Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

18. Ý Nghĩa Của Giấc Chiêm Bao

31 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 11057)
18. Ý Nghĩa Của Giấc Chiêm Bao

Ý NGHĨA CỦA GIẤC CHIÊM BAO

Cuộc đời chỉ là một giấc mơ.

Một trong những vấn đề vĩ đại nhất của con người chưa được giải quyết một cách thoả đáng là bí mật của giấc mơ. Ngay từ lúc khởi nguyên của thời đại, con người đã cố gắng phân tích những giấc mơ và cố giải thích chúng theo những ngôn từ của tâm lýtiên tri, nhưng trong khi đó đã có một số phương pháp tiếp cận thành công trong lĩnh vực này trong giai đoạn gần đây, có lẽ chúng ta không khỏi bối rối với câu hỏi: “Giấc mơ là gì?”

Một nhà thơ lãng mạn lớn của nước Anh, William Wordsworth có một quan niệm rất ngạc nhiên rằng cuộc đơì mà chúng ta đang sống chỉ là một giấc mơ và chúng ta sẽ ‘tỉnh thức’, giác ngộ được thực tại khi chúng ta không còn hiện hữu trên cõi đời này nữa, khi giấc mơ của chúng ta chấm dứt.

Sự ra đời của chúng ta chỉ là một giấc ngủ và bị lãng quên;
Linh hồn, hiện hữu trong ta, trong ngôi sao cuộc đời chúng ta;
Có một nơi nào để trú ngụ
Và đến từ....

Một quan niệm tương tự được biểu hiện trong một mẩu chuyện cổ Phật giáo thật hấp dẫn kể về một câu chuyện của một vị thiên thần đang rong chơi với các vị thiên thần khác. Vì mệt mỏi nên, vị thiên thần đó nằm nghỉ một lát và sau đó tịch diệt. Vị thiên thần này được tái sinh làm thân nữa nhơn trên trần gian này.Ở trần gian này, cô ta lấy chồng, sinh một vài đứa con và sống rất thọ. Sau khi qua đời, cô ta lại được sinh làm thiên thần như trong số những người bạn đồng phạm hạnh vừa mới tan cuộc chơi của họ. (Câu chuyện này còn minh hoạ thời gian của thế giới này rất khác với thời gianthế giới khác.

Phật giáo quan niệm thế nào về giấc mơ? Cũng giống như trong mỗi nền văn hoá khác, Phật giáo cũng đã chia sẻ ngang bằng với những con người được cho là có kỹ năng trong việc giải thích bí ẩn của những giấc mơ. Những người như thế đã kiếm được một món tiền rất nhiều trong quá trình lợi dụng sự vô minh của những người tin rằng mỗi giấc mơ có một ý nghĩa tâm linhtiên tri.

Theo ngành tâm lý học Phật giáo, giấc mơ chỉ là những quá trình tâm lý diễn ra như là những hoạt động của tâm thức. Khi xem xét hiện tượng của giấc mơ, chúng ta nên nhớ rằng quá trình ngủ có thể được xem như rơi vào năm giai đoạn sau:

Ngủ lơ mơ (nửa ngủ nửa thức),
Ngủ tĩnh,
Ngủ say,
Ngủ tĩnh và,
Thức giấc

Ý nghĩanguyên nhân của giấc mơ là đề tài thảo luận chính trong tác phẩm nổi tiếng ‘Milinda Panha’ (Vua Milanda vấn kinh), trong cuộc hội thoại này, Na Tiên Tỳ-kheo đã phát biểu rằng có sáu nguyên nhân khiến cho giấc mơ xuất hiện, trong đó có ba nguyên nhân thuộc về cơ quan của cơ thể như đầy bụng, mật và đờm đãi. Nguyên nhân thứ tư là do vì sự can thiệp của những thế lực quyền năng siêu nhiên; thứ năm là sự hồi tưởng những sự việc đã kinh qua trong quá khứ và sáu là sự ảnh hưởng của những sự kiện trong tương lai. Người ta phát biểu một dứt khoát rằng giấc mơ chỉ xuất hiện khi trong trạng thái ngủ tĩnh giống như trạng thái ngủ của loài khỉ. Trong sáu nguyên nhân đã đưa ra, Na Tiên Tỳ-kheo phát biểu một cách quả quyết rằng nguyên nhân sau cùng chính giấc mơ tiên tri là giấc mơ quan trọng nhất và những giấc mơ khác thì tương đối không có ý nghĩa.

Giấc mơ là hiện tượng do tâm thức tạo ra và chúng là những hoạt động của tâm. Tất cả mọi người đều mơ mặc dù một vài người trong số họ không thể nhớ. Phật giáo cho rằng có một vài giấc mơ mang ý nghĩa tâm lý. Sáu nguyên nhân được đề cập trên đây cũng có thể được phân loại như sau:

Mỗi niệm được tạo ra được cất giữ trong tàng thức của chúng ta và một vài niệm có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tâm tuỳ theo trạng thái tâm băn khoăn lo lắng của chúng ta. Khi chúng ta ngủ, một vài trong số những niệm này được hoạt độnghiện ra nơi chúng ta như là ‘những bức tranh’ chuyển động trước mặt chúng ta. Quá trình này xảy ra bởi vì trong suốt quá trình ngủ, năm căn (năm giác quan) kiến lập nên sự tiếp xúc của những giác quan chúng ta với thế giới bên ngoài, tạm thời bị ngăn chặn lại. Lúc đó, tàng thức của ta tự do ngự trị và ‘xem lại’ những niệm được cất giữ trong đó. Những giấc mơ này có thể có giá trị đối với ngành tâm thần học nhưng không thể được phân xếp vào giấc mơ tiên tri. Chúng chỉ là những phản ảnh, hồi tưởng của tâm thức lúc nghỉ ngơi.

Loại giấc mơ thứ hai cũng không có ý nghĩa. Những giấc mơ này được gây ra bởi những sự kích động, trêu chọc bên ngoài và bên trong khởi hành một chuyến đi bằng tàu hoả của những niệm mà tâm có thể nhìn thấy được lúc nghỉ ngơi. Những nhân tố bên trong là những nhân tố làm phiền toái đến cơ thể ví dụ như bữa ăn no không cho phép người ta nghỉ ngơi một lát hoặc là sự mất thăng bằng và sự ma sát giữa những yếu tố tạo thành cơ thể. Những sự kích động bên ngoài là khi tâm bị giao độngphiền nhiễu (mặc dù người nghỉ không để ý đến nó) do những hiện tượng tự nhiên gây ra giống như thời tiết, gió, lạnh, mưa, lá kêu sào xạc, khua cửa sổ v.v.... Tàng thức phản ứng lại những sự phiền hà này và tạo ra những bức ảnh để thanh minh chúng. Tâm điều chỉnh sự khó chịu theo một cách thích hợp để mà người mơ có thể tiếp tục ngủ mà không bị quấy nhiễu. Những giấc mơ này cũng không quan trọng và cũng không cần phải giải thích.

Kế đến là giấc mơ tiên tri. Những giấc mơ này quan trọng. Chúng là những kinh nghiệm hiếm có và chỉ xuất hiện khi có một sự kiện sắp xảy ra có ý nghĩa quan trọng to lớn đối với người mơ. Ðạo Phật dạy rằng ngoài thế giới hữu hình này chúng ta còn có thể kinh qua thế giới của chư thiên thần hiện hữu ở một hành tinh khác hoặc là một số quỷ thần gắn bó với trần gian này và chúng ta không thể nhìn thấy được họ. Chư vị có thể là bà con họ hàng hoặc bạn bè ta đã qua đời và đã được tái sinh. Chư vị duy trì những mối quan hệ tâm linh trước đây và lưu luyến đối với chúng ta. Khi người hồi hướng những phước báo cho chư thiên thần và những người đã qua đời, người Phật tử nhớ nghĩ đến chư vị này và mời gọi họ đến chia sẻ niềm hạnh phúc được tích luỹ trong quá trình tạo phước. Do đó, họ phát huy mối quan hệ về mặt tinh thần với những người đã qua đời của họ. Chư vị thiên thần, ngược lại, bằng lòng và chư vị xem xét những hành động của chúng tachỉ bảo một điều gì đó trong những giấc mơ khi mà chúng ta đương đầu với một số vấn đề to lớn và họ cố bảo vệ chúng ta.

Vì vậy, khi có một việc gì quan trọng sắp xảy ra trong cuộc sống của chúng ta, chư vị phát ra một sô năng lực tâm linh trong tâm của chúng ta được nhìn thấy dưới dạng những giấc mơ. Những giấc mơ này có thể cảnh báo chúng ta sự hiểm nguy sắp xảy ra hoặc là thậm chí mang đến cho chúng ta những tin vui vô cùng bất ngờ. Những thông tin này được cung cấp dưới dạng biểu tượng (giống như âm bản của những bức ảnh) và phải được giải thích bằng kỹ năng khéo léo và trí thông minh. Khổ thay có quá nhiều người không phân biệt được hai loại giấc mơ đầu tiên với loại giấc mơ này và vội vã tốn nhiều thời gian quý báu và tiền bạc để đi tìm những ông đồng bà cốt giả và những người cắt nghĩa giấc mơ để giải thích. Ðức Phật nhận ra rằng trường hợp này có thể được lợi dụng để phục vụ cho tư lợi và do đó Ngài cảnh báo chư Tỳ-kheo không nên thực hành những việc như bói toán, chiêm tinh và giải thích giấc mơ dựa trên danh nghĩa Phật giáo.

Sau cùng, tâm thức chúng ta là kho chứa tất cả những năng lực nghiệp được tích luỹ trong quá khứ. Thỉnh thoảng khi một nghiệp quả sắp được gặt hái (có nghĩa là khi hành động chúng ta đã tạo trong kiếp quá khứ hoặc là nhiều kiếp trong quá khứ, sắp chín muồi trong hiện tại) thì tâm thức nghỉ ngơi trong suốt thời gian chúng ta ngủ nghỉ có thể tạo ra một bức tranh về những gì sắp hiện ra. Vả lại, hành động sắp xảy ra có một vai trò lớn lao và phải được tràn đầy đến mức độ mà tâm thức phóng ra một nguồn năng lượng cực kỳ mạnh dưới dạng hình thức của một giấc mơ sâu đậm. Những giấc mơ như thế chỉ xuất hiện khi trong những trường hợp hiếm hoi và chỉ ở một số người với sự cấu tạo một loại tinh thần đặc biệt. Dấu hiệu của hậu quả của một số nghiệp quả cũng xuất hiện trong tâm chúng ta ở niệm cuối cùng khi chúng ta sắp sửa chia tay thế giới này.

Giấc mơ có thể xuất hiện khi hai sinh vật sống gởi cho nhau những bức thông tin ngoại cảm mạnh mẽ. Khi một người có ước muốn mãnh liệt để giao tiếp với người khác, thì vị ấy chú tâm mạnh mẽ đến bức thông tin và người mà anh ta muốn giao tiếp. Khi tâm ở trong trạng thái yên tĩnh, đó là một trạng thái lý tưởng để tiếp nhận những bức thông tin này dưới dạng những giấc mơ. Thông thường, những giấc mơ này chỉ xuất hiện trong một ý niệm mạnh mẽ bởi vì tâm thức con người không đủ mạnh để duy trì những bức thông tin như thế trong một khoảng thời gian dài.

Tất cả mọi người trên thế gian này đều là những con người mơ mộng và họ nhìn thấy thế gian này là thường hằng, bất biến, song những gì xét cơ bản đều là vô thường. Họ không thấy rằng tuổi trẻ kết thúctuổi già, sắc đẹp chấm dứt ở cái xấu, sức khoẻ chấm dứt khi bệnh tật đến và chính bản thân cuộc đời chấm dứt bằng cái chết. Trong thế giới mộng mơ này, những gì thực sự không có bản chất mộng mơ đều được xem như thực tại. Mơ màng trong lúc ngủ chỉ là một khía cạnh khác của một thế giới mộng mơ. Chỉ có những ai thức tỉnhgiác ngộ như chư Phật và chư vị Bồ-tát, A-la-hán như các Ngài đã chứng được thực tại.

Chư Phật và các vị A-la-hán không bao giờ mơ mộng. Ba loại giấc mơ đầu tiên không thể xuất hiện trong tâm của quý Ngài bởi tâm của các Ngài đã định hoàn toàn và không thể phát ra giấc mơ. Loại giấc mơ sau cùng không thể xuất hiện ở nơi chư Ngài bởi vì các Ngài đã đoạn tận hoàn toàn những năng lực tham ái và không có nguồn năng lượng còn lại của sự lo lắng hoặc là ước muốn không được thoả mãn để phát ra tâm sản sinh những giấc mơ. Ðức Phật được biết đến như là một Bậc giác ngộ bởi vì phương pháp thư giãn thân thể của Ngài không phải là phương pháp chúng ta ngủ nghỉ chính từ đó những giấc mơ xuất hiện. Những nhà tư tưởng và nghệ thuật vĩ đại như German Goethe, thường nói rằng họ có được nguồn cảm hứng tốt nhất từ những giấc mơ. Ðiều này có lẽ vì khi tâm thức của họ bị cắt đứt khỏi ngũ căn trong lúc ngủ nghỉ, cho nên họ sản sinh những tư tưởng rõ ràng mang tính sáng tạo ở cấp độ cao nhất.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7158)
Nghệ thuật Phạm-bối của Phật giáo ra đời trong không gian kỳ ảo của nhiều cung bậc âm thanh, từ các thể tán ca, ngâm vịnh của những tôn giáo mang ảnh hưởng Vệ-đà.
(Xem: 6951)
... thuật ngữ nhất-xiển-đề có khi mang nghĩa là cực ác, hoặc mang nghĩa là một kẻ quá nhiều tham dục, tham luyến sanh tử, không cầu giải thoát.
(Xem: 9681)
Phật giáo không công nhận có một Đấng Thượng Đế Sáng Tạo, tiếng Anh là The Creator God và thường gọi tắt là God.
(Xem: 23209)
Đêm Rằm tháng Giêng, sân vắng, trăng sáng đầy trời. Trăng vẫn sáng đẹp như xưa, không có gì thay đổi...
(Xem: 8157)
Có ma hay không có ma ? Ma là gì ? Ma ở đâu ? Ma có làm hại được ta hay không ? Nếu phải trừ ma thì phải làm như như thế nào ?...
(Xem: 20613)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19597)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18481)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16321)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 15982)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 19159)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 14388)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 9686)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một vị Bồ tát nổi bật và được biết đến nhiều nhất trong tất cả các truyền thống Đại thừa, và đôi khi cả Tiểu thừa, như trường hợp ở xứ Tích lan và Thái lan cũng có thờ Ngài.
(Xem: 8782)
Philippe Cornu là một học giả uyên bác, thông thạo tiếng Tây Tạng, tiếng Phạn, tiếng Pali, tiếng Hán… Ông viết bảo, dịch thuật rất nhiều kinh sách, và thường được mời thuyết giảng về Phật giáo trên đài truyền hình Pháp.
(Xem: 8243)
Lý tưởng Bồ tátảnh hưởng lớn trên đời sống, tư tưởng và hành động của người Phật tử trong suốt hơn hai ngàn năm nay...
(Xem: 8951)
Đề tài của buổi giảng hôm nay là nhằm giới thiệu bức tranh ‘Địa Ngục Biến Tướng Đồ’, còn có tên là ‘Thập Vương Đồ’, do lão sư Giang Dật Tử vẽ tại Đài Trung, hiện nay đang được triển lãm tại Kinh Đô, Nhật Bản.
(Xem: 11035)
Phật giáo luôn nhắc nhở con người nên tin ở mình, tinh tấn tu hành để tự giải thoát. Thật chưa có tôn giáo nào xác nhận tinh tấnđộng lực chính giúp con người vươn đến cõi toàn thiện...
(Xem: 9177)
Tác phẩm Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo Giác Ngộ của Ngulchu Gyalsas Thogmed Zangpo là một trong những luận bản phổ biến nhất của Phật Giáo Tây Tạng...
(Xem: 8948)
Đức Phật đã dạy: “Chính sự khao khát là điều dẫn đến sự tái sinh. Đây chính là lần sinh thành cuối cùng của ta. Nay sẽ không bao giờ có sự tái sinh đối với ta”.
(Xem: 8004)
Đây là thắc mắc mà thanh niên Subha Todeyyaputta từng nêu ra cho Đức Phật với hy vọng tìm kiếm câu trả lời từ Ngài.
(Xem: 9137)
Mọi phương pháp dạy cho con người tránh né khổ đau hay trốn chạy khổ đau để tìm kiếm hạnh phúc đều không phải là những phương pháp giáo dục hoàn chỉnh.
(Xem: 35703)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 8605)
Việt Nam Đạo Phật vốn là một tôn giáo gắn bó với dân tộc, có nhiều ảnh hưởng sâu đậm đến lịch sử phát triển của đất nước, nhất là về mặt văn hóa giáo dục.
(Xem: 15166)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 8740)
Thiền định là một phương pháp hành thiền có nguồn gốc từ đạo Phật được phát triển vững mạnh trong 3 thập niên qua ở Mỹ và nhiều nước khác.
(Xem: 15353)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 9210)
Đại Tạng Kinh là một kho báu chung của mọi người Phật tử, nhưng do nhu cầu học Phật ở mỗi quốc gia mà có sự hình thành các Đại Tạng Kinh bằng những ngôn ngữ khác nhau.
(Xem: 8881)
Tâm Phật rỗng rang, không chất chứa gì cả. Tâm chúng sinh là một kho chứa khổng lồ chất đầy gánh nặng vui buồn, sướng khổ, hận thù, oan khiên nghiệt ngã của quá khứ.
(Xem: 9404)
Gót tu sĩ bốn phương trời rảo bước, Cõi Ta-bà đâu chẳng phải nhà ta, Một mình đi bình bát với cà sa, Đói xin ăn, dưới gốc cây nằm ngủ…
(Xem: 8516)
Hơn ba mươi năm, tôi làm ở hội Từ Tế. Bởi vì, tôi thường làm việc cứu trợ trong và ngoài nước, cho nên tôi cảm nhận được thiên tai, nhân họa liên tục ập xuống trái đất.
(Xem: 10353)
Báo Chánh Pháp số 34, tháng 9 năm 2014, do ĐLHT. Thích Thắng Hoan (CA) và Brodard Chateau, Brodard Restaurant & Bamboo Bistro ủng hộ ấn phí.
(Xem: 7707)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler
(Xem: 9595)
Những chướng duyên có thể giúp hành giả trên đường giải thoát. Ý niệm này, thường tìm thấy trong kinh Phật, dạy cách đánh giá cao những chướng duyên mà chúng ta gặp phải, vì nhờ chúng nên trí tuệtừ bi mới được nảy sinh.
(Xem: 7560)
Chất lượng của tâm niệm thiện lành sẽ tăng rất nhiều khi xưng danh tha thiết; vì thế, từ trạng thái nhớ nghĩ chuyển qua thực hành xưng danh niệm Phật là điều tất yếu.
(Xem: 17295)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15081)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 9555)
Kính thưa thầy, con có một thắc mắc về chơn tâmbản tánh. Sao gọi là chơn tâm? Sao gọi là bản tánh? Vậy giữa chơn tâmbản tánh giống nhau hay khác nhau?
(Xem: 20937)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 9252)
Mãi đến tận giờ, có lẽ ít người ngờ rằng Hòa thượng Thích Minh Châu ngoài phong cách một học giả có văn phong cổ kính, nghiêm túc và khô khan nhất trong làng Phật giáo Việt Nam, còn là một ngòi bút tân kỳ và thơ mộng đáng bậc thầy của không riêng Phật giáo.
(Xem: 7204)
Nếu chúng ta phân tích kinh nghiệm của chúng ta một cách cẩn thận, thế thì tôi nghĩ thật rõ ràng rằng hầu hết những quấy nhiễu tinh thần đến từ những tình trạng tinh thần tiêu cựcchúng ta gọi là phiền não.
(Xem: 17772)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17703)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 25894)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 7861)
Những người được gọi là "siêu việt" là những kẻ chân thành muốn làm tan biến tất cả khổ não của người khác bằng việc thấu hiểu nổi khổ đau của chính họ.
(Xem: 9954)
Cái không của A-hàm là xem trọng con đường giải thoát để tu trì. Cái không của Bộ phái dần dần có khuynh hướng bình luận, phân tích về ý nghĩa của pháp.
(Xem: 7303)
Tất cả mọi giáo huấn của Đức Phật đều hướng đến việc đem tới sự thực chứng nguyện vọng tức thời của chúng ta...
(Xem: 9691)
Chết là sự chấm dứt tạm thời của một hiện tượng tạm thời. Chết không phải là đoạn diệt hẳn, chết tại chỗ này nhưng lại sanh chỗ khác.
(Xem: 8174)
Thật là đại hạnh cho chúng tôi, nếu đức Thế Tôn cho phép nữ giới được sống đời xuất gia phạm hạnh thiêng liêng trong pháp và luật của đức Thế Tôn!
(Xem: 9140)
Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm...
(Xem: 7449)
Nếu bằng "cùng một nơi" chúng ta muốn nói thiên đàng[1] hay giải thoát khỏi vòng luân hồi, thế thì đấy là khó khăn...
(Xem: 8825)
Thực hành giáo lý không phải chỉ là đến chùa đọc kinh hay niệm Phật mà chính là áp dụng giáo lý của đức Phật trong đời sống hàng ngày...
(Xem: 7956)
Đức Phật nói lý nhân duyên là nói đến sự thật của đời sống con người và muôn loài vật trên thế gian này.
(Xem: 8391)
Sự hình thành các hệ tư tưởng của Phật giáo Bộ phái không ngoài mục đích đáp ứng nhu cầu thực tế của Phật giáo đương thời, xã hội hoá Phật giáo.
(Xem: 7571)
Suốt 49 năm giáo hóa độ sinh, Phật chỉ có ba y một bình bát, sống đời rày đây mai đó, tùy bệnh cho thuốc, giúp đỡ mọi người.
(Xem: 8772)
Chúng sinh trong cõi luân hồi vô thủy vô chung ấy đến rồi đi, đi rồi đến giống như hạt bụi nhỏ, phút chốc bỗng sinh trên trời, bỗng chốc sinh trên mặt đất...
(Xem: 8200)
“Ba cõi duy chỉ là tâm, muôn pháp duy chỉ là thức” là một chân lý, một sự thật được nói nhiều trong tông Duy thức, và rộng ra, có trong tất cả kinh, luận.
(Xem: 8927)
Dựa theo thuyết Thiên mệnh của Khổng Tử thì thiên mệnh là mạng lịnh của Trời. Thiên mệnh là chủ thuyết rất quan trọng trong triết lý của đạo Nho.
(Xem: 7331)
"Sau khi tôi nhập diệt, giới luật sẽ thay tôi để làm thầy của quí vị, ở đâu có giới luật thì ở đó có tôi..."
(Xem: 14053)
Tập hợp các bài viết của nhiều tác giả cùng 1 chủ đề: Tứ Diệu Đế, Bốn Chân Lý cao cả
(Xem: 7154)
... nghành Tâm lý học sẽ không bao giờ có thể giúp con người thấy đúng và rõ sự thật của tâm lý mình và tâm lý người khác.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant