Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Danh Hiệu Đại Sĩ Avalokiteśvara Trong Tịnh Độ Giáo

22 Tháng Mười Một 201705:55(Xem: 7067)
Danh Hiệu Đại Sĩ Avalokiteśvara Trong Tịnh Độ Giáo
DANH HIỆU ĐẠI SĨ AVALOKITEŚVARA TRONG TỊNH ĐỘ GIÁO[1]

Phước Nguyên

Danh Hiệu Đại Sĩ Avalokiteśvara Trong Tịnh Độ Giáo


Trong các nước thuộc truyền thống Phật giáo Bắc truyền, có một vị Bồ-tát thường được gọi là Quan Âm hay Quán Âm. Vị Bồ-tát biểu tượng cho thể tính đại bi hay tình yêu phổ quát, được sùng bái rất thịnh hành trong các giới Phật tử. Vậy nguồn gốc danh hiệu, yếu chỉ tu tậphành đạo, cùng các đặc điểm hành nguyện của vị Bồ-tát này như thế nào?

Trước khi trình bày về yếu chỉ hay cương lĩnh tu tậphành đạo của Bồ-tát Avalokiteśvara, cần giải thích một số ý nghĩa về mục từ: Quán Tự Tại, Quán Thế Âm, Phổ Môn và một số từ ngữ khác.


Tiết 1
. Danh hiệu Quán Tự Tại

1.Từ nguyênnhận định

Chữ Quán Thế Âm, hay Quán Tự Tại, tiếng Sanskrit Avalokiteśvara, Avalokitasvara, Tây Tạng dịch là Spyan-ras gzigs dban-phyug.

Phân tích ngữ học của từ Avalokiteśvara (danh từ, số ít):

Avalok: phân từ quá khứ, thể thụ động, có nghĩa là ‘để xem xét’, do Ava tiếp đầu ngữ: bên dưới, xung quanh;

Lokita, phân từ quá khứ của động từ căn √lok: quán sát, nhìn ngắm, v.v.. dùng ở thì hiện tại, dạng bất quy tắc của ngữ pháp Sanskrit; ita viết riêng là tiếp vĩ ngữ.

Avalokita: là động từ chuyển thành danh từ có nghĩa là người nhìn xuống.

Īśvara: danh từ, giống cái, số ít, biến cách 1. Chủ thuộc, có nghĩa là Chúa tể, bậc Thầy.

Nên nghĩa đen của Avalokiteśvara là vị chúa tể về sự nhìn xuống và xung quanh, ý nói bậc Thầy về sự quán sát toàn diện.

Sự giải thích về ngữ nguyên của danh hiệu này có rất nhiều ý kiến khác nhau, chúng tathể tham khảo một vài nhận định:

 G.P. Malalasekera trong Encyclopedia of Buddhism, giải thích: “bậc tối caochúng ta có thể nhìn thấy được, sự hiện thể, hay có khả năng trông thấy ở bất kì nơi nào”[2].

  Mircea Eliade trong The Encyclopedia of Religion: “Avalokitésvara là từ Sanskrit phức hợp, thiết lập từ thành tố ‘avalokitā và ‘īsvara’, có nghĩa là đấng tối cao trông chờ nhìn thấy, hay vị chúa tể đang quán sát, đang nhìn ngắm.”[3]

  Har Dayal trong The Bodhisattva Doctrine in Buddhist Sanskrit Literature giải thích: “Avalokitésvara nghĩa là “vị chúa tể có cái nhìn bi mẫn”, “đấng chúa tể của người đã khuất và đang khuất”, “vị chúa tể được nhìn thấy từ một điểm cao hơn”, hay “vị chúa tể nhìn xuống từ đỉnh cao”, “vị chúa tể đang nhìn ngắm”[4] v.v... Ông nói tiếp: “Người ta có thể loại suy rằng người Trung quốc biết đến dạng avalokitasvara mà về sau biến dạng thành avalokiteśvara, là do có sự lẫn lộn giữa hai từ lokesvaraavalokitasvara[5]

 Kenneth K.S. Ch’en trong Buddhism in China, giải thích: “Avalokitésvara, hình thành từ ‘avalo’, phân từ quá khứ, thể thụ động: được thấy, ‘īsvara’: vị chúa tể; Avalokitésvara: vị chúa tể có cái nhìn yêu thương, vị chúa tể nhân loại trong thấy,[6] v.v..”

  Sir Charles Eliot trong Hinduism and Buddhism giải thích: “Avalokita là một dạng khác của avalokitésvara, ám chỉ ‘vị chúa tể nhìn xuống’. Hoặc cũng gọi là Lokitésvara: ‘vị chúa tể của thế gian’”[7].

  Thomas Edward J. trong History of Buddhist Thought trình bày: “Avalokita là một trong hai danh hiệu của Avalokiteśvara, thiết lập từ động từ avalokayati: nhìn ngắm hay quán sát... Dạng ‘avalokita-svara’ được dùng bởi một số dịch giả Trung quốc, nhưng thật ra, trong tiếng Sanskrit nó không hề có một ý nghĩa nào cả và cả đến trong tiếng Trung quốc cũng vậy”[8].

 Lokesh Chandra trong Thousand-Armed Avalokitesvara: “Chữ ‘avalokita’ đã xuất hiện trong tác phẩm Bodhicaryāvatāraḥ của Śāntideva,... Từ avalokita chính là phát xuất từ avalokitesvara, xuất hiện lần đầu tiên trong bản kinh Sanskrit Sukhāvatīvyūha. Avalokitesvara bị ảnh hưởng tín ngưỡng śiva hay īsvara vào thời hậu kì và căn cứ trên quan điểm của N.D. Mironov[9] thì danh hiệu sớm nhất đọc bằng tiếng Sanskrit phải là avalokita-svara”.

Theo ý kiến của chúng tôi, những nhận địnhgiải thích của các học giả dẫn ở trên chỉ nên tham khảo, vì nó có tính cách mơ hồ, vấn đề này sẽ được bàn thảo chi tiết ở một chương khảo luận khác, vì nó không phải là mục tiêu nghiên cứu của chương này.

II. Phiên dịchgiải thích trong Hán tạng

Trong Đại Tạng Kinh chữ Hán, có thể tìm thấy rất nhiều phiên âm khác nhau của từ Avalokiteśvara, đại khái như:

A bà lô kiết đế thước bát ra 阿婆盧羯帝爍鉢囉,

A bà lô cát đế thất phật ra 阿 婆盧吉帝室佛囉,

A bà lô kiết đế thước bàn ra 阿婆盧羯帝爍皤囉,

A bà lô cát đế xá bà la 阿婆 盧吉帝舍婆羅,

A phược lô chỉ đế thấp phạt ra 阿縳盧枳坁濕伐囉,

A phược lô chỉ đế y thấp phạt la 阿縳盧枳坁伊濕伐羅,

A phược lô chỉ đa y thấp phiệt la 阿縳盧枳多伊濕筏羅,

A phạ lô chỉ đế thấp phạt la 阿嚩盧枳帝濕伐羅,

A phạ lô chỉ đế thấp phạ ra 阿嚩盧枳帝濕嚩囉,

Bô lô kiết đế nhiếp phạt la 逋盧羯底攝伐羅,

Ái lâu hoàn 廅樓亘 v.v…  

Tạm thời, căn cứ trên từ Avalokiteśvara, đa phần các học giả hiện đại đều chấp nhận rằng nó được phiên dịch sang rất nhiều từ Hán khác nhau, như:

 Quang Thế Âm 光世音 (Trúc Pháp Hộ dịch, Chánh Pháp Hoa Kinh 10, phẩm 23)[10].

  Quán Tự Tại 觀自在 (Huyền Tráng dịch, Bát-nhã Ba-la-mật-đa tâm kinh)[11].

 Quán Thế Âm 觀世音 (Cưu-ma La-thập dịch, Diệu pháp liên hoa kinh, phẩm 25)[12].

 Quán Thế Tự Tại 觀世自在 (Bồ-đề lưu chi dịch, Thâm mật giải thoát kinh, phẩm 10)[13].

 Quán Thế Âm Tự Tại 觀世音自在 (Bất Không dịch, Đại từ đại bi cứu khổ Quán Thế Âm Tự Tại vương Bồ-tát quảng đại viên mãn vô ngại tự tại thanh cảnh đại bi tâm đà la ni )[14].

 Khuy Âm 闚音 (Chi Khiêm dịch, Phật thuyết vô lượng môn vi mật trì kinh)[15]

 Hiện Âm Thanh 現音聲 v.v..

Về nguyên ngữ, trong các thủ bản Sanskrit hiện còn đều phổ thông viết là Avalokiteśvara. Theo giải thích của Huyền Tráng trong Tây vực ký 3[16]:

阿縛盧枳低濕伐羅菩薩像. 唐言觀自在. 合字連聲,梵語如上;分文散音,即阿縛盧枳多譯曰觀,伊濕伐羅譯曰自在. 舊譯為光世音,或云觀世音,或觀世自在,皆訛謬也.

"Hình tượng A-phược-lô-chỉ-đế-thập-phạt-la Bồ-tát, Đường dịch là Quán Tự Tại. Do dính chữ liền âm nên tiếng Phạn nói thế. Nếu tách rời âm thì A-phược-lô-chỉ-đa (Avalokita) dịch là Quán; Y-thấp-phạt-la (Īśvara) dịch là Tự Tại. Cựu dịchQuang Thế Âm, Quán Thế Âm hay Quán Thế Tự Tại đều là sai cả".

Để tránh giải thích lầm lẫn, cần phân biệt hai chữ Sanskrit khác nhau mà Hán đều dịch là Tự Tại自在, đó là vaśitā (tự chủ, tự do, thoải mái) và īśvara (vị chúa tể, bậc Thầy lão luyện).

Điều đáng lưu ý ở đây là trong các sớ giải Hán tạng, thường không quan đến đến nguyên gốc Sanskrit của từ Quán Tự Tại là gì, dẫn đến xuất hiện một số giải thích về chữ Quán Tự Tại có nghĩa là quán sát tự do tự tại, quán chiếu một cách tự chủ thoải mái. Đó là giải thích theo cách chiết tự chữ Hán, chứ không phải theo ý nghĩa và cấu trúc ngữ pháp Sanskrit, bởi vì chữ īśvara nó là danh từ ở biến cách thứ nhất, nên phải được hiểu là: Đấng Chúa Tể hay Bậc Thầy lão luyện (về sự quán sát), chứ không thể hiểu như động từ hay hay tĩnh từ chỉ sự tự do thoải mái. So sánh với bản kinh Pháp hoa Tây Tạng, cũng thấy dịch là Spyan ras gzigs kyi dbang phyug: chúa tể của sự nhìn ngắm.

Chữ īśvara, Huyền Tráng dịch là “Tự Tại” không hàm nghĩa tự chủ hay tư do, mà nó có sự liên hệ với cách dịch của chữ Đại Tự Tại ThiênMaheśvara. Chữ īśvara từ trong Vệ-đà và văn cổ Sanskrit, được quan niệm là đấng có quyền năng, quyền lực, tức chỉ cho một hữu thể tối thượng, một linh hồn tối cao tồn tại như là một tự ngã (ātman). Về sau này, Maheśvara được giải thích là đấng chúa tể của thế giới.

Vì vậy, chữ Īśvara trong Avalokiteśvara hay chữ Tự Tại trong Quán Tự Tại cũng có nghĩa là chúa tể, nhưng không hàm nghĩa Đấng ngự trị thế giới như Đại Tự Tại Thiên, mà là chúa tể về sự chiêm nghiệm những phiền não của tự thân để diệt trừquán sát những nỗi khổ niềm đau của chúng sinh để đồng hành và đưa họ vượt qua giai đoạn hiểm nghèo của cuộc đời, thực hành như vậy gọi là đấng viên mãn Bồ-đề hành và Bồ-đề nguyện, thành tựu Chánh trí Bồ-đề tâm, như thế được mệnh danh là Chúa tể của sự quán sát.

Tiết 2. Danh hiệu Quán Thế Âm

blankTrong Đại đường Tây vực kí, Ngài Huyền Tráng căn cứ trên gốc Sanskrit Avalokiteśvara, để phủ định cách dịch Avalokiteśvara thành chữ Quán Thế Âm điều này là hoàn toàn có lý. Nhưng để nói chữ Quán Thế Âm là một chữ ngụy tạo, hay không có nguồn từ Sanskrit thì cách nói này không chính xác.

Theo như báo cáo Mironov's readings from Central Asian mss của Nalinakṣa Dutt[17], thì tả bản cổ Quán Thế Âm Bồ-tát phổ môn phẩm phát kiến ở Tân cương ghi là Avalokitasvara. Từ này có thể dịch sát là Quán Âm, nghĩa là âm thanh (svara) được quán sát.

Nhưng trong bản dịch Pháp hoa của Cưu-ma-la-thập, danh hiệu này được dịch là Quán Thế Âm. Có thể đó là dịch ý từ đoạn văn sau đây trong phẩm Phổ môn, bản dịch của La Thập:

"若有無量百千萬億眾生受諸苦惱. 聞是觀世音菩薩. 一心稱 名. 觀世音菩薩即時觀其音聲皆得解脫".[18]

 “Nếu có vô lượng trăm nghìn các chúng sinh chịu đựng các thứ khổ não, khi nghe đến Quán Thế Âm Bồ-tát này, nhứt tâm xưng danh, Quán Thế Âm bồ tát tức thì quán âm thanh ấy mà đều được giải thoát.”[19]

Đoạn này, trong bản Sanskrit kinh Saddharmapuṇḍarīka hiện còn, đọc như sau:

yāvanti sattvakoṭīnayutaśatasahasrāṇi yāni duḥkhāni pratyuanubhavanti, tāni sacedavalokiteśvarasya bodhisattvasya mahāsattvasya nāmadheyaṃ śṛṇuyuḥ, te sarve tasmādduḥkhaskandhād parimucyeran[20].

“Nếu có hàng trăm nghìn, hàng trăm triệu, hàng trăm tỉ chúng sinh chịu đựng các thứ khổ não, nếu chúng sinh nghe được danh hiệu của bồ tát Avalokiteśvara, tất cả chúng sinh do đó được giải thoát khỏi khối lớn đau khổ”.

So sánh hai bản Sanskrit và Hán trên, chúng ta thấy trong bản Sanskrit không có từ nào ám chỉ nào về sự "Quán sát âm thanh của thế gian", rõ ràng như bản Hán của La-thập.

Các giải thích Trung quốc, tiêu biểu như Pháp hoa văn cú 10, Pháp hoa nghĩa sớ 12 (Cát Tạng), Hoa nghiêm thám huyền ký 19, Pháp hoa huyền tán 10 (phần cuối) đều căn cứ trên quan điểm truyền thừa bởi La-thập. Tựu trung các sớ giải Pháp Hoa Hán tạng, thường giải thích Quán Thế Âmhai nghĩa:

- Đối với dụng công tu tập: Trong sáu giác quan, Ngài dùng thính giác để tu tập, lắng nghe tất cả âm thanh của thế gian, nhưng không khởi lên cấu trúc sai lầm (hư vọng phân biệt), không bị âm thanh của thế gian làm tháo động, lại còn có năng lực lắng nghe thể tính cá biệt của chính mình, thuật ngữ chuyên môn gọi là: “phản văn, văn tự tánh”, thành tựu nhĩ căn viên thông, vì vậy, gọi là Quán Thế Âm.

- Đối với tùy duyên hóa độ: Đại sĩ vì đã thể chứng phẩm tính Đại bi, nên đối với hết thảy chúng sanh ngài trải tình yêu phổ quát đến họ. Bất cứ ai, trong cơn khổ đau, chết chóc nguy khốn mà nhất tâm tôn kính hoặc hành trì danh hiệu của Ngài, thì ngài sẽ làm nơi nương tựa cho các chúng sinh ấy như vầng nhật nguyệt phá tan hắc ám, ngài luôn trụ nơi bản nguyện đại bi, tùy thuận duyên sinh-nghiệp quả, để cứu thoát chúng sinh trong đêm dài sinh tử, nên gọi là Quán Thế Âm.

Vậy thì, chỉ danh hiệu Quán Thế Âm cũng biểu hiện rõ ràng hành vinguyện lực của ngài.


Tiết 3. Quang Thế Âm,
 Khuy Âm, Hiện Âm Thanh

Về nguồn gốc cách dịch là Quang Thế Âm 光世音 của ngài Trúc Pháp Hộ trong kinh Chánh pháp hoa 10:

此族姓子,若有眾生,遭億百千姟困厄患難苦毒無量,適聞光世音菩薩名者,輒得解脫無有眾惱,故名光世音. 若有持名執在心懷,設遇大火然其山野,燒百草木叢林屋宅,身墮火中,得聞光世音名

“Này người con trai dòng tộc cao quý! Hàng trăm ngàn vạn ức chúng sinh chịu vô lượng khốn khổ, ách nạn, tai họa, khó khăn, nguy hiểm mà lại nghe được danh hiệu của đức Quang Thế Âm Bồ-tát, liền được giải thoát khỏi không còn khổ não cho nên gọi là Quang Thế Âm.”[21]

Danh hiệu Quang Thế Âm trong đoạn cho kinh trên cho thấy nguyên văn tiếng Sanskrit của danh hiệu này ở đây được đọc là Abhālokasvara hoặc Abhālokitasvara, hoặc Abhālokiteśvara, trong đó từ đồng ngữ ava: dưới thấp, chung quanh được gọi là abhā: ánh sáng.

Những dịch nghĩa khác như Khuy âm: Âm thanh được liếc nhìn đến và Hiện âm thanh: âm thanh được thấy, đều cho thấy rõ ràng nguyên tiếng Sanskrit là Avalokitasvara.

Khi kinh Thủ lăng nghiêm giới thiệu công hạnh tu chứng của ngài do tu tập nhĩ căn viên thông, chứng tỏ danh hiệu của ngài được còn được đọc là Avalokitasvara thay vì Avalokiteśvara[22].


Tiết
4. Thí vô úy giả

Bồ-tát Quán Tự Tại, còn được tôn xưng là vị ban cho sự an ninh, không sợ hãi, là nơi trú ẩn an ổn. Chữ Hán Thí vô úy giả 施無畏者 là dịch ngữ của từ Sanskrit Abhayadada hay Abhayadāna. Tây Tạng gọi là Mi hjigs sbyin. Hán phiên âm là A bà diễn đà đà 阿婆演駄駄, A ba diên đà noa 阿波延陀拏, A bội diên na na 阿佩延娜娜.

Danh hiệu này được tìm thấy trong kinh Saddharmapuṇḍarīka, phẩm 24. Samantamukha chép:

eṣa kulaputra avalokiteśvaro bodhisattvo mahāsattvo bhītānāṃ sattvānāmabhayaṃ dadāti | anena kāraṇena abhayaṃdada iti saṃjñāyate iha sahāyāṃ lokadhātau.[23]

Này người con trai của gia đình hiền thiện, vị Bồ-tát Đại Sĩ Avalokiteśvara ấy ban sự an ninh đến cho các chúng sinh đang lo lắng, do đó trong thế giới Sa-ha này, vị ấy được gọi là Đấng ban cho an ninh.

Kinh Diệu pháp liên hoa 7, phẩm 25. Phổ môn, bản dịch chữ Hán của La Thập:

是觀世音菩薩摩訶薩. 於怖畏急難之中能施無畏. 是故此娑婆世界. 皆號之為施無畏者[24].

Trong nỗi kinh hoàng, trong cơn nguy cấp, trong sự hoạn nạn, Quan Âm đại sĩ có thể cho người sự không sợ hãi, nên thế giới hệ Kham nhẫn này ai cũng tôn xưng là Người cho sự không sợ[25].

Chữ abhayaṃ: không chỉ là vô úy 無畏: không sợ hãi theo như Hán dịch, mà còn có nghĩa là sự an ninh, sự an ổn, nơi trú ẩn. Ban cho sự không sợ hãian ninh, không chỉ về thể chất mà còn cả tinh thần, giúp họ vượt qua những rủi ro nguy khốn, vì lẽ “Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo tác…”, có như thế mới xứng đáng được gọi bậc đã tác thành phẩm chất Abhayadada.

Vì vậy, ngài được tôn xưng là “Thí vô úy giả” là từ nơi bản nguyện độ sinhthiết lập danh hiệu, từ nơi phẩm tính mà thành tựu danh xưng.  

 



[1] Chương 1 này trích từ tác phẩm Đại sĩ Avalokiteśvara vị toàn diện và các biến thể, Phước Nguyên.

[2] G.P. Malalasekera, Encyclopaedia of Buddhism (1961). [Colombo]: Government of Ceylon, vol. ii, p.407. DOI: 10.1017/S0041977X00064107.

[3] Mircea Eliade, The Encyclopedia of Religion (1987). New York: Macmillan; London: Collier Macmillan, vol. ii, tr.11ff.

[4] Har Dayal, The Bodhisattva Doctrine in Buddhist Sanskrit Literature. (1932). London: Kegan Paul, Trench, Trübner & Co., Ltd., p. 47. DOI: 10.1017/S0035869X00154061.

[5] Ibib., tr. 48.

[6] Kenneth K.S.Ch’en, Buddhism in China (1964), Princeton University Press, New Jersey, USA, tr.346.

[7] Sir Charles Eliot, Hinduism and Buddhism: an historical sketch (1971), Vol. ii, Routledge & Kegan Paul, LTD, London, p.13.

[8] Thomas Edward J., History of Buddhist Thought (1934), London: Kegan Paul, Trench, Trübner and Co., p. 189, DOI: https://doi.org/10.1017/S0041977X00138509.

[9] Xem tiết 2. Danh hiệu Quán Thế Âm, bên dưới.

[10] T09n0263, tr. 0128c27.

[11] T08n0251, tr. 0848c07

[12] T09n0262, tr. 0056c04

[13] T16n0675, tr. 0680a19.

[14] T20n1113B, tr. 0498c07.

[15] T19n1011, tr. 0680b13.

[16] T51n2087, tr. 0883b22ff.

[17] Nalinakṣa Dutt, Saddharmapundarikasutram, N.D. Mironov's readings from Central Asian mss (1953), tr. 286.

[18] T09n0262, tr. 0056c05.

[19] Trưởng lão Trí quang dịch: “Đức Thế Tôn dạy bồ tát Vô tận Ý, thiện nam tử, vô số chúng sinh bị mọi sự đau khổ, nghe nói đến Quan Âm đại sĩ mà một lòng trì niệm danh hiệu của ngài, thì đại sĩ tức khắc nghe thấy âm thanh ấy và họ được thoát cả.”  trích Pháp hoa tập 2 (1994), tr. 898-899.

[20] Saddhp, tr. 250.

[21] T09n0263, tr. 0128c24

[22] Cf. T19n0945, 0128b15 ff.

[23] Saddh., tr. 252.

[24] T09n0262, tr. 0057b22.

[25] Trưởng lão Trí quang dịch, Pháp hoa tập 2 (1994), Xí nghiệp in Gia định, tr. 908.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32219)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 30430)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 30696)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 21037)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20216)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19448)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24402)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30705)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15701)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
(Xem: 27819)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 19783)
Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt...
(Xem: 15584)
Qua tinh thần kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá...
(Xem: 23273)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23594)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 17548)
Năm uẩn của chúng ta -- thân thể, cảm giác, nhận thức, thúc đẩy, thức: chúng là đất sét mà chúng ta nhào nặn và tạo hình qua sự thực tập thành một vị bồ tát...
(Xem: 15709)
Giải thoát sanh tử không phải là hiện đời không chết, không phải là sống mãi ở vị lai, mà là những khổ sanh tửvị lai không còn sanh khởi nữa...
(Xem: 21923)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 38050)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 22213)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 23275)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 21372)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 28434)
Mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để đoạn trừ, hay tối thiểu làm giảm bớt những khổ đau của con người, đưa con người đến một đời sống an lạchạnh phúc...
(Xem: 32589)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 25216)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34713)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 22978)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27747)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 31335)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13620)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
(Xem: 25226)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27861)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 22129)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 20763)
Trước khi vào nội dung đề tài lần này thì có một nghi vấn đã được đặt ra như sau: "Mục tiêu của đạo Phật vốn là để giải thoát hành giảchúng sinh khỏi đau khổ luân hồi...
(Xem: 22231)
Đạo Phật đã hình thành và phát triển hơn 2500 năm, cho đến nay, tôn giáo này đã đang được sự chú ý nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học.
(Xem: 27174)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 24172)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 21942)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 14727)
Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại...
(Xem: 23192)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 24044)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 21155)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 14220)
Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia.
(Xem: 19954)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 22531)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 14090)
Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra...
(Xem: 28071)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 22859)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 28230)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 11009)
Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý.
(Xem: 28528)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 31598)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 26222)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 14989)
"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm.
(Xem: 28054)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
(Xem: 7456)
Phật GiáoTâm Lý Học Hiện Đại do ban biên tập của Bồ Đề Học Xã biên soạn, là một tài liệu giá trị cho những ai muốn tìm hiểu sự khác và giống giữa Phật PhápTâm lý Học Trị Liệu Tây phương.
(Xem: 25392)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 20718)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 21147)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
(Xem: 12272)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
(Xem: 11931)
Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant