Vị tu sĩ vào thời Thế Tôn xuất hiện hầu hết đều từ đạo Hindu Ấn giáo mà trình độ thì ở trong đám mây huyền bí thần quyền. Với trình độ căn bản như vậy thì không thể nào nhận được Giáo Pháp thâm sâu huyền diệu nên Thế Tôn tùy thuận giảng giải về Quả trong Quả là Khổ- khổ khổ- hành khổ- hoại khổ. Tuy nhiên vì sự mong cầu khác nhau nên các tu sĩ đó thực hành nhiều hạnh khác nhau theo niềm tin của đạo Hindu. Thí dụ như để được kiếp sau sinh vào gia đình giàu sang, quyền lực quý phái trong nhân gian, hay được sinh lên các cỏi Trời để thọ hưởng ngũ dục thượng diệu thì phải thực hành khổ hạnh như hạnh con chó, con bò, con công, con trĩ..v.v… Còn như muốn được sinh lên các cỏi Trời cao hơn, thượng diệu thù thắng hơn như Phạm Thiên, Tự Tại Thiên thì phải biết thiền định và giết dê trừu tế lễ cầu xin. Còn có một số vị thật tâm tu hành mong cầu Giải Thoát, họ lìa bỏ thế gian tìm nơi thanh vắng núi sâu rừng rậm để thiền định quyết tâm đạt được quả vị A-la-hán. Dù rằng trong giáo lý Hindu có danh từ Quả vị A-la-hán mà Pháp tu hành đến Quả vị A-la-hán thì không, nên mỗi vị tu sĩ phải tự mình mò mẫm mà đi. Vì vậy từ lâu xa, không có vị nào thật sự chứng Quả A-la-hán đúng nghĩa của nó trong đạo Hindu; mà chỉ thành Tiên thiên ngoại đạo như A-tư-đà hay Uất-đầu-lam-phất chứng Phi tưởng phi phi tưởng xứ; hay cũng có những vị chứng được Quả vị thứ ba là A-NA-HÀM. Tuy nhiên, cũng chỉ ngơ ngơ ngẩn ngẩn ở cỏi Trời Bất Hoàn với tâm thức tam thiền mà thôi.

Ban đầu, Đức Thế Tôn chuyển Pháp Luân tại vườn Lộc Uyển độ bốn anh em tu sĩ Kiều Trần Như với bài Pháp Khổ-Tập-Diệt-Đạo mà sau này là Tứ Thánh Đế. Khi nghe xong thời Pháp thì bốn anh em tu sĩ Kiều Trần Như  đều được Giải Thoát. Vậy trong bài Pháp Khổ-Tập-Diệt-Đạo sao gọi là Chuyển Pháp LuânGiải Thoát chỗ nào?

Giải Thoát có nghĩa là từ lâu bị trói buộc, bây giờ được mở ra; hay bị kẻ thù bắt giam nhốt tù đày, bây giờ được cứu thoát; hay như con chim bị nhốt trong lồng, bây giờ phá được lồng bay ra được tự do tự tại; hay trong tâm tư bị trói buộc trong định kiến chấp thủ, bây giờ được thiện tri thứctrí tuệ khai mở nên gút mắt được tiêu tan..v.v… Còn Chuyển Pháp Luân có nghĩa là bài Pháp chuyển đổi được ý nghĩ, chuyển đổi được tư duy, chuyển đổi được tâm thứcchuyển đổi được tư tưởng..v.v… Nên nhớ phá bỏ và chuyển đổi là hai sự việc khác nhau; vậy Khổ-Tập-Diệt-Đạo ở đâu là Chuyển Pháp Luân.

Khi mang lấy sắc thân vật lý này không một ai trốn tránh được cái Khổ; tuy nhiên để giải thoát cái khổ thì có thiên hình vạn trạn muôn màu muôn vẽ; dù vậy vì không biết nguyên nhân hay nguồn gốc tạo nên cái Khổ, nên mọi triết thuyết đều mang tính cách tiêu cực mù mờ. Chỉ riêng về Hindu Ấn giáo hầu hết cho rằng Khổ là do làm nhiều điều không tốt ở kiếp trước, là do Đại ngã làm ra, là vi trầnPhạm thiêntự nhiên..v.v… mà tất cả đều gán cho ngoại giới mà Ta là nhân tố chính thì lại không có chút phần nào trong đó hết.

Không như những đạo sư Vệ đà, khi có người hỏi Thế Tôn là gì? Là Thượng Đế, là Thần Linh, là Quỉ..v.v… theo niềm tin của Ấn giáo, thì Ngài trả lời dứt khoát rằng: “Tất cả đều không phải, mà Ta là người Giác Ngộ”; vì Giác Ngộ nên Thế Tôn thấy nguồn gốc và nguyên nhân phát sinh cái Khổ, không phải như kinh sách hay niềm tin của nhiều trường phái hướng ngoại diễn tả; mà nguyên nhân nguồn gốc của cái Khổ là do “Tập” và muốn chấm dứt cái Khổ là phải “Diệt” cái Tập.

Chuyển Pháp Luân trong Tứ Thánh Đế là Tập-Diệt; hai từ Tập-Diệt đánh bại và vô hiệu hóa tất cả triết thuyết lấy ngoại giới làm cứu cánh của đạo Hindu. Tập-Diệt là dũng mãnh quay về tự thân, dũng mãnh nhận lấy những gì mình tạo ra thì chính mình giải quyết lấy; không mơ màng, không cầu xin, không van lạy.v.v… Vì có bao giờ người khác ăn mà ta no, người khác uống mà ta hết khát. Tập-Diệt là một tiếng sấm đánh động phá vỡ tất cả những tế bào từ lâu bị tiêm nhiễm bởi giáo điều thần quyền hướng ngoại thần phục dâng hiến. Tập-Diệt là Giải Thoát vì mở ra Chánh Kiến mà từ lâu nó bị che bởi giáo điều trói buộc. Tập-Diệt là dựng lại một con người chân chính đúng nghĩa mà từ lâu bị đánh mất bởi ươn hèn vị kỷ bởi vô minh tham ái.

Nơi vườn Lộc Uyển, Đức Thế Tôn Chuyển Pháp Luân lần đầu về Tứ Thánh Đế thì bốn anh em tu sĩ Kiều Trần Như được Giải Thoát cũng nhờ hai chữ Tập-Diệt; làm sao biết như vậy? Chính là bài kệ bốn câu, một trong bốn anh em Ngài Kiều Trần Như đáp lại câu hỏi của Ngài Xá Lợi Phất và giúp Ngài Mục Kiền Liên cũng được Giải Thoát nên sau này vị tu sĩ nào cũng thuộc nằm lòng đó là “Vạn Pháp nhân duyên sinh, cũng theo nhân duyên diệt”.

Trước thời Thế Tôn xuất hiện thì các vị ĐạoVệ đà bằng thiền định sâu xa quyết tâm suy tìm các nguyên nhân đầu tiên phát sinh ra vũ trụ này, vô minh từ đâu mà có, sự đau khổ trên thế gian này ai làm ra, con người sau khi chết là còn hay không còn, vũ trụ này là hữu biên hay vô biên, có thế giới khác hay không có thế giới khác..v.v… Cuối cùng là cho ra một mớ triết thuyết hỗn độn rối mù. Cũng như khoa học ngày nay cũng phát minh ra cổ máy để mong tìm ra hạt nguyên thủy hay hạt của Chúa mà họ nghĩ tưởngnguyên nhân hình thành vũ trụ sau một vụ nổ lớn.

Trong kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Thế Tôn Như Lai chỉ ra rằng “Khi còn sinh tử mà nói về Niết Bàn thì Niết Bàn cũng là sinh tử”. Các Đạo sư Vệ đà thời xa xưa cũng như các nhà khoa học ngày nay đều cùng chung ý tưởngtìm ra nguyên nhân đầu tiên. Tuy nhiên dù có tìm ra nguyên nhân đầu tiên theo các vị đó nghĩ thì cũng chỉ là “Lấy nó nhận nó” mà thôi; vì không rời cái Thức mà Thức là cái biết phồn tạp ôm đồm tổng hợp không có gốc gác.

Trong kinh Giải Thâm Mật, Bồ Tát Di Lặc hỏi Thế Tôn rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, Ấn tượng chánh định của Quán cùng với tâm thức chánh định nên nói là khác hay không khác”. Thế Tôn dạy rằng: “Nên nói không khác”. Thưa Thế Tôn vì sao không khác? Thiện nam tử, Như Lai nói cái gì thức biết thì cái ấy chỉ do thức hiện. Bạch Thế Tôn nếu ấn tượng tâm thức không khác tâm thức thì làm thế nào tâm thức trở lại nhận lấy tâm thức. Thiện nam tử! ở đây không có chút Pháp nào nhận lấy chút Pháp nào mà chính tâm thức khi sinh ra như thế nào thì hình thành ấn tượng như thế đó.

Một đoạn Kinh trên cho thấy rằng, dù là hành giả ở trong chánh định xâu xa vẫn bị lầm lẫn mơ hồ không nhận ra cái thức vi tế, huống hồ những học giả tri thức không có chánh định sống trong cái thức thô phù mà nói cái nằm sau tâm thức thì đúng là bất khả vô phương.

Khi còn sống trong tâm thức thì chỉ là lấy cái biết mà nhận lấy cái bị biết, rồi nghĩ tưởng rằng ta biết cái này cái kia. Với “Nguyên nhân” đầu tiên thì dù là Thiền định hay khoa học hiện đại cho đến vị lai thì cũng không thể nào tìm ra. Vì thật ra không có cái đầu tiên, không khoảng giữa cũng không có chấm hết. Tuy nhiên, khi Giác Ngộ thì thấy ra Pháp Giới Tánh bất cứ ở đâu cũng là đầu tiên cũng là chấm dứt. Hai từ Tập-Diệt trong Tứ Thánh Đếmở trói cho các vị tu sĩ trình độ nhị thừa được giải thoát, còn Tập-Diệt trong Tứ Diệu ĐếGiác Ngộ Pháp Giới Tánh của Bồ Tát. Trong Kinh dù Nguyên Thủy hay Đại Thừa, Đức Thế Tôn Như Lai chỉ cho chúng ta cái Nguyên nhân và chấm hết đó là Tập-Diệt.

Vô Thượng Giác nên Tâm Như Lai vô cùng bình đẳng với tất cả mười hai loài chúng sinh không phân biệt. Tuy nhiên, vì chúng sinhtâm thức nên mới có nhiều tầng lớp khác nhau, nhận thức khác nhau nên Kinh điển mới phân ra Nguyên Thủy- Đại Thừa. Nếu đứng trên Thế tục đế thì rõ ràng có hai, còn đứng trên Đệ nhất nghĩa đế thì không hai không sai biệt.

Câu chuyện trong Kinh sau đây nói lên sai biệt và không sai biệt- tuyệt nhiên không Đại Thừa- Tiểu Thừa gì hết mà chỉ là trình độ căn cơ. Câu chuyện như thế này! Có vị Trường Trảo Phạm Chí muốn tranh luận Pháp với Thế Tôn mà giá cho cuộc tranh luận hơn thua là thủ cấp của vị Phạm Chí nếu như bị thua. Còn Thế Tôn thì không được xưng là Nhất Thiết Trí nữa nếu bị thua.

Câu vị Phạm Chí đưa ra là: “Tất cả các Pháp Tôi đều không thọ”. Câu hỏi lại của Thế Tôn là: “Cái không thọ đó Ông có thọ không?”. Theo trong Kinh khi Thế Tôn hỏi lại thì vị Phạm Chí phất tay áo bỏ đi một thời gian ngắn Ông cảm nhận mình thua nên quay lại dâng đầu… và không lâu sau Ông đắc Quả A-La-Hán.

Câu “Cái không thọ đó Ông có thọ không?” nói lên hai cấp độ tùy theo căn cơ để nhận lãnh, như vị Phạm Chí nhờ câu hỏi đó mà được “Giải Thoát” khỏi tâm chấp thủ “không thọ” đó là cấp độ thứ nhất.

Còn cấp độ thứ hai là cũng câu hỏi “Cái không thọ đó Ông có thọ không?”; nếu có vị nào đọc lên câu đó mà có đáp án tức thì không qua suy nghĩ thì đó gọi là Vị “Giác Ngộ”… Giác Ngộ- Giải Thoát là như vậy!!!

 

MÃN TỰ

 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8269)
Giới Thiệu Tóm Tắt Về Bộ Trung Quán Trong Tạng Luận Theo Đại Tạng Kinh Đại Chánh Tân Tu ... Đào Nguyên
(Xem: 7855)
Thưa Đại Vương, những người, có được tài sản lớn, mà không bị chúng làm say đắm... rất hiếm hoi trên đời này... Diệu Liên Lý Thu Linh
(Xem: 7913)
Bạo lực, khủng bố đã xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau trong những trường hợp khác nhau có liên quan đến cuộc đời của đức Phật... Thích Huệ Pháp dịch
(Xem: 9044)
Chánh Ngoa Tập (Uốn nắn những điều sai ngoa) trích từ bộ Vân Thê Pháp Vựng, Đời Minh, chùa Vân Thê ở Cổ Hàng, Sa-môn Châu Hoằng soạn, Như Hòa dịch.
(Xem: 26213)
Từ điển bách khoa Phật giáo Việt Nam, Tập 1 và 2; HT Thích Trí Thủ chủ trương, Lê Mạnh Thát chủ biên
(Xem: 13896)
Các tác phẩm Phật giáo viết bằng Buddhist Hybrid Sanskrit xuất hiện sau khi Pāṇini đã hoàn thành việc chuẩn hóa tiếng Phạn vào khoảng đầu thế kỷ thứ 4 trước dương lịch.
(Xem: 28051)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 19910)
Tu Tuệ là cách tu tập bằng thiền định phân giải, tức hướng vào mục tiêu phát huy sự hiểu biết, một sự hiểu biết siêu nhiên về bản chất đích thực của mọi vật thể và mọi biến cố...
(Xem: 7816)
Nghiệp không phát động từ bên ngoài mà sinh ra từ bên trong tâm thức của chính mình. Mỗi hành động (karma) đều tạo ra một hậu quả.
(Xem: 7667)
Làm sống lại những tiến bộ của người xưa, mỗi Phật tử sẽ trở thành gạch nối giữa quá khứhiện tại... Đỗ Thuần Khiêm
(Xem: 7528)
Khái quát trên đủ thấy Ðại Tạng kinh Hán văn là một bảo vật vô giá của Phật giáo và chung cho cả nền văn hóa thế giới... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 8078)
Cũng giống như trong Phật giáo, vạn pháp không hiện hữu, chỉ có mối liên hệ của chúng là hiện hữu... Trịnh Xuân Thuận
(Xem: 9807)
Trên thực tế, tất cả giáo huấn của Đức Phật đều nhằm giúp chúng ta vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Phương pháp tiếp cận thật sự rất hợp lýthực tiễn.
(Xem: 22811)
Phật Giáo Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của nó luôn luôn gắn liền với dòng sinh mệnh của dân tộc... Trần Tri Khách
(Xem: 16952)
Khi Đức Phật ra đời, Ngài đã chỉ bày rõ ràng, cặn kẽ cho người xuất gia cũng như người tại gia ở từng địa hạt một của tâm linh... HT Thích Như Điển
(Xem: 8597)
Đức Phật A Di Đà không tự làm cho tội của chúng sanh tự tiêu hủy, mà cảnh giới của Ngài là nơi những chúng sanh ấy có thể nương nào đó để tồn tạitiến tu thêm nữa... HT Thích Như Điển
(Xem: 10430)
Phương pháp chuyển hóa tâm thức của Đạo Phật không chỉ là một vấn đề niềm tin mà cũng là một niềm tin đạt đến được qua thiền phân tích... Đức Đạt Lai Lạt Ma
(Xem: 10615)
Sau khi dạy cho chúng ta hiểu khổ là gì và nguồn gốc của khổ, Đức Phật đã chỉ cho chúng ta con đường diệt khổ, tức là Bát Chánh Đạo...
(Xem: 11322)
Theo truyền thống tín ngưỡng của dân gian, có lẽ hình tượng 2 vị Thần TàiThổ Địa không xa lạ gì với người dân Việt Nam.
(Xem: 9921)
Phật giáo Mỹ sẽ phải phản ánh những nguyên tắc dân chủ, trong cái nghĩa “tự do và công lý cho mọi người”.
(Xem: 10599)
Muốn được giải thoát, trước hết chúng ta phải quan sát sự vật một cách thật cặn kẽ để có thể biết được và hiểu rõ bản chất thật sự của chúng.
(Xem: 12750)
Ý niệm về kinh liễu nghĩa và kinh không liễu nghĩa song hành với ý niệm về hai sự thật: Sự Thật Tương ĐốiSự Thật Tuyệt Đối.
(Xem: 8832)
Bản-thể-của-Phật còn gọi là Như Lai Tạng, Phật Tính, Pháp Giới, Chân Như... (tiếng Phạn là Tathagatagarbha), là một khái niệm quan trọng của Đại Thừa Phật Giáo.
(Xem: 19906)
Khi gọi là điều đạo đức, người ứng dụng hành trì sẽ cảm thấy có nhu cầu hướng tới, bởi điều đạo đức luôn mang đến hạnh phúc an lành cho con người.
(Xem: 20888)
Bát chánh đạocon đường tâm linh có khả năng giúp cho người phàm trở thành bậc Thánh. Trước hết là Chánh kiến, tức tầm nhìn chân chính...
(Xem: 21431)
Đọc Bát Đại Nhân Giác để trải nghiệm các giá trị cao siêu trong từng nếp sống bình dị, theo đó hành giả có thể tự mình mở mắt tuệ giác, trở thành bậc đại nhân...
(Xem: 13488)
Phật pháp ẩn tàng trong tất cả sự sự vật vật, và con đường giác ngộNhư Lai tuyên thuyết vốn dành cho tất cả chúng sinh có duyên được tiếp cận với đạo Phật.
(Xem: 10599)
Biết thân là huyễn mộng còn khó vứt bỏ huống hồ người chẳng giải ngộ. Nương vào lời Phật mà hành, tự ta mới có thể chuyển mệnh...
(Xem: 9563)
Sáu ba-la-mật là Bồ-tát hạnh. Bồ-tát hạnh gồm có hai sự tích tập: tích tập phước đức là làm lợi lạc cho người khác và tích tập trí huệ là xóa tan bóng tối vô minh...
(Xem: 26815)
Theo giáo lý đạo Phật, không ai có thể siêu độ cho ai, không ai có thể giải thoát cho ai, ngoại trừ chính cá nhân người đó.
(Xem: 10773)
Những Tỷ-kheo trong hội chúng bậc Thánh rõ biết “Đây là khổ”. Vì thấy rõ khổ nên nhàm chán, viễn ly, không tham danh vọng...
(Xem: 12164)
Trung quán tông luận phá mọi kiến giải về Thực tướng, không phải để phủ nhận Thực tướng mà để đưa đến Prajña (trí tuệ Bát-nhã)...
(Xem: 30970)
Đây là bộ sách trích lục những từ ngữ trong phần “Chú Thích” và “Phụ Chú” của bộ sách GIÁO KHOA PHẬT HỌC do chúng tôi soạn dịch...
(Xem: 14193)
Người Phật tử, dù là xuất gia hay tại gia đều không thể sống buông thả, phóng dật. Bởi lẽ, chúng ta nhận thức đời người là vốn quý, cuộc sống lại có hạn.
(Xem: 11207)
Môn Nhân minh học Phật giáo dạy chúng ta tư duy đúng đắn để có nhận thức đúng đắn, là chìa khóa của mọi thành công ở đời.
(Xem: 11144)
Ý thức sâu sắc của người Phật tử đối với tầm quan trọng thực tiễn của hiện tại khiến cho họ năng động hơn, tỉnh táo hơn, làm việc hết mình trong hiện tại.
(Xem: 11293)
Đạo Phật nhắc nhủ chúng ta, muốn giác ngộgiải thoát, đi theo con đường Phật chỉ bày thì phải đi, phải tu, chứ không thể nói suông được.
(Xem: 11689)
Tất cả Phật tử chúng ta hãy sống thiện như những cái cây có bộ rễ toàn hút những chất ngọt trong đất. Nhất định đời sống chúng ta sẽ an lạc hạnh phúc.
(Xem: 12793)
Để dạy Vô ngãVô phân biệt trong khi hành động theo cách phân biệt kỳ thị là không phù hợp lời nói với hành động.
(Xem: 24103)
Kiến thức là gì? Nó đã được thu thập hàng nghìn năm qua hằng bao kinh nghiệm, tích trữ trong trí não như kiến thức và ký ức. Và từ ký ức đó, tư tưởng (thought) phát sanh.
(Xem: 14946)
Hiện tại là giờ phút duy nhất mà mình có thể chọc thủng được bức màn thương đau, bức màn vô minh để có thể tiếp xúc được ngay với an lạc, với hạnh phúc, với tuệ giác.
(Xem: 11664)
Góp duyên để người xuất gia hoàn thành sứ mạng thiêng liêng đồng nghĩa với hạnh nguyện hộ pháp.
(Xem: 20294)
Nếu ai bị ái làm khổ thân mà diệt được thì gọi là cứu cánh, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh an ổn, cứu cánh vô dư (Niết-Bàn).
(Xem: 10632)
Trong các thứ hạnh phúc, được thực tập và sống theo lời Phật dạy là an vui, hạnh phúc lớn nhất. Nhờ đó, ta có được bình yên, hạnh phúc thật sự...
(Xem: 10414)
Muốn vô hiệu hóa cơn giận, trước khi nó bộc phát, Phật dạy ta hãy thường xuyên quán chiếu, xem xét sâu vào nội tâm để ta luôn tỉnh giác từng tâm niệm của mình.
(Xem: 12337)
Xin hãy đọc Kinh điển với tâm sáng suốt thanh tịnh, không vội tin chắc vào bất kỳ điều gì, mà phải nỗ lực thông qua sự hành trì thực nghiệm...
(Xem: 11527)
Sự thật về mọi sự là vô thường, khổ, vô tự tánh, vô ngã, giả hợp, như mộng, như huyễn được đạo Phật gọi là chân lý tuyệt đối, tối hậu (chân đế).
(Xem: 14325)
Cùng với chánh niệm thường trực, tàm và quý chính là hai nhân tố vô cùng quan trọng để mỗi người tự răn nhắc mình hướng thượng và thăng hoa.
(Xem: 11984)
Do định sinh trí huệ, dùng trí huệ này quán sát các pháp sẽ thấy biết như thật, quán sát vũ trụ vạn vật đúng như nó là, không sai sót mảy may.
(Xem: 24701)
Những gì Đức Phật dạy chúng ta, bằng hai con đường: tâm linh và khoa học con người sẽ đạt được cứu cánh giải thoát khỏi tất cả mọi ràng buộc...
(Xem: 12379)
Chúng ta phải cố gắng loại trừ tất cả những cảm xúc tiêu cực và phát triển những cảm xúc tích cực - vô hạn lượng - đặc biệt trong sự thực hành Phật Giáo...
(Xem: 22324)
Để thành tựu được lễ dâng y kathina, người thí chủ cần phải có sự hiểu về tấm y gọi là “Y Kathina” và nghi thức làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng.
(Xem: 12585)
Đối với nhà Phật cho là con người ai cũng có Phật tánh, mà có Phật tánh tức là có tánh tốt.
(Xem: 12754)
Có thể nói, sự hiểu biết đúng đắn thuyết nhân quả nghiệp báo của đạo Phật sẽ tạo cho mỗi người một ý thức trách nhiệm rất cao đối với cá nhân mình và xã hội.
(Xem: 12668)
Đã là người đệ tử thì chúng ta phải tin và hành theo lời dạy của Phật, đó mới đúng là người đệ tử chân chánh, biết tôn sư trọng đạo, hiếu nghĩa trọn vẹn.
(Xem: 16850)
Có một thời gian Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên phụ trách trông coi việc dựng thiền-thất tại vườn Lộc-Dã; một hôm trong lúc Tôn-giả đang đi kinh hành trên khoảng đất trống...
(Xem: 13788)
Bất cứ một hiện tượng nào được phát sinh ra cũng đều phải nhờ vào một sự kết hợp của nhiều nguyên nhân và nhiều điều kiện...
(Xem: 13079)
Cách tốt nhất để vượt thắng những điều không may, hay những thứ xui xẻo hãy tự mình làm nên những công đứcthiền quán về tánh không...
(Xem: 13533)
Nghiệp báo của sự tàn phá môi trường được phản ánh trong cuộc thảm sát đẫm máu bạo tàn dòng họ Thích Ca (Sakyā) bởi lòng hiềm thù mê muội của vua Tỳ Lưu Ly...
(Xem: 12636)
Với người xuất gia, phẩm vị được khẳng định ở giới hạnh chứ không phải ở tuổi tác. Có thể đầu xanh tuổi trẻ nhưng vẫn được tôn trọng cung kính...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant