Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sơ Khảo Về Mẫu Tự Phạn Ngữ Và Từ Biện Tài Trong Kinh Điển Hán Tạng

19 Tháng Giêng 201804:32(Xem: 6616)
Sơ Khảo Về Mẫu Tự Phạn Ngữ Và Từ Biện Tài Trong Kinh Điển Hán Tạng

Sơ Khảo Về Mẫu Tự Phạn Ngữ Và Từ Biện Tài Trong Kinh Điển Hán Tạng

Chúc Phú

Sơ Khảo Về Mẫu Tự Phạn Ngữ Và Từ Biện Tài Trong Kinh Điển Hán Tạng

Như Lai
có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào [1]



Ngôn ngữphương tiện giao tiếp cơ bản giữa người với người. Nhờ ngôn ngữ mà các giá trị liên quan đến đời sống của con người được kế thừa, giữ gìn và phát triển. Một trong những ngôn ngữ có mặt rất sớm trong lịch sử loài người đó chính là Phạn ngữ.

Trong lịch sử, đã từng có suy nghĩ cho rằng Phạn ngữ là một ngôn ngữ chết, tử ngữ. Thế nhưng, trong vài năm gần đây, Phạn ngữ đang được phục hoạt tại một số khu vực thuộc nam Ấn Độ[2], và trong cả một số trường đại học trên thế giới, cũng như được nhiều nhà chuyên khảo nghiên cứu, quan tâm.

Từ thực tế có những dòng phái Phật giáo xem mẫu tự Phạn ngữ như những biểu tượng cát tường, thiêng liêng; từ hiện trạng một số cơ sở tự viện sử dụng mẫu tự Phạn ngữ như một hình thức phù chú trang trí, mà thực tế không hiểu rõ thực nghĩa của chúng là gì; từ suy nghĩ, vì lý do gì mà những cơ sở Phạn ngữ xuất hiện khá nhiều trong thư tịch Hán tạng… đã làm động lực để chúng tôi nghiên cứu về đề tài: Sơ khảo về mẫu tự Phạn ngữ và từ biện tài trong kinh điển Hán tạng.

1.    Mẫu tự Phạn ngữ trong thư tịch Hán tạng.

Trong thư tịch Hán tạng, cơ sở của Phạn ngữ xuất hiện khá nhiều trong các bộ kinh như Đại bát nhã[3], Đại bảo tích[4], Hoa nghiêm[5], Phương quảng đại trang nghiêm[6], Văn thù sư-lợi vấn[7], luận Đại trí độ[8], Tất-đàm tự ký[9]

Theo các bản kinh, luận và thư tịch vừa nêu, số lượng mẫu tự Phạn ngữ không thống nhất, có bản nêu 42[10], 47[11], 49[12], 50[13] hoặc 52 mẫu tự[14]; khác với 48 mẫu tự (akṣara)[15]  Sanskrit thời nay[16]. Trong sự đang dạng đó, kinh Hoa Nghiêm và luận Đại-trí-độ thống nhất cho rằng có 42 mẫu tự căn bản. Theo luận Đại-trí-độ, bốn mươi hai chữ này là căn bản của tất cả các chữ (四十二字是一切字根本)[17]. Khởi đầu của 42 mẫu tự là A (अ= 阿) và mẫu tự cuối cùng là Ha (ह= 荷)[18].

Bốn mươi hai mẫu tự này được xây dựng thành tài liệu học tập ở bậc tiểu học thời cổ, gọi là Tất-đàm-chương (悉談章, đôi lúc được viết  悉曇章, hoặc Tất-địa-la-tốt-đỗ: 悉地羅窣覩). Theo tác phẩm Nam hải ký quy nội pháp truyện, bài học vỡ lòng đầu tiên của trẻ con khi lên sáu tuổi chính là Tất-đàm-chương (siddhavastu: सिद्धवस्तु)[19] và có thể hoàn thành sau sáu tháng học tập[20]. Kinh Đại pháp cự Đà-la-ni, quyển thứ sáu, do pháp sư Xà-na-quật-da dịch vào năm 592[21], đời nhà Tùy cũng ghi nhận điều tương tự.

Theo luận Đại trí độ, nhờ chữ mà có từ, nhờ từ mới thành câu, nhờ câu mà có nghĩa[22]. Điều đó cho thấy các mẫu tự Phạn ngữ rất quan trọng trong nhiều lãnh vực, kể cả việc vận dụng mẫu tự làm ví dụ trong khi thuyết phápTuy nhiên, việc gắn kết một ý nghĩa biểu trưng cho những mẫu tự này là một điều kỳ đặc, nếu không nói là sự pha trộn giữa ngôn ngữ học Ấn Độ cổ đại (ancient Indian linguistic) vào kinh điển Phật giáo.

Đơn cử như kinh Hoa Nghiêm ghi:

Khi đọc chữ a (阿), sẽ vào cửa bát nhã ma la mật, gọi là Bồ-tát uy đức các biệt cảnh giới; khi đọc chữ la (羅), sẽ vào cửa bát-nhã ba la mật, gọi là bình đẳng nhất vị tối thượng vô biên, khi đọc chữ ba (波), sẽ vào cửa bát-nhã ba-la-mật, gọi là pháp giớidị tướng[23].

Kinh Văn thù sư lợi vấn, ghi:

Khi đọc chữ a, là âm thanh của vô thường
Khi đọc chữ ā, là âm thanh của xa lìa ngã
Khi đọc i, là âm thanh của các căn quảng bác
Khi đọc ī, là âm thanh của thế gian não hại[24].

Việc sùng phụng mẫu tự Phạn ngữ đôi khi được chú trọng quá mức, như cho rằng, bốn mươi hai mẫu tự cùng với mười hai tự âm được phát sanh từ tâm của Đức Phật Tỳ-lô-giá-na[25].

Có thể do ảnh hưởng bởi quan điểm này mà ngài Phổ Am (1115-1169), đã trước thuật chú Phổ Am (普庵咒)[26], một bài thần chú có nguồn gốc từ các mẫu tự Phạn ngữ (釋談章呪)[27], được phối âm (saṃdhi) theo những cung bậc trầm bỗng cùng với các loại đàn, sáo (被諸絃管)[28], như một khúc nhạc cổ cầm.

Chú Phổ Am được bảo lưu trong Chư kinh nhật tụng tập yếu, tập 19, thuộc tạng Gia-hưng[29], và hiện còn được sử dụngPhật giáo Trung Quốc và trong một vài khoa nghi của Phật giáo Bắc truyền Việt Nam ngày nay.

Có thể nói, vì nhiều lý do khác nhau mà các mẫu tự Phạn ngữ có mặt trong thư tịch Hán tạng. Xét về phương diện lịch sử, đây là những tư liệu quan trọng góp phần bổ sung trong việc việc nghiên cứu về ngành ngôn ngữ học cổ đại. Tuy nhiên, việc quá đề cao vai trò của mẫu tự Phạn ngữ cũng như các âm tiết của chúng, xem đó như là biểu tượng linh thiêng, là điều không phù hợp. Vì lẽ, đây là hệ quả của sự pha tạp của những quan điểm sùng phụng ngôn ngữâm thanh phi Phật giáo. Điều này sẽ rõ ràng hơn khi nghiên cứu một vài quan điểm của Phật giáo đối với ngôn ngữ nói chung và Phạn ngữ nói riêng.

2. Quan điển của Đức Phật đối với Phạn ngữ Vệ-đà.

Tư liệu luật tạng trong Phật giáo Nam truyền và cả Bắc truyền đều ghi nhận rằng, có vị tỳ-kheo trước khi xuất gia là bậc thâm học giáo điển Vệ-đà và am tường các quy ước Phạn ngữ. Nhận thấy các tỳ-kheo đồng học không rành về các quy ước đặc thù của ngôn ngữ, ông đã chê trách rằng:

Các vị đại đức. Mặc dù các ông xuất gia đã lâu, nhưng với ngôn ngữ thì không phân biệt được giống đực (pum-liṅga), giống cái (strī- liṅga), thế nào là đơn âm thế nào là đa âm, các thì hiện tại, quá khứ cũng như vị lai; âm dài, âm ngắn, âm khinh, âm trọng. Các ông cần phải cân nhắc những điều này khi tụng đọc kinh Phật[30].

Sau khi chê trách, vị tỳ-kheo này đến cầu thỉnh Đức Phật chấp thuận yêu cầu của ông ta. Phật liền dạy:

Ta cho phép đọc tụng kinh điển tùy theo quốc âm của mỗi nước, miễn làm sao không trái với bổn ý của Phật. Ta không cho phép biên soạn lời Phật theo văn pháp ngoại giáo, nếu phạm, phạm tội thâu-lan-giá[31].

Trong luật Thập tụng, Đức Phật đã quy định điều này rõ ràng hơn:

Từ nay, nếu ai dùng chữ nghĩaâm thanh của ngoại giáotụng kinh Phật, thì phạm tội Đột-kiết-la.[32]

Từ lời dạy của Đức Phật cho thấy, những quy ước về ngôn ngữ mà ở đây là Phạn ngữ Vệ-đà (Vedic Sanskrit) chỉ có giá trị tương đối, không thể là khuôn mẫu tối ưu để triển khai lời Phật dạy. Qua lời dạy này cho thấy, việc đề cao các mẫu tự Phạn ngữ linh thiêng vì chúng do Phạm thiên sáng tạo ra[33], là quan điểm không thuần túy Phật giáo.

Đọc lại lời dạy của Đức Phật trong kinh Na-tiên (Milindapañhā) cho thấy, ngôn ngữ, mà ở đây là cái tên chỉ là phương tiện để gọi, là tổng hòa các yếu tố khác mà thành. Vì, cái tên ấy chỉ để mà phân biệt giữa người này và người kia, thế thôi[34].

Tương tự, theo kinh Tiểu Bộ, một thanh niên tên là pāpaka (Ác nhân), sau khi xuất gia vẫn giữ nguyên tên gọi. Mỗi khi có việc, các tỳ-kheo cứ kêu to Ác nhân, ác nhân làm cho tỳ-kheo ấy phiền não vô cùng nên cầu thỉnh thầy y chỉ ban cho tên khác. Thân giáo sư đã dạy rằng:

Này Hiền giả, cái tên chỉ để gọi thôi, không có nghĩa thành tựu mục đích (āvuso namaṁ nāma paṇṇattimattaṁ[35]). Hãy tự bằng lòng với cái tên mình[36].

Trở lại với vấn đề mẫu tự, theo Đức Phật, việc đọc tụng các dạng thức chú thuật, dù đó là bảng chữ cái Phạn ngữ hay các chú của Atharvaveda[37] không có ý nghĩa thiết thực. Kinh Tương Ưng (S.i,165) ghi:

Dầu lẩm bẩm nhiều chú,
Nhưng không vì thọ sanh,
Được gọi Bà-la-môn,
Nội ô nhiễm bất tịnh,
Y cứ trên lừa đảo,
Bà-la-môn, Phệ-xá,
Thủ-đà, Chiên-đà-la,
Kẻ đổ phẩn, đổ rác,
Tinh cầntinh tấn,
Thường dõng mãnh tấn tu,
Đạt được tịnh tối thắng,
Bà-la-môn nên biết![38]

Với ngôn ngữ nói chung, Đức Phật chỉ xem đó là một phương tiện dùng để truyền đạt chân lý giải thoát, không nên thần thánh hóa nó, sùng bái nó và sử dụng như một thần chú. Xét về phương diện là một phương tiện dùng để truyền đạt chân lý, Đức Phật đã có những tán thán nhất định đối với những ai có khả năng này.

3.    Thành tựu ngôn ngữ biện tài, là am tường đa ngôn ngữ.

Trong công trình nghiên cứu Lịch sử Phật giáo Ấn Độ, giáo sư Étienne Lamotte (1903-1983) đã khái quát năng lực ngôn ngữ của Đức Phật qua câu văn sau:

Như Lai có thể diễn tả những gì Ngài muốn bằng bất kỳ ngôn ngữ nào.[39]

Cơ sở của khái quát này dựa trên phẩm tính của của một vị Phật. Một vị Phật hoàn hảo luôn đầy đủ bốn món trí vô ngại mà một trong số chúng chính là khả năng siêu xuất về ngôn ngữ, gọi là từ vô ngại biện tài.

Theo kinh Tăng-nhất-A-hàm, từ vô ngại biện tài được định nghĩa:

Sao gọi là từ biện? Tùy nơi mỗi chúng sanh mà nói âm dài hay âm ngắn, giống nam hay giống nữ,  lời Phật hay lời Phạm-chí, thiên long hay quỷ thần và ngay cả A-tu-la, Ca-lưu-la, Chân-đà-la tùy theo đó mà nói cho họ. Tùy theo căn nguyên của mỗi giống loài mà nói lời phù hợp. Đó gọi là từ biện[40].

Theo luận Đại trí độ, từ vô ngại biện tài còn được gọi là từ vô ngại trí. Luận ghi:

Có khả năng dùng ngôn từ trang nghiêm để phân biệt, khiến người lĩnh hội, thông đạt không ngưng trệ, gọi là từ vô ngại trí.[41]

Năng lực quán thông nhiều thể loại ngôn ngữ của Đức Phật là một sự thật lịch sử. Vì lẽ, nhìn lại con đường hoằng pháp của Đức Phật, khảo về các đối tượng nghe pháp của đức Thế Tôn, nghiên cứu về các quốc gia, lãnh thổ mà Ngài đã đặt chân đến; chúng ta có thể phần nào hình dung khả năng ngôn ngữ ưu việt của Ngài. Nói cách khác, Đức Phật am tường đa ngôn ngữ. Ngài không những giao tiếp với mọi giai tầng nhân loại hay chư Thiên, mà kinh văn còn ghi nhận rất nhiều trường hợp Đức Phật thể hiện khả năng thông đạt với các loài muông thú[42], súc sanh[43]tùy cơ nhiếp hóa.

Từ vấn đề này đã góp phần làm sáng tỏ thêm luận điểm: Phật dùng một âm để thuyết pháp (佛以一音說法)[44]. Một âm ở đây là ngôn ngữ của chính đối tượng đó. Bộ Ngữ tông (Ch.2.10, Vehārakathā) cũng cho rằng, khi trao đổi với phàm phu, Ngài dùng phàm tuệ, khi nói với các vị thánh đệ tử, Ngài dùng Thánh tuệ. Vấn đề này góp phần bổ chính mối băn khoăn của nhiều nhà nghiên cứu Phật học, khi cứ đinh ninh cho rằng Đức Phật chỉ nói tiếng Magadhi hay một phương ngôn cố định nào đó.

Có thể nói, trong quá trình truyền dạy chánh pháp, hành giả quán thông các thể tài ngôn ngữ của loài người là một lợi thế lớn, vì có thể đem đến lợi lạc cho nhiều người và nhiều đời. Theo kinh Tăng-nhất-A-hàm, tôn giả Ma-ha-Câu-hy-la được xem là người có khả năng này và đã được Đức Phật tán thán:

Ta xem trong chúng đây, được bốn biện tài không có ai hơn được ông Câu-hy-la. Như Lai cũng có bốn biện tài này. Này cácTỳ-kheo, hãy tìm cầu phương tiện thành tựu bốn biện tài này.[45]

Muốn cầu tuệ xuất thế, cần phải kiện toàn tuệ thế gian. Văn tự, chữ nghĩa là học pháp, kết tinh trí tuệ của thế gian, cũng cần phải am tường để thuận duyên khi bước vào thánh đạo.

Nhận định

Cửa ngõ để vào đạo khởi đầu từ việc nghe. Muốn nghe kinh pháp thì phải am tường ngôn ngữ. Kể từ khi Phật diệt độ, kinh điển được lưu truyền qua nhiều phương ngữ khác nhau. Việc am tường nhiều thể loại phương ngôn chứa đựng lời Phật dạyđiều kiện quan yếu để lĩnh hội Thánh giáo.

Mặc dù có những phương ngôn vốn có mối liên hệ thâm thiết với Đức Phậtgiáo pháp của Ngài, nhưng không vì vậy mà sùng trọng quá mức, xem đó như những biểu tượng cát tường hay là linh tự, thiêng liêng.

Với Đức Phật, ngôn từ chỉ là phương tiện giúp người học đạo. Việc thần thánh hóa chữ nghĩa, hoặc dùng âm thanh, tiết điệu đề cầu Ngài, là điều chưa thuận hợp với Phật đạo. Nói cách khác, lạm dụng phương tiện thanh, sắc thì rất khó gặp được Như Lai[46].
Chúc Phú



[1] Lamotte, Étienne.  History of Indian Buddhism. Paris: Institut Orientaliste Louvain-La-Neuve, 1988, p. 551. Cf: The Tathagata can express everything he wishes in any language whatever.

[2] Phạn ngữ hiện đang được sử dụng như một sinh ngữ lại làng Mattur, quận Shimoga, bang Karnataka, nam Ấn Độ. Bản tin từ hãng thông tấn BBC ngày 22.12. 2014. Xem tại, http://www.bbc.com/news/world-asia-india-30446917

[3]大正藏第 05 冊 No. 0220 大般若波羅蜜多經(第1卷-第200卷), 卷第五十三

[4] 大正藏第 11 冊 No. 0310 大寶積經, 卷第六十八

[5]大正藏第 09 冊 No. 0278 大方廣佛華嚴經, 卷第五十七

[6]大正藏第 03 冊 No. 0187 方廣大莊嚴經, 卷第四

[7]大正藏第 14 冊 No. 0469 文殊問經字母品第十四

[8]大正藏第 25 冊 No. 1509 大智度論, 卷第二十八

[9]大正藏第 54 冊 No. 2132 悉曇字記

[10]大正藏第 09 冊 No. 0278 大方廣佛華嚴經, 卷第五十七

[11] 大正藏第 51 冊 No. 2087 大唐西域記, 卷第二. Nguyên văn: 詳其文字,梵天所製,原始垂則,四十七言也

[12]大正藏第 54 冊 No. 2125 南海寄歸內法傳, 卷第四. Nguyên văn: 本有四十九字

[13] 大正藏第 54 冊 No. 2128 一切經音義, 卷第十一. Nguyên văn: 阿字為初(阿字取上聲梵字也毘盧遮那經云阿字門一切法本不生義能生一切世間文字偈云阿字第一句明法普周遍字輪以圍遶彼尊無有相以此義故所以得居眾字之首次第向下更有四十九字總名一切文字之母即梵字根本五十字也

[14] 大正藏第 21 冊 No. 1340 大法炬陀羅尼經, 卷第六. Nguyên văn: 譬如童幼初受教時. 彼師先授摩帝迦字.次授頞字. 後授阿字. 如是次第教十四音已復次第教三十四字.具教如是五十二字已. Xem thêm, 大正藏第 54 冊 No. 2131 翻譯名義集, 五. Nguyên văn: 方由三十六字母而生諸字. 澤州云. 梵章中. 有十二章.其悉曇章以為第一. 於中合五十二字.

[15] Williams, Monier. A Sanskrit English Dictionary. Springfield, VA: Nataraj Books, 2014, p.3

[16] Lê Tự Hỷ, Tự học tiếng Phạn, tập 1, NXB. Tổng hợp TP.HCM, 2012, tr. 18

[17]大正藏第 25 冊 No. 1509 大智度論, 卷第四十八

[18] Nguyên văn: 阿字為先、荷字為後. Xem tại: 大正藏第 11 冊 No. 0310 大寶積經,卷第四

[19] Williams, Monier. A Sanskrit English Dictionary. Springfield, VA: Nataraj Books, 2014, p.1215

[20]大正藏第 54 冊 No. 2125 南海寄歸內法傳, 卷第四. Nguyên văn:六歲童子學之,六月方了

[21]大正藏第 55 冊 No. 2154 開元釋教錄, 卷第七. Nguyên văn: 大法炬陀羅尼經二十卷(開皇十二年四月出十四年六月訖沙門道邃[*]等筆受見長房錄)

[22]大正藏第 25 冊 No. 1509 大智度論, 卷第四十八. Nguyên văn: 因字有語, 因語有名, 因名有義.

[23]大正藏第 09 冊 No. 0278 大方廣佛華嚴經, 卷第五十七

[24]大正藏第 14 冊 No. 0469 文殊問經字母品第十四

[25]大正藏第 54 冊 No. 2128 一切經音義, 卷第一. Nguyên văn: 至如四十二字母及十二字音.從毘盧遮那佛心生.

[26]嘉興藏第 19 冊 No. B044 諸經日誦集要, 卷中, 普庵祖師神咒

[27]卍新續藏第 79 冊 No. 1562 南宋元明禪林僧寶傳, 卷四, 慈化普菴肅禪師

[28]卍新續藏第 84 冊 No. 1579 續指月錄, 卷一, 袁州慈化普庵印肅禪師.

[29] 嘉興藏第 19 冊 No. B044 諸經日誦集要, 卷中, 普庵祖師神咒

[30]大正藏第 22 冊 No. 1421 彌沙塞部和醯五分律, 卷第二十六. Nguyên văn: 諸大德!久出家,而不知男,女語,一語,多語,現在,過去,未來語,長,短音,輕,重音,乃作如此誦讀佛經

[31]大正藏第 22 冊 No. 1421 彌沙塞部和醯五分律, 卷第二十六. Nguyên văn: 聽隨國音讀誦,但不得違失佛意! 不聽以佛語, 作外書語, 犯者偷蘭遮. Cùng đề cập sự kiện này, Cullavagga ghi: Này các tỳ khưu, không nên hoán chuyển lời dạy của chư Phật sang dạng có niêm luật; vị nào hoán chuyển thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, ta cho phép học tập lời dạy của đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā). Xem, Tiểu Phẩm, bản dịch tiếng Việt của tỳ-kheo Indacanda.

[32]大正藏第 23 冊 No. 1435 十誦律, 卷第三十八. Nguyên văn: 從今以外書音聲誦佛經者,突吉羅

[33]大正藏第 50 冊 No. 2053 大唐大慈恩寺三藏法師傳, 卷第三. Nguyên văn: 每於劫初,梵王先說傳授天人, 以是梵王所說, 故曰梵書

[34] Kinh Mi tiên vấn đáp, HT. Giới Nghiêm, dịch, NXB. Tôn giáo, 2003, tr.105.

[35] V. Fausboll. The Jātaka together with its commentary being tales of the anterior births of Gotama Buddha. Vol 1. London: Messrs.Luzac and Company Ltd., 1962. p.402

[36] Kinh Tiểu Bộ, tập 3, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr. 377.

[37] Kinh Tiểu Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr. 521. Nguyên văn: Chớ có dùng bùa chú./ A-thar-va Vệ-đà./ Chớ tổ chức đoán mộng./ Coi tướng và xem sao. Mong rằng đệ tử Ta./ Không đoán tiếng thú kêu./ Không chữa bệnh không sanh./ Không hành nghề lang băm.

[38] Kinh Tương Ưng Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr.256-257

[39] Lamotte, Étienne.  History of Indian Buddhism. Paris: Institut Orientaliste Louvain-La-Neuve, 1988, p. 551. Cf: The Tathagata can express everything he wishes in any language whatever.

[40]大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第二十一.  Nguyên văn: 彼云何名為辭辯? 若前眾生, 長短之語, 男語, 女語, 佛語, 梵志, 天, 龍, 鬼神之語, 阿須倫, 迦留羅甄陀羅彼之所說, 隨彼根原與其說法, 是謂名為辭辯.

[41]大正藏第 25 冊 No. 1509 大智度論, 卷第二十五. Nguyên văn: 當以言辭分別莊嚴, 能令人解, 通達無滯, 是名辭無礙智

[42] Mahāvagga, chương Kosambī, Đức Thế Tôn và con long tượng ở Pārileyyaka, tỳ kheo Indacnada, dịch.

[43]大正藏第 01 冊 No. 0026 中阿含經,卷第四十四, 鸚鵡經第九

[44]大正藏第 04 冊 No. 0203 雜寶藏經, 卷第八, 五百白鴈聽法生天緣.

[45]大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第二十一.  Nguyên văn: 如我今日觀諸眾中, 得四辯才, 無有出拘絺羅. 若此四辯, 如來之所有, 是故, 當求方便, 成四辯才.  Kinh Tăng Chi cũng ghi nhận: Trong các đệ tử Tỷ-kheo của Ta, thuyết giảng rộng rãi những điều được nói lên một cách vắn tắt, tối thắng là Mahàkaccàna. Xem, Kinh Tăng Chi Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2015, tr. 58.

[46] Nguồn gốc của quan điềm này được được tìm thấy trong câu kinh: Này Vakkali, ai thấy Pháp, người ấy thấy Ta. Ai thấy Ta, người ấy thấy Pháp. Xem, Kinh Tương Ưng Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2013, tr.744. Các tư liệu Hán tạng liên quan như bài kệNếu thấy thân Như Lai./ Hoặc dùng âm thanh thỉnh./ Phương cách ấy lầm lạc./ Kẻ ấy không thấy Phật, trong kinh Phật thuyết ly cấu thí nữ: 其有見我色, 若以音聲聽,斯為愚邪見,此人不見佛. Xem tại: 大正藏第 12 冊 No. 0338 佛說離垢施女經. Hoặc tương tự bài kệkinh Kim Cang: Nếu lấy sắc tìm Ta./ Dùng thanh để cầu Ta./ Kẻ ấy hành tà đạo./ Không thế thấy Như Lai. Xem, 大正藏第 08 冊 No. 0235 金剛般若波羅蜜經. Nguyên văn: 若以色見我,以音聲求我,是人行邪道,不能見如來.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14242)
Phật giáo là “chân lý thực tại”, mà cốt lõi chính là đạo đứcgiới luật làm nền tảng. Khi Phật còn tại thế, ngài chế giới là để ngăn ngừa sự bại hoại của tăng đoàn.
(Xem: 13283)
Chân Như vừa huân tậphai mặt ‘bên trong’ và ‘bên ngoài’. ‘Bên trong’ là huân tập trong tâm hành giả. ‘Bên ngoài’ là huân tập từ bên ngoài, tức là từ chư Phật, Bồ-tát...
(Xem: 14241)
Rõ ràng, trong các mối quan hệ của con người thiết lập, thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng trong đời sống thăng tiến tri thứcchuyển hóa tâm linh...
(Xem: 15589)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13280)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19439)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24691)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15796)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37883)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13507)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13134)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17211)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13234)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17436)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21732)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13286)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14456)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12908)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13714)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28685)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23464)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34480)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28924)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32239)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11346)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 12048)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26354)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17437)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14557)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34605)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13158)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12303)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13443)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40577)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 27010)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14509)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13301)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13499)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12592)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13209)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12345)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11828)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12612)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17689)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12255)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12800)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18475)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14327)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 13029)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11347)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12221)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13527)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10897)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11133)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10343)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28983)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25366)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26914)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25836)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18733)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant