Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nghiên Cứu Về Tiến Trình Ngộ Đạo Của Ngài Huệ Năng

12 Tháng Sáu 201704:55(Xem: 9329)
Nghiên Cứu Về Tiến Trình Ngộ Đạo Của Ngài Huệ Năng

NGHIÊN CỨU VỀ
TIẾN TRÌNH NGỘ ĐẠO CỦA NGÀI HUỆ NĂNG


Chúc Phú

Nghiên Cứu Về Tiến Trình Ngộ Đạo Của Ngài Huệ Năng


Ngài Huệ Năng (638-713) là một bậc cao Tăng của thiền lâm Đông Độ. Cuộc đời cũng như tư tưởng của ngài là nguồn chất liệu và xúc cảm thiêng liêng để hình thành nên những pháp hành tu tập, những tác phẩm đặc thù cũng như khai mở những truyền thống sơn môn đa dạng của Phật giáo Bắc truyền, mà trong số đó đã truyền thừa đến Việt Nam.

Từ những giai thoại cũng như những tư liệu khả tín về cuộc đời của ngài, đã chuyển tải nhiều nội dung tưởng chừng nghịch lý. Ở đây, dựa trên tư liệu kinh điển từ Hán tạng cho đến Nikāya, chúng tôi cố gắng thuyết minh sự hợp lý từ những điều nghịch lý, cũng như chỉ ra tính tất yếu từ cuộc đời của ngài, đó là tiến trình giác ngộ.

Việc lạm bàn năng lực chứng ngộ của một bậc cao Tăng của một kẻ chưa vượt bờ, cũng khiên cưỡng như phương cách cố gắng mô tả mặt trời bằng ánh sáng lúc hừng đông. Do vậy, bằng sự cẩn trọngcân nhắc, chúng tôi sẽ tiếp cận tiến trình ngộ đạo của ngài Huệ Năng xoay quanh ba sự kiện: Giữa phố nghe kinh; Nửa đêm thọ pháp và Những dấu hiệu của bậc Thánh.

1.    Giữa phố nghe kinh.

Theo kinh Pháp Bảo Đàn, khi còn tại gia, ngài Huệ Năng làm nghề đốn củi, kính phụng mẹ già. Lúc bấy giờ, có khách mua củi và yêu cầu gánh đến tận nhà, khách nhận củi trao tiền, Huệ Năng liền rời đi, khi ra khỏi cửa liền thấy một người đang tụng kinh, vừa nghe lời kinh, tâm Huệ Năng liền khai ngộ[1].

Sự kiện vừa nghe một câu kinh liền chợt khai ngộ của ngài Huệ Năng không phải là trường hợp đầu tiên trong lịch sử kinh điển Phật giáo. Theo tác phẩm Cullavagga, khi lần đầu tiên nghe tôn hiệu Đức Phật, trưởng giả Cấp-cô-độc (Anāthapiṇḍika) đã chấn động tâm tư nên đã hỏi lại ba lần, là nhân duyên sơ khởi để trưởng giả quy kính Đức Phậtphát nguyện hộ trì Tam Bảo sau đó[2]. Tương tự, ngài Xá-lợi-phất (Sārīputta) khi vừa hội kiến tỳ-kheo Assaji và được nghe một bài kệ ngắn, đã rúng động tâm can, khai mở pháp nhãn (dhammacakkhuṃ udapādi), nên đã tìm Phật và phát nguyện xuất gia[3].

Tham chiếu kinh điển cho thấy, trường hợp khi vừa nghe kinh, tâm liền khai ngộ của ngài Huệ Năng, là dấu hiệu cho thấy ngài Huệ Năng đã thành tựu phẩm vị Chuyển tánh.

Bậc Chuyển tánh, có khi được dịch là Chuyển tộc, Chuyển biến, cũng có khi được gọi là bậc Chân nhân (Sappurisa). Theo kinh Tăng Chi Bộ[4], bậc Chuyển tánh là một trong chín hạng người (A.iv,373), hoặc mười hạng người (A.v,23)[5] ở đời đáng được cung kính, cúng dườngtôn trọng. Kinh Tăng-nhất-a-hàm Hán tạng cũng mang ý nghĩa tương tự nhưng với tên gọi là Chủng tánh nhân[6]. Nguyên tác ở kinh tạng Pāli ghi là Gotrabhū. Đây là giai vị chuyển từ phàm sang Thánh, chuẩn bị bước vào Thánh đạo, phẩm vị này tuy thấp nhưng sở hữu một trí tuệ thù thắng và có phước quả.

Về năng lực trí tuệ, ở phẩm vị Chuyển tánh có một trí tuệ hơn người. Tác phẩm Phân tích đạo (Paṭisambhidāmagga), đã nêu ra những phẩm tính cụ thể của tuệ chuyển tánh (Gotrabhū-ñāṇa), là tuệ thứ 13 trong 16 loại thiền tuệ minh sát. Tuệ chuyển tánh (Gotrabhū-ñāṇa) có công năng đưa một chúng sanh từ địa vị phàm phu (Putthujjana) sang bậc Thánh cao quí (Ariyāpuggala).

Căn cứ theo kinh Tương Ưng (S.iii,225), Đức Phật dạy rằng: Này các Tỷ-kheo, ai có lòng tin, có tín giải đối với những pháp này; vị ấy được gọi là Tùy tín hành (Dhammānusārī), đã nhập Chánh tánh (Okkanto sammattaniyāmaṃ), đã nhập Chân nhân địa (Sappurisabhūmiṃ okkanto), đã vượt phàm phu địa (Vītivatto puthujjanabhūmiṃ). Vị ấy không có thể làm những hành động gì, do làm hành động ấy phải sanh vào địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ; một vị không có thể mệnh chung mà không chứng quả Dự lưu[7]. Ở đây, quá trình thành tựu Chân nhân địa (Sappurisabhūmiṃ) theo kinh Tương Ưng cũng tương đồng với Chủng tánh địa (種性地) như kinh Tỳ-ni-mẫu ở Hán tạng đã chỉ ra[8].

Với ngài Huệ Năng, từ một lần chợt nghe kinh Kim Cang trong phố, tâm ngài rơi vào trạng thái ngưng thần (凝神)[9], mọi vọng tưởng khi ấy hoàn toàn dứt bặt[10], khoảnh khắc đó đã dẫn đến sự khai mở tuệ giác của một bậc Chân nhân (Sappurisa). Vì lẽ, với một người quê mùa và không biết chữ, nhưng đoạn đối thoại khi sơ ngộ giữa ngài và ngũ tổ Hoằng Nhẫn, đã cho thấy mặt trời trí tuệ đã thực sự hiện hữu trong tâm của ngài Huệ Năng:

Ngũ Tổ hỏi: Ông từ phương nào đến, và muốn cầu thỉnh điều gì? Huệ Năng đáp: “Đệ tử là dân Tân Châu ở Lãnh Nam, từ xa về lễ Tổ, chỉ cầu làm Phật chứ không mong gì khác”. Tổ nói: Ngươi dân Lãnh Nam, ở chốn quê mùa thì làm sao kham thành Phật? Huệ Năng đáp: Người tuy có Bắc-Nam, nhưng Phật tánh vốn không phân Nam-Bắc, thân quê mùa này cùng với thân hòa thượng có gì sai khác? Và Phật tánh giữa con và hòa thượng có gì sai biệt nhau?[11].

Về phương diện phước quả, theo kinh Tăng Chi Bộ đã dẫn ở trên, một khi thành tựu phẩm vị Chuyển tánh (Gotrabhū), cũng như đã vượt phàm phu địa (Vītivatto puthujjanabhūmiṃ), thì người đó luôn được cung kính, cúng dườngtôn trọng. Chính vì vậy, từ khi chợt ngộ do được nghe kinh Kim Cang, ngài Huệ Năng luôn được nhiều người quan tâm hỗ trợ, như việc có người vô danh tặng cho mười lạng bạc để chu cấp đời sống cho mẹ già, cũng như hỗ trợ các chi phí thường nhật của đời sống tại gia[12], để ngài an tâm đến Hoàng Mai cầu pháp với ngũ tổ, là những sự việc hoàn toàn có cơ sở từ kinh điển.

Như vậy, kể từ thời điểm chợt ngộ khi nghe một câu kinh, tuy chưa đạt được quả vị nào trong tứ quả Thanh văn, nhưng ngài Huệ Năng đã lìa khỏi địa vị phàm phubước lên Chân nhân phẩm vị (Sappurisabhūmiṃ).

2.    Nửa đêm thọ pháp.

Khi được theo chúng tu học dưới sự hướng dẫn của ngài Hoằng Nhẫn tại Hoàng Mai, ngài Huệ Năng phải trải qua tám tháng chấp lao phục dịch ở khu vực nhà bếp. Một lần ngũ tổ chợt ghé qua nơi ấy, bằng phong cách thiền ngữ đặc thù, ngài hỏi: Gạo đã trắng chưa?[13]. Huệ Năng đáp: Gạo trắng đã lâu, chỉ còn việc dần, sàng[14]. Từ câu trả lời này, ngài Hoằng Nhẫn biết rằng tâm cơ của ngài Huệ Năng đã đến thời khai ngộ, nên đã dặn riêng đến thất của ngài vào canh ba đêm ấy.

Giữa bốn bề tỉnh mịch đêm khuya, ngài Hoằng Nhẫn đã biệt truyền kinh Kim Cang cho ngài Huệ Năng, khi nghe đến câu: Không nên trú tâm, để tâm dính mắc, bất cứ pháp nào[15],  ngài Huệ Năng liền đại ngộ (大悟). Ngay khi đó, ngài Huệ Năng liền trình với ngũ tổ sở chứng của mình qua bài kệ:

Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh,
Đâu ngờ tự tánh vốn không sanh diệt,
Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ,
Đâu ngờ tự tánh vốn không dao động,
Đâu ngờ tự tánh hay sanh muôn pháp! (HT. Thích Thanh Từ, dịch)

Sau đó, ngũ tổ đã ấn chứngtruyền y bát cho ngài Huệ Năng làm tổ thứ sáu.

Như vậy, kể từ thời điểm này ngài Huệ Năng đã chính thức đảm nhận vai trò tổ vị của thiền lâm Đông Độ. Ở đây, điểm cần làm sáng tỏquả vị giác ngộ của ngài Huệ Năng trong thời điểm ấy ở phẩm vị nào?

Trước hết, người lãnh ngộ được chân lý, Hán tạng gọi là bậc kiến pháp (見法: diṭṭhadhamma) hoặc khai pháp nhãn (開法眼: dhammacakkhuṃ udapādi). Theo kinh Xuất Diệu, khi được pháp nhãn, thì chứng quả Tu-đà-hoàn[16] tức quả vị Dự lưu.

Theo luận Du-già-sư-địa, có mười điều lợi ích khi được pháp nhãn[17]. Luận ghi:

Lại nữa, xa trần lìa cấu, ở trong các pháp, lúc được pháp nhãn, nên biết tức được mười thứ thắng lợi. Đó là:

(1) Nơi bốn Thánh đế đã khéo thấy rõ, nên gọi là thấy pháp.

(2) Theo đấy, đạt được một loại quả Sa-môn, nên gọi là đắc pháp.

(3) Đối với chỗ đã chứng đắc, có thể tự nhận biết rõ: Ta nay đã dứt hết nghiệp nơi ba nẻo ác. Ta đã chứng đắc quả Dự lưu cho đến nói rộng. Do như thế nên gọi là biết pháp.

(4) Được bốn chứng tịnh, đối với Phật Pháp Tăng nhận biết đúng như thật, nên gọi là kiên pháp khắp.

(5) Đối với chỗ tự chứng đắc không lầm lạc.

(6) Đối với chỗ chứng đắc của kẻ khác không nghi.

(7) Lúc tuyên thuyết giáo pháp tương ưng với Thánh đế, không dựa vào duyên khác.

(8) Không quán xét về hình tướng cùng ngôn thuyết của kẻ khác. Ở trong Chánh pháp Tỳ-nại-da này, hết thảy luận khác đều không thể chuyển.

(9) Ký biệt về tất cả chỗ chứng đắc, giải thoát đều là vô sở úy.

(10) Do hai nhân duyên nên tùy nhập Thánh giáo. Tức là thế tục chân chánh cùng đệ nhất nghĩa. (Cư sĩ Nguyên Huệ, dịch)[18].

Bên cạnh đó, kinh Tăng Chi Bộ (A.iii,441) cũng nêu ra sáu điều lợi ích khi chứng được quả vị Dự lưu. Kinh ghi:

1. - Có sáu lợi ích, này các Tỷ-kheo, khi chứng ngộ quả Dự lưu. Thế nào là sáu?

2. Sự quyết định đối với diệu pháp không có bị thối đọa; không có bị đau khổ; làm các việc bị sanh tử hạn chế; thành tựu trí tuệ; không cùng chia sẻ với các dị sanh; nguyên nhân và các pháp do nhân sanh được khéo thấy[19].

Như vậy, theo Luận du-già-sư-địa, kể từ khi đạt được quả vị Dự lưu thì vị ấy có năng lực thấy rõ bốn Thánh để và thuyết pháp tương ưng với Thánh đế. Khảo sát bài kệ chứng ngộ của ngài Huệ Năng chứa đựng nhiều chất liệu phù hợp với kinh tạng.

 Trong bài kệ, khái niệm cơ bản được đề cập chính là yếu tố tự tánh. Theo kinh Lăng-già-a-bạt-đa-la-bảo, quyển hai, thì tự tánh là một cách biểu đạt khác của Niết-bàn[20]. Khi đối chứng ba mươi từ đồng nghĩa về Niết-bàn trong kinh Tương Ưng Bộ (S.iv,360)[21], thì bài kệ này có nhiều điểm tương đồng.

Đơn cử, khi nói tự tánh vốn tự thanh tịnh, tức đề cập đến phương diện Thanh tịnh (Visuddhi) của Niết-bàn. Khi nói: tự tánh vốn không sanh diệt,tứ là đề cập đến phương diện Bất tử (Amatam) của Niết-bàn . Khi nói: tự tánh vốn tự đầy đủ, tức đề cập đến sự Đầy đủ thái bình (Khemam) của Niết-bàn. Khi nói: Khi nói: tự tánh vốn không dao động, tức là đè cập đến yếu tố Thường hằng (Dhuvam) của Niết-bàn. Khi nói: tự tánh hay sanh muôn pháp, tức là đề cập đến yếu tố Chân lý (Saccam) của Niết-bàn. Chân lý của Niết-bàn cũng chính là không tính. Theo Trung luận: nhờ có nghĩa không này mà các pháp được thành tựu[22].

Có thể nói, bài kệ nêu trên của ngài Huệ Năngtuyên ngôn phát xuất từ tuệ giác của bậc Thánh đã giác ngộ. Cũng từ tuệ giác này, ngài đã thể hiện khả năng, nói như luận Du-già-sư-địa là, lúc tuyên thuyết giáo pháp tương ưng với Thánh đế. Khảo về hai cuộc đối thoại giữa ngài Huệ Năng với thượng tọa Huệ Minhni sư Vô Tận Tạng được ghi lại trong kinh Pháp Bảo Đàn là bằng chứng cho trường hợp này.

Từ bằng chứng bài kệ trình bày sở ngộ khi được ngũ tổ biệt truyền kinh Kim Cang, từ khả năng biện tài vô ngại qua hai trường hợpthượng tọa Huệ Minhni sư Vô Tận Tạng, đã cho thấy ngài Huệ Năng đã bước vào Thánh vị.

Căn cứ vào kinh điển, với thân cư sĩ lẽ tất nhiên ngài Huệ Năng lúc này chưa thể đạt đến quả vị A-la-hán[23]. Trong khi đó, những bằng chứng xác thực từ bài kệ khi ngài liễu ngộ đã xác tín rằng ngài Huệ Năng đã chắc chắn thành tựu quả vị Dự lưu. Vậy, phải chăng, khi còn thân cư sĩ, ngài Huệ Năng chỉ dừng lại ở quả vị này hay đã vượt lên Thánh vị cao hơn?

Có ba dấu hiệu cho thấy ngài Huệ Năng đã đạt đến Thánh vị bất lai. Đó chính là những biểu hiện của năng lực thần thông, thứ hai, mạng sống không bị tổn hại dù bị truy sát nhiều lần và cuối cùngmô tả trạng thái Niết-bàn từ bài kệ liễu ngộ.

Ở đây, khi bị thượng tọa Huệ Minh truy bức, ngài Huệ Năng đã bỏ y bát lên trên tảng đá và tự nói: Y này là vật biểu tín, sao có thể dùng sức mà tranh?[24] Câu nói này như một sự triển khai năng lực thần thông của một Thánh giả. Vì lẽ, dù y, bát rất nhẹ, nhưng với sức lực của một vị Tăng từng là võ tướng tứ phẩm của triều đình như ngài Huệ Minh không thể nào nhấc lên được.

Dấu hiệu thứ hai, đó chính là mạng sống không bị tổn hại dù bị truy sát nhiều lần. Đầu tiên là nhóm cuồng Tăng do thượng tọa Huệ Minh dẫn đầu truy đuổi, kế đến là tiếp tục bị truy đuổi ở Tào Khê nên phải ẩn thân trong đám thợ săn đến mười lăm năm. Ở đây, căn cứ vào chú giải kinh Pháp cú, về trường hợp Sa-di Saṃkicca, một bậc Bất lai (Anāgāmi) do chỉ còn lại thân này trước khi chứng đệ tứ thánh quả nên không bị tổn hại dù phải trải qua nhiều sự bức hại, ngay cả khi núi Tu-di rơi xuống[25] (Pacchimabhavikassa sattassa hi sinerunā otthariyamānassapi arahattaṃ appatvā jīvitakkhayo nāma natthi)[26].

Dấu hiệu thứ ba, toàn bộ nội dung bài kệ nêu trên là sự diễn tả tâm thế thực nghiệm Niết-bàn. Theo kinh Tăng Chi Bộ, sau khi đoạn năm hạ phần kiết sử, chứng A-na-hàm, sẽ thể nghiệm một trong năm loại Niết-bàn. Kinh ghi:

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có hạng người sống tùy quán vô thường trên con mắt, tưởng vô thường, thọ vô thường, trong tất cả thời, liên tục, không có gián đoạn, với tâm thắng giải, với tuệ thể nhập. Vị ấy sau khi diệt tận năm hạ phần kiết sử, chứng được Trung gian Bát-Niết-bàn ... chứng được Vô hành Bát-Niết-bàn ... chứng được Hữu hành Bát-Niết-bàn ... chứng được thượng lưu, đạt được Sắc cứu cánh. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người thứ bảy đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là ruộng phước vô thượng ở đời.

Năm loại Niết-bàn của vị Thánh đệ tam quả cũng được để cập trong các bộ luận ở Hán tạng như A-ty-đạt-ma-tập-dị-môn-túc-luận[27]; A-tỳ-đạt-ma-phát-trí-luận[28]; A-tỳ-đạt-ma-đại-tỳ-bà-sa-luận[29]

Như vậy, kể từ đêm thọ pháp với ngũ tổ, ngài Huệ Năng đã chứng đạt thánh quả Dự lưu. Với thân cư sĩ, lẽ tất nhiên ngài chưa thể chứng đạt thánh quả A-la-hán vào lúc này. Trong quá trình ẩn tu dưới hình hài cư sĩ, căn cứ vào ba dấu hiệu, gồm năng lực thần thông, thân thể không bị tổn hại và những tuyên bố về trạng thái Niết-bàn, có thể khẳng định rằng, trước khi xuất gia, ngài Huệ Năng đã chứng đạt đệ tam Thánh quả.

3.    Những dấu hiệu của bậc Thánh.

Như đã nói, với một kẻ chưa vượt bờ mà lạm bàn về vấn đề chứng ngộ của một bậc Thánh là việc rất khó. Đây cũng là tâm thế của ngài Xá-lợi-phất khi bị Đức Phật truy vấn về sự kiện tôn giả đã dùng những lời mạnh mẽ tán thán trí tuệ của Ngài. Câu trả lời của tôn giả Xá-lợi-phất, cũng liên hệ phần nào đến việc nghiên cứu của chúng tôi về trường hợp ngài Huệ Năng: Bạch Thế Tôn, con không có trí tuệ để được biết tâm tư của chư vị A-la-hán, chánh đẳng giác trong quá khứ, hiện tạivị lai. Bạch Thế Tôn, nhưng con biết truyền thống về chánh pháp[30].

Dấu hiệu đầu tiên của một bậc Thánh thành tựu tứ quả A-la-hán trong trường hợp của ngài Huệ Năng, là việc thọ trì nghiêm cẩn 250 giới. Căn cứ vào kinh Phật-bát-nê-hoàn, quyển thượng, thì giữ gìn đầy đủ 250 giới, sẽ đắc đạo quả A-la-hán[31].

Với ngài Huệ Năng, mặc dù được kế thừa tổ vị và thành tựu sở ngộ cao nhất của hàng cư sĩthánh quả A-na-hàm, nhưng ngài đã không dừng lại ở đó mà tuân theo truyền thống ngàn đời của chư Phật, là thực hành con đường xuất giathọ giới. Đó cũng là điều mà Đức Phật đã dạy trong kinh Trung Bộ: Truyền thống tốt đẹp này do ta thiết lập, con phải tiếp tục duy trì. Con chớ thành người tối hậu sau ta[32]. Hơn đâu hết, ngài Huệ Năng ý thức được rằng, phải đúng như pháp xuất gia, thọ giới, vì tự tu là trộm phẩm mạo, tăng tướng, cách tu ấy không có mặt trong giáo pháp của Đức Tôn sư[33]

Theo Tào Khê đại sư biệt truyện, vào ngày 17 tháng Giêng niên hiệu Nghi Phượng nguyên niên (676)[34], ngài Huệ Năng được ngài Ấn Tông phương tiện thế phát. Vào ngày mùng tám tháng Hai cùng năm, ngài Ấn Tông đã tổ chức giới đàn tại chùa Pháp Tánh (法性) để truyền giới cụ túc cho ngài Huệ Năng. Giới đàn do hòa thượng Trí Quang (智光) làm làm hòa thượng đàn đầu, ngài Huệ Tĩnh (惠靜) làm yết-ma-A-xà-lê, ngài Đạo Ứng (道應) làm giáo thọ A-xà-lê. Đặc biệt về sau, cả ba vị này đều theo ngài Huệ Năng học đạo[35].

Từ trường hợp cả ba vị hòa thượng truyền giới đều quy ngưỡng làm học trò, điều đó đủ chứng tỏ giới hạnhtrí tuệ của ngài Huệ Năng nghiêm cẩn như thế nào, và đây cũng chính là dấu hiệu thứ nhất cho thấy rằng ngài Huệ Năng đã chứng thánh quả A-la-hán

Dấu hiệu thứ hai liên quan đến những biểu hiện của một vị A-la-hán là năng lực thần thông[36]. Theo kinh Pháp Bảo Đàn, quyển thứ tám, đã cho thấy ngài Huệ Năng đã thể hiện tha tâm thông. Kinh ghi:

Khi ấy đệ tử của Bắc Tông tự lập ngài Thần Tú làm Tổ thứ sáu mà kỵ (vì) Lục Tổ được truyền y, mọi người đều nghe nên mới dạy Hành Xương đến ám sát Lục Tổ. Tổ tâm thông dự biết việc ấy nên liền để mười lượng vàng ở dưới tòa. Khi ấy ban đêm Hành Xương vào trong thất toan muốn hại Tổ, Tổ đưa cổ cho chém, Hành Xương liền vung kiếm chặt ba lần đều không thương tổn. Tổ bảo: “Kiếm chánh chẳng tà, kiếm tà chẳng chánh, chỉ nợ vàng của ông, không nợ mạng của ông.” Hành Xương hoảng hốt té xỉu, giây lâu mới tỉnh, cầu xin sám hối, liền nguyện xuất gia. Tổ liền cho vàng bảo: “Ông hãy đi, e đồ chúng trở lại hại ông, một ngày khác ông có thể đổi hình dángtrở lại, tôi sẽ nhận ông.” Hành Xương vâng lời dạy, giữa đêm trốn đi, sau theo Tăng xuất gia, thọ giới cụ túc, tinh cần tu hành (HT. Thích Thanh Từ, dịch).

Dấu hiện thứ ba của một chứng thanh quả A-la-hán chính là khả năng chấn động trời đất (動天地)[37]. Kinh Pháp Bảo Đàn ghi:

Một hôm, Sư muốn giặt cái y của Ngũ Tổ truyền thọ mà xung quanh không có suối tốt, nên đi đến cách sau chùa năm dặm, thấy có núi rừng xanh biếc, thoại khí vòng quanh (thoại khí là triệu chứng tốt lành hiện trên không khí, nhưng phải là người có pháp nhãn mới thấy được.) Sư dộng tích trượng xuống đất, nước suối ngay đó trào ra, chảy thành cái ao. Sư quỳ trên đá mà giặt y (HT. Thích Thanh Từ, dịch).

Dấu hiệu thứ tư của một vị thánh giả A-la-hán là biết rõ giờ chết, chủ động chấm dứt sinh mạng. Khảo về lịch sử các vị Thánh tăng cho thấy, ngài Xá-lợi-phất, tôn giả Ma-ha-ba-xà-ba-đề…có khả năng tự chủ sinh mạng của mình. Tương tự, trước lúc viên tịch khoảng một năm, ngài Huệ Năng đã sắp sếp, cắt đặt, phó chúc các việc cần thiết cho sự ra đi của mình. Vào canh ba, ngày mùng ba tháng tám năm 713, ngài Huệ Năng viên tịch trong tư thế thiền tọa.

Dấu hiệu thứ năm, lưu lại nhục thân bất hoại. Ngài Huệ Năng viên tịch lưu lại nhục thân, trải qua gần 1400 năm, giữa vô số thăng trầm của lịch sử nhưng nhục thân của ngài vẫn còn tồn tại, và hiện được thờ tại chùa Nam Hoa, huyện Khúc Giang, thành phố Thiệu Hưng, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.

Theo kinh điển Hán tạng, khi được thân kim cang bất hoại, tức vị đó chứng vô-sanh-pháp-nhẫn[38].

Theo kinh Hoa Nghiêm, trong mười địa của Bồ-tát thì Vô-sanh-pháp-nhẫn tương ứng với Đệ bát địa và cũng được gọi là Bất động địa[39]. Theo kinh Đại-bát-Niết-bàn, Bồ-tát khi trụ ở Bất-động địa thì sẽ không dao động, không đọa lạc, không lui sụt, không tan hoại[40]. Tuy tên gọi có khác, nhưng căn cứ vào nội dung thì quả vịĐệ bát địa cũng chính là quả vị của một bậc thánh giả A-la-hán[41].

Trong Tống Cao tăng truyện có đề cập thoáng qua về quả vị Vô-sanh-pháp-nhẫn của ngài Huệ Năng:

Tiết độ sứ ở Quảng Châu tên là Tống Cảnh (宋璟) đến lễ tháp của ngài Huệ Năng, nhân hỏi đệ tử của ngài Huệ NăngLệnh Thao (令韜) về nghĩa của Vô-sanh-pháp-nhẫn. Nghe xong, Tống Cảnh rất hoan hỷ bèn hướng về tháp cầu xin hiện điềm lành. Giây lát, một ngọn gió nhẹ khởi lên cùng với một mùi hương lạ thoang thoảng trong cơn mưa nhẹ trái mùa, chỉ diễn ra trên ngôi cổ tự[42].

Như vậy, từ năm dấu hiệu ở trên đã cho thấy, ngài Huệ Năng đã chứng đắc quả vị A-la-hán.

Kết luận.

Ngài Huệ Năng là một trường hợp đặc thù của Phật giáo nói chung và Phật giáo Bắc truyền nói riêng. Cuộc đời cũng như tư tưởng và kể cả nhục thân bất hoại của ngài là những bằng chứng sống động, đã mở rộng cơ may tu tậpchứng ngộ cho nhiều giới và nhiều người

Khảo về tiến trình giác ngộ của ngài Huệ Năng, đã chứng thực một điều rằng, tuy mang danh là đốn ngộ, nhưng thực sự tiến trình đi đến giác ngộ của ngài, cũng thuận thứ và từ từ, đúng như lời dạy của Đức Phật trong kinh tạng[43]. Tức là cũng bắt đầu từ quá trình kiến pháp (diṭṭhadhamma) cho đến khi chứng đệ bát địa Vô-sanh-pháp-nhẫn.

Có thể nói, từ tiến trình ngộ đạo của ngài Huệ Năng đã góp phần cũng cố niềm tin vào lời dạy của Đức Phật trong kinh điển, đồng thời qua đó xác tín thêm rằng, các bậc thánh nhân vẫn có thật trong đời, dù cách Phật đã lâu xa.



[1]大正藏第 48 冊 No. 2008 六祖大師法寶壇經. Nguyên văn: 時, 有一客買柴, 使令送至客店; 客收去, 惠能得錢, 却出門外, 見一客誦經. 惠能一聞經語, 心即開悟.

[2] Cullavagga, chương Sàng tọa, đoạn 241, Câu chuyện gia chủ Anāthapiṇḍika: Nghe danh đức Phật, Tỳ-kheo Indacanda dịch.

[3] Mahāvagga, chương trọng yếu, đoạn 64, Câu chuyện về Sārīputta và Moggallāna. Câu chuyện về trưởng lão Assaji. Tỳ-kheo Indacanda dịch.

[4] Kinh Tăng Chi Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr. 454.

[5] Kđd, tr. 545.

[6]大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第四十,九眾生居品,七

[7] Kinh Tương Ưng Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 65.

[8]大正藏第 24 冊 No. 1463 毘尼母經, 卷第一. Nguyên văn:云何名種性地?有人在佛邊聽法,身心不懈念念成就,因此心故豁然自悟得須陀洹.

[9] 大正藏第 50 冊 No. 2061 宋高僧傳, 卷第八, 唐韶州今南華寺慧能傳

[10]大正藏第 04 冊 No. 0211 法句譬喻經,卷第二,喻華香品. Nguyên văn: 凝神斷想自致得道

[11]大正藏第 48 冊 No. 2008 六祖大師法寶壇經.

[12]大正藏第 48 冊 No. 2008 六祖大師法寶壇經. Nguyên văn: 乃蒙一客,取銀十兩與惠能,令充老母衣糧

[13]大正藏第 48 冊 No. 2008 六祖大師法寶壇經. Nguyên văn: 米熟也未

[14]大正藏第 48 冊 No. 2008 六祖大師法寶壇經. Nguyên văn: 米熟久矣,猶欠篩在

[15]大正藏第 48 冊 No. 2008 六祖大師法寶壇經. Nguyên văn: 應無所住而生其心

[16]大正藏第 04 冊 No. 0212 出曜經, 卷第二. Nguyên văn: 得法眼淨成須陀洹

[17]大正藏第 30 冊 No. 1579 瑜伽師地論, 卷第八十六. Nguyên văn:  於四聖諦已善見故.說名見法

[18] Luận-du-già-sư-địa, tập 4, Nguyên Huệ, dịch, NXB. Hồng Đức, 2013, tr.216-217.

[19] Kinh Tăng Chi Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr.163.

[20]大正藏第 16 冊 No. 0670 楞伽阿跋多羅寶經, 卷第二. Nguyên văn:  佛告大慧:我說如來藏,不同外道所說之我. 大慧!有時說空, 無相, 無願, 如, 實際, 法性, 法身, 涅槃, 離自性, 不生不滅, 本來寂靜, 自性涅槃, 如是等句, 說如來藏已.

[21] Kinh Tương Ưng Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr. 406-408.

[22] 大正藏第 30 冊 No. 1564 中論, 卷第四. Nguyên văn: 以有空義故,一切法得成

[23] Kinh Mi-tiên vấn đáp, HT. Giới Nghiêm, dịch, NXB. Tôn giáo, 2003, tr.578.

[24]大正藏第 48 冊 No. 2008 六祖大師法寶壇經. Nguyên văn: 此衣表信,可力爭耶

[25] Tích truyện Pháp cú, Viên Chiếu dịch, tập 2, NXB. Tôn giáo,2012, tr. 104-105.

[26] Tipitaka.org. Dhammapada-aṭṭhakathā

[27]大正藏第 26 冊 No. 1536 阿毘達磨集異門足論, 卷第十四

[28]大正藏第 26 冊 No. 1544 阿毘達磨發智論,  卷第十八

[29]大正藏第 27 冊 No. 1545 阿毘達磨大毘婆沙論, 卷第一百七十四

[30] Kinh Trường Bộ, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2013 tr. 560.

[31]大正藏第 01 冊 No. 0005 佛般泥洹經, 卷上. Nguyên văn: 持二百五十戒具以得阿羅漢道.

[32] Kinh Trung Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2012, tr.102. Xem thêm, Jataka, No.9; Kinh Trung A-hàm, Kinh đại thiên nại lâm, số 67.

[33] Kinh Mi-tiên vấn đáp, HT. Giới Nghiêm, dịch, NXB. Tôn giáo, 2003, tr.578.

[34] Phật Tổ Thống Kỷ quyển 29 cũng xác định rằng, ngài Huệ Năng được Ấn Tông pháp sư xuất gia vào niên hiệu Nghi Phượng nguyên niên và được ngài Trí Quang lâm đàn truyền giới cụ túc..

[35]卍新續藏第 86 冊 No. 1598 曹溪大師別傳

[36]大正藏第 48 冊 No. 2008 六祖大師法寶壇經. Nguyên văn: 時夜暮,行昌入祖室,將欲加害. 師舒頸就之,行昌揮刃者三,悉無所損

[37]大正藏第 17 冊 No. 0784 四十二章經

[38]大正藏第 19 冊 No. 0974F 佛頂尊勝陀羅尼別法. Nguyên văn: 得金剛不懷身.此生即證無生法忍.

[39]大正藏第 10 冊 No. 0279 大方廣佛華嚴經, 卷第三十四. Nguyên văn: 一者歡喜地,二者離垢地,三者發光地,四者焰慧地,五者難勝地,六者現前地,七者遠行地,八者不動地,九者善慧地,十者法雲地

[40]大正藏第 12 冊 No. 0374 大般涅槃經, 卷第十一. Nguyên văn:菩薩住是不動地中,不動,不墮,不退,不散.

[41] Thích Chơn Thiện, Phật học khái luận, chương 3, Tăng bảo, Quả vị sa môn. Xem thêm, 大正藏第 25 冊 No. 1509 大智度論,卷第四十八. Nguyên văn:須陀洹道,乃至阿羅漢,辟支佛道,即是菩薩無生法忍.

[42]大正藏第 50 冊 No. 2061 宋高僧傳, 卷第八, 唐韶州今南華寺慧能傳

[43] Kinh Tăng Chi Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr. 327. Nguyên văn: Trong Pháp và Luật này, các học pháp là tuần tự, các quả dị thụctuần tự, các con đườngtuần tự, không có sự thể nhập chánh trí thình lình . Xem thêm: 大正藏第 01 冊 No. 0026 中阿含經, 卷第八, 阿修羅經. Nguyên văn: 若我正法,律中漸作漸學, 漸盡漸教者, 是謂我正法.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12653)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12268)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11049)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10922)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13375)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11797)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13683)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11918)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11185)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12214)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12415)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20609)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12442)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12468)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11731)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11609)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22445)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13587)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29713)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11553)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16767)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12019)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16859)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12085)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17939)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12656)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13185)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14776)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22644)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10597)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14070)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13882)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13736)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13881)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13952)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14844)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13868)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18429)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22816)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15409)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17337)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22426)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14278)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12596)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11181)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17778)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13221)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13118)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18812)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17196)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13533)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12933)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14710)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14668)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15888)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13531)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27451)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13258)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16739)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
(Xem: 21405)
Tiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant