Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

10. Con NgườiTôn Giáo

31 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 10490)
10. Con Người Và Tôn Giáo

CON NGƯỜITÔN GIÁO

Con ngườichúng sanh duy nhất trên thế gian này đã khám phá ra tôn giáothực hành sự cầu nguyệnsùng bái.

Nhân loại phát triển tôn giáo nhằm mục đích làm thỏa mãn những ham muốn tìm hiểu cuộc sống chính mình và thế giới xung quanh mình. Những tôn giáo thời nguyên thuỷ có nguồn gốc từ thuyết vạn vật hữu linh và nó phát sinh từ nỗi sợ hãi của con người về những đấng quyền năng siêu nhiên và những đấng vô hình và sự ham muốn của con người nhằm làm xoa dịu những quyền lực mà anh ta nghĩ là những đối tượng trú ngụ vô tri vô giác. Trải qua thời gian, những tôn giáo này thay đổi, bị ảnh hưởng bởi môi trường tự nhiên, địa lý, lịch sử, kinh tế xã hội, chính trị và tri thức ở thời điểm đó.

Nhiều tôn giáo trong số những tôn giáo đó đã trở thành tôn giáo có tổ chức và phát triển thịnh hành cho đến ngày nay, được một số tín đồ thuần tín ủng hộ mạnh mẽ. Nhiều người bị thu hút vào những tôn giáo có tổ chức này bởi vì hình thức tráng lệlễ nghi trong khi lại có một số người khác thích thực hành tôn giáo của chính họ, bày tỏ lòng tôn kính đối với bậc đạo sư của họ và áp dụng những nguyên lý đạo đức vào cuộc sống hằng ngày của mình. Bởi vì tầm quan trọng và cần thiết của việc thực hành, mỗi tôn giáo cho rằng tôn giáo mình là một triết lý sống, chứ không chỉ là một hệ thống niềm tin suông. Xét theo quan điểm của nhiều nguồn gốc xuất phát khác nhau và những con đường phát triển mà tôn giáo đã trải qua thì người ta không khỏi ngạc nhiên rằng những tôn giáo của con người phải khác biệt về mục đích, sự hiểu biết và giải thích của tín đồ, mục tiêu của họ và làm thế nào để đạt được mục đích đó, và quan niệm của họ về sự thưởng, phạt đối với những hành động đã tạo.

Xét về phương diện mục đích, việc thực hành tôn giáo có thể được căn cứ trên cơ sở niềm tin, sợ hãilý trí hoặc là sự vô hại: niềm tin hình thành nền cơ sở của nhiều hình thức tôn giáo được phát huy nhằm mục đích vượt qua những nỗi sợ hãi của con ngườiđáp ứng những nhu cầu của anh ta. Một tôn giáo thần biến, huyền diệu khai thác nỗi sợ hãi đó xuất phát từ sự vô minh của con người và đưa ra những sự hứa hẹn thành đạt về vật chất được căn cứ trên cơ sở của lòng tham lam. Một tôn giáo của sự thuần tín được căn cứ trên cơ sở tình cảm và nỗi sợ hãi về đấng quyền năng siêu nhiên mà người ta quá tin tưởng có thể làm xoa dịu thông qua những hình thức lễ nghinghi thức. Một tôn giáo của niềm tin được căn cứ trên cơ sở của lòng ham muốn có được sự tự tin để đối diện với những điều không chắc chắn trong cuộc sống và chân giá trị của con người.

Một số tôn giáo phát triển do kết quả của sự phát triển tri thức nhân loại, kinh nghiệmtrí tuệ nhân loại. Phương pháp hợp lý khi tìm đến tôn giáo đã được chấp nhận trong trường hợp này, kết hợp với những nguyên lý về giá trị của con người và những quy luật của tự nhiên hay của vũ trụ. Tôn giáo này được căn cứ trên giá trị nhân bản và chú trọng đến sự tu tập, trau dồi những phẩm chất con người. Một tôn giáo với chủ trương lấy quy luật nhân quả hay nghiệp báo làm chính yếu được căn cứ trên nguyên lý của tự lực và cho rằng chỉ có cá nhân chịu trách nhiệm cho hạnh phúc và khổ đau và sự giải thoát của chính mình. Một tôn giáo đầy tính trí tuệ được căn cứ trên cơ sở ứng dụng lý trí và đi tìm sự hiểu biết về cuộc đờisự thật của những điều kiện thế gian thông qua tri thức phân tích.

Vô hạithiện chí là những yếu tố phổ quát được tìm thấy trong tôn giáo. Một tôn giáo hòa bình được căn cứ trên nguyên lý không làm hại chính mình và người khác và tín đồ của tôn giáo đó phải trau dồi một cuộc sống an lạc, hài hoà và giải thoát. Một tôn giáo thiện chítừ bi được căn cứ trên cơ sở dâng hiến và phục vụ vì lợi íchhạnh phúc của người khác.

Tôn giáo khác biệt do khả năngï hiểu biết của tín đồ tôn giáo đó và sự giải thích mà những người có thẩm quyền tôn giáo đưa ra cho học thuyết và việc hành trì của tôn giáo họ. Trong một sô tôn giáo, đưa ra những quy tắc làm mệnh lệnh cho con người phải phục tùng trong khi trong những tôn giáo khác, họ chỉ đưa ra lời khuyên về nhu cầu và phương cách để tuân theo những quy tắc này (luật). Mỗi tôn giáo sẽ đưa ra những lý do để giải thích những vấn đề khổ đau đang hiện hữu của con người và những sự bất bình đẳng giữa con ngườiphương pháp để giải quyết tình huống. Bằng cách giải thích, một số tôn giáo cho rằng con người phải đương đầu với những khổ đau này bởi vì anh ta đang được thử nghiệm ở nơi thế giới này. Khi một sự giải thích như thế được đưa ra, một người khác có thể hỏi: ‘Ðể vì mục đích gì?’ Làm thế nào mà con người có thể được phán xét dựa trên cơ sở của chỉ một kiếp sống khi mà nhân loại thường khác biệt về những kinh nghiệm khổ đau về mặt vật lý, tinh thần, xã hội, kinh tế và những nhân tố và điều kiện môi trường?

Mỗi tôn giáoquan niệm riêng về những gì được xem là mục đích của đời sống tâm linh. Ðối với một số tôn giáo, sự sống thường hằng bất tử trên thiên đường hoặc ở cõi trời với Chúa, Thượng đếmục tiêu tối hậu. Ðối với số khác lại cho rằng mục đích tối hậu của cuộc đời là sự thống nhất với ý thức vũ trụ bởi vì người ta tin rằng sự sống là một đơn vị của ý thức và nó phải trở về cùng nguồn gốc với ý thức.

Một số tôn giáo tin rằng sự chấm dứt khổ đau hoặc là sự lập lại chu trình sinh và tử là mục đích cứ cánh. Ðối với những tôn giáo khác, thậm chí hạnh phúc thiên đường hoặc là hợp nhất với Phạm Thiên (đấng tạo hoá) là sự phái sinh từ sự bấp bênh của cuộc sống, cho dù tồn tạihình thức nào đi nữa. Và thậm chí có một sô tôn giáo tin rằng chính ngay trong kiếp sống hiện tại cũng đủ cho chúng ta hưởng được mục đích của cuộc đời.

Ðể đạt được mục đích mong muốn này, mỗi tôn giáo đưa ra một giải pháp khác nhau. Một số tôn giáo yêu cầu tín đồ của họ hãy dâng hiến cho Chúa hoặc là tuỳ thuộc vào Chúa mọi điều trong cuộc sống của họ. Một số tôn giáo khác kêu gọi tín đồ của họ thực hành khổ hạnh khắc khe làm phương tiện để rửa sạch tất cả những tội lỗi thông qua việc tự ép xác khổ hạnh. Lại có một số tôn giáo khác đề nghị giết súc vật để dâng hiến thần linh và nhiều hình thức lễ nghinghi thức cũng như việc trì tụng thần chú để được thanh tịnh hoá và đạt mục đích cứu cánh. Song còn có một tôn giáo nữa ủng hộ những phương pháp tu tập đa dạng và sự thành tâm, dùng trí tuệ nhận diện chân lý và sự định tâm nhờ quá trình tu tập thiền định.

Mỗi tôn giáo có một quan niệm khác nhau về sự trừng phạt những hành động ác đã tạo trong cuộc sống. Theo một số tôn giáo, con người bị Thượng đế buộc phải đày đoạ trên trần gian này mãi mãitội lỗi anh ta đã phạm phải ngay trong kiếp sống này. Có một số tôn giáo khác lại cho rằng nhân và quả hoạt động theo quy luật của tự nhiên và kết quả của một hành động (nghiệp) sẽ phải lãnh chịu trong một khoảng thời gian nhất định. Một số tôn giáo lại cho rằng kiếp sống này chỉ là một trong nhiều kiếp sống và con người sẽ luôn luôn có được cơ hội để chuyển hoá tự thân trong mỗi giai đoạn mãi cho đến khi anh ta đạt đến quả vị vô thượng, niềm hạnh phúc vĩnh cửu.

Ðưa ra nhiều mục đích, sự giải thíchmục tiêu đa dạng và rộng như thế về nhiều tôn giáo khác được nhân loại chấp nhận thì rất là hữu ích khiến cho con người không nên chấp lấy những quan điểm giáo điều về tôn giáo của họ mã hãy cởi mở và khoan dung đối với quan điểm của những tôn giáo khác.

Ðức Phật dạy: “Các vị không nên chấp nhận những lời dạy của ta do vì sự tôn kính mà trước hết hãy thử nghiệm những lời dạy ấy như đem vàng ra thử lửa”.

Sau khi nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì một tâm hồn cởi mở, khai phóng đối với những giáo lý của các tôn giáo khác, thật là hữu ích nếu chúng ta ghi nhớ rằng thực hành tôn giáo là để mang lại lợi ích và, tự dohạnh phúc cho tất cả chúng sanh. Ðiều đó có nghĩa là, giáo lý nên được sử dụng vào những mục đích chân chánh nhằm cải thiện phẩm chất của đời sống của tất cả chúng sanh. Song hiện nay nhân loại bị lợi dụng và đã đi sai hướng những những giáo lý cơ bản. Những hành động phi luân lýtội lỗi trở nên một hiện tượng phổ biến trong xã hội và những con ngườitinh thần tôn giáo thường gặp phải nhiều khó khăn trong việc cố gắng duy trì một số nguyên tắc đạo lý trong cuộc sống hiện đại. Ðồng thời, tiêu chuẩn của những nguyên tắc đạo lý cũng bị hạ thấp nhằm đáp ứng thoả mãn những nhu cầu của những con người có đầu óc nhiễm ôích kỷ. Con người không nên vi phạm những quy luật đạo lý phổ quát nhằm thích nghi với lòng tham và sự tham đắm của bản thân; mà đúng hơn con người nên cố điều chỉnh bản thân mình theo những quy luật này do tôn giáo hướng dẫn. Những giới luật của tôn giáo đã được đưa ra bởi các Bậc Thầy giác ngộ, những con người đã nhận ra được lối sống thánh thiện, cao thượng đưa đến an lạchạnh phúc cho tự thân và tha nhân. Những ai vi phạm những giới cấm này là vi phạm những quy luật của vũ trụ, mà theo Phật giáo, sẽ mang lại những hậu quả thông qua sự vận hành của quy luật nhân quả.

Mặt khác, điều này không có nghĩa rằng con người phải tuân theo một cách nô lệ những gì được tìm thấy trong tôn giáo của anh ta, không quan tâm đến việc ứng dụng của tôn giáo ấy vào cuộc sống hiện thời. Những nguyên lý và giới luật tôn giáo khiến cho con người có thể sống cuộc sống đầy ý nghĩa, chứ không phải để sử dụng chúng trói buộc con người vào những sự hành trì vô ích và những tín điềuhình thức nghi lễ mang tính mê tín dị đoan. Người nào tuân giữ những nguyên lý đạo giáo nên tin tưởng vào trí thông minh của con người và sống tôn trọng với chấn giá trị nhân loại. Cần phải có một vài sự thay đổi trong những hoạt động tôn giáo để tương xứng với nền giáo dục của chúng tabản chất của xã hội ngày càng đổi thay của chúng tađồng thời không đánh mất đi những nguyên lý phổ quát thánh thiện ấy. Nhưng người ta thừa nhận rằng làm thay đổi bất kỳ hình thức tôn giáo nào cũng luôn là điều khó thực thi bởi vì nhiều người có đầu óc bảo thủ, cố hữu lại phản đối lại sự cách tân dù là họ muốn cải thiện tốt hơn. Những quan điểmý kiến bảo thủ như thế cũng giống như một ao nước tù đọng, trong khi đó những ý tưởng mới tiến bộ thì giống như một thác nước nơi mà dòng nước thường xuyên được đổi mới và do đó, có thể sử dụng được.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6941)
... thuật ngữ nhất-xiển-đề có khi mang nghĩa là cực ác, hoặc mang nghĩa là một kẻ quá nhiều tham dục, tham luyến sanh tử, không cầu giải thoát.
(Xem: 9655)
Phật giáo không công nhận có một Đấng Thượng Đế Sáng Tạo, tiếng Anh là The Creator God và thường gọi tắt là God.
(Xem: 23154)
Đêm Rằm tháng Giêng, sân vắng, trăng sáng đầy trời. Trăng vẫn sáng đẹp như xưa, không có gì thay đổi...
(Xem: 8119)
Có ma hay không có ma ? Ma là gì ? Ma ở đâu ? Ma có làm hại được ta hay không ? Nếu phải trừ ma thì phải làm như như thế nào ?...
(Xem: 20547)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19554)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18426)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16283)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 15964)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 19114)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 14342)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 9668)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một vị Bồ tát nổi bật và được biết đến nhiều nhất trong tất cả các truyền thống Đại thừa, và đôi khi cả Tiểu thừa, như trường hợp ở xứ Tích lan và Thái lan cũng có thờ Ngài.
(Xem: 8767)
Philippe Cornu là một học giả uyên bác, thông thạo tiếng Tây Tạng, tiếng Phạn, tiếng Pali, tiếng Hán… Ông viết bảo, dịch thuật rất nhiều kinh sách, và thường được mời thuyết giảng về Phật giáo trên đài truyền hình Pháp.
(Xem: 8236)
Lý tưởng Bồ tátảnh hưởng lớn trên đời sống, tư tưởng và hành động của người Phật tử trong suốt hơn hai ngàn năm nay...
(Xem: 8928)
Đề tài của buổi giảng hôm nay là nhằm giới thiệu bức tranh ‘Địa Ngục Biến Tướng Đồ’, còn có tên là ‘Thập Vương Đồ’, do lão sư Giang Dật Tử vẽ tại Đài Trung, hiện nay đang được triển lãm tại Kinh Đô, Nhật Bản.
(Xem: 11017)
Phật giáo luôn nhắc nhở con người nên tin ở mình, tinh tấn tu hành để tự giải thoát. Thật chưa có tôn giáo nào xác nhận tinh tấnđộng lực chính giúp con người vươn đến cõi toàn thiện...
(Xem: 9167)
Tác phẩm Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo Giác Ngộ của Ngulchu Gyalsas Thogmed Zangpo là một trong những luận bản phổ biến nhất của Phật Giáo Tây Tạng...
(Xem: 8930)
Đức Phật đã dạy: “Chính sự khao khát là điều dẫn đến sự tái sinh. Đây chính là lần sinh thành cuối cùng của ta. Nay sẽ không bao giờ có sự tái sinh đối với ta”.
(Xem: 7989)
Đây là thắc mắc mà thanh niên Subha Todeyyaputta từng nêu ra cho Đức Phật với hy vọng tìm kiếm câu trả lời từ Ngài.
(Xem: 9116)
Mọi phương pháp dạy cho con người tránh né khổ đau hay trốn chạy khổ đau để tìm kiếm hạnh phúc đều không phải là những phương pháp giáo dục hoàn chỉnh.
(Xem: 35671)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 8593)
Việt Nam Đạo Phật vốn là một tôn giáo gắn bó với dân tộc, có nhiều ảnh hưởng sâu đậm đến lịch sử phát triển của đất nước, nhất là về mặt văn hóa giáo dục.
(Xem: 15134)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 8726)
Thiền định là một phương pháp hành thiền có nguồn gốc từ đạo Phật được phát triển vững mạnh trong 3 thập niên qua ở Mỹ và nhiều nước khác.
(Xem: 15331)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 9196)
Đại Tạng Kinh là một kho báu chung của mọi người Phật tử, nhưng do nhu cầu học Phật ở mỗi quốc gia mà có sự hình thành các Đại Tạng Kinh bằng những ngôn ngữ khác nhau.
(Xem: 8871)
Tâm Phật rỗng rang, không chất chứa gì cả. Tâm chúng sinh là một kho chứa khổng lồ chất đầy gánh nặng vui buồn, sướng khổ, hận thù, oan khiên nghiệt ngã của quá khứ.
(Xem: 9391)
Gót tu sĩ bốn phương trời rảo bước, Cõi Ta-bà đâu chẳng phải nhà ta, Một mình đi bình bát với cà sa, Đói xin ăn, dưới gốc cây nằm ngủ…
(Xem: 8511)
Hơn ba mươi năm, tôi làm ở hội Từ Tế. Bởi vì, tôi thường làm việc cứu trợ trong và ngoài nước, cho nên tôi cảm nhận được thiên tai, nhân họa liên tục ập xuống trái đất.
(Xem: 10330)
Báo Chánh Pháp số 34, tháng 9 năm 2014, do ĐLHT. Thích Thắng Hoan (CA) và Brodard Chateau, Brodard Restaurant & Bamboo Bistro ủng hộ ấn phí.
(Xem: 7694)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler
(Xem: 9581)
Những chướng duyên có thể giúp hành giả trên đường giải thoát. Ý niệm này, thường tìm thấy trong kinh Phật, dạy cách đánh giá cao những chướng duyên mà chúng ta gặp phải, vì nhờ chúng nên trí tuệtừ bi mới được nảy sinh.
(Xem: 7540)
Chất lượng của tâm niệm thiện lành sẽ tăng rất nhiều khi xưng danh tha thiết; vì thế, từ trạng thái nhớ nghĩ chuyển qua thực hành xưng danh niệm Phật là điều tất yếu.
(Xem: 17273)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15047)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 9540)
Kính thưa thầy, con có một thắc mắc về chơn tâmbản tánh. Sao gọi là chơn tâm? Sao gọi là bản tánh? Vậy giữa chơn tâmbản tánh giống nhau hay khác nhau?
(Xem: 20917)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 9232)
Mãi đến tận giờ, có lẽ ít người ngờ rằng Hòa thượng Thích Minh Châu ngoài phong cách một học giả có văn phong cổ kính, nghiêm túc và khô khan nhất trong làng Phật giáo Việt Nam, còn là một ngòi bút tân kỳ và thơ mộng đáng bậc thầy của không riêng Phật giáo.
(Xem: 7190)
Nếu chúng ta phân tích kinh nghiệm của chúng ta một cách cẩn thận, thế thì tôi nghĩ thật rõ ràng rằng hầu hết những quấy nhiễu tinh thần đến từ những tình trạng tinh thần tiêu cựcchúng ta gọi là phiền não.
(Xem: 17743)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17674)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 25856)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 7853)
Những người được gọi là "siêu việt" là những kẻ chân thành muốn làm tan biến tất cả khổ não của người khác bằng việc thấu hiểu nổi khổ đau của chính họ.
(Xem: 9951)
Cái không của A-hàm là xem trọng con đường giải thoát để tu trì. Cái không của Bộ phái dần dần có khuynh hướng bình luận, phân tích về ý nghĩa của pháp.
(Xem: 7291)
Tất cả mọi giáo huấn của Đức Phật đều hướng đến việc đem tới sự thực chứng nguyện vọng tức thời của chúng ta...
(Xem: 9676)
Chết là sự chấm dứt tạm thời của một hiện tượng tạm thời. Chết không phải là đoạn diệt hẳn, chết tại chỗ này nhưng lại sanh chỗ khác.
(Xem: 8165)
Thật là đại hạnh cho chúng tôi, nếu đức Thế Tôn cho phép nữ giới được sống đời xuất gia phạm hạnh thiêng liêng trong pháp và luật của đức Thế Tôn!
(Xem: 9130)
Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm...
(Xem: 7431)
Nếu bằng "cùng một nơi" chúng ta muốn nói thiên đàng[1] hay giải thoát khỏi vòng luân hồi, thế thì đấy là khó khăn...
(Xem: 8819)
Thực hành giáo lý không phải chỉ là đến chùa đọc kinh hay niệm Phật mà chính là áp dụng giáo lý của đức Phật trong đời sống hàng ngày...
(Xem: 7948)
Đức Phật nói lý nhân duyên là nói đến sự thật của đời sống con người và muôn loài vật trên thế gian này.
(Xem: 8383)
Sự hình thành các hệ tư tưởng của Phật giáo Bộ phái không ngoài mục đích đáp ứng nhu cầu thực tế của Phật giáo đương thời, xã hội hoá Phật giáo.
(Xem: 7559)
Suốt 49 năm giáo hóa độ sinh, Phật chỉ có ba y một bình bát, sống đời rày đây mai đó, tùy bệnh cho thuốc, giúp đỡ mọi người.
(Xem: 8755)
Chúng sinh trong cõi luân hồi vô thủy vô chung ấy đến rồi đi, đi rồi đến giống như hạt bụi nhỏ, phút chốc bỗng sinh trên trời, bỗng chốc sinh trên mặt đất...
(Xem: 8187)
“Ba cõi duy chỉ là tâm, muôn pháp duy chỉ là thức” là một chân lý, một sự thật được nói nhiều trong tông Duy thức, và rộng ra, có trong tất cả kinh, luận.
(Xem: 8905)
Dựa theo thuyết Thiên mệnh của Khổng Tử thì thiên mệnh là mạng lịnh của Trời. Thiên mệnh là chủ thuyết rất quan trọng trong triết lý của đạo Nho.
(Xem: 7321)
"Sau khi tôi nhập diệt, giới luật sẽ thay tôi để làm thầy của quí vị, ở đâu có giới luật thì ở đó có tôi..."
(Xem: 14030)
Tập hợp các bài viết của nhiều tác giả cùng 1 chủ đề: Tứ Diệu Đế, Bốn Chân Lý cao cả
(Xem: 7137)
... nghành Tâm lý học sẽ không bao giờ có thể giúp con người thấy đúng và rõ sự thật của tâm lý mình và tâm lý người khác.
(Xem: 10390)
Duy thức học là một học thuyết tuy được xác lập vào khoảng thế kỷ thứ tư...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant