Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cuộc Đời Có Thật Sự Khổ Đau Hay Không?

22 Tháng Năm 201915:16(Xem: 3581)
Cuộc Đời Có Thật Sự Khổ Đau Hay Không?

CUỘC ĐỜI CÓ THẬT SỰ KHỔ ĐAU HAY KHÔNG?

Thích Đạt Ma Phổ Giác

Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người. Nguyên nhân của sự đau khổ do bản thân mình gây ra hay tác động bởi hoàn cảnh xã hội, nhưng khổ đau có nguồn gốc từ sự tưởng tượng của con người.

Người đã thật sự giác ngộ chỉ khổ thân chứ không khổ tâm. Bởi vì thân và tâm có mối tương quan mật thiết với nhau, do đó những nỗi khổ ở thân sẽ tác động đến nỗi khổ ở tâm nếu chúng ta không biết tu. Như thân đau nhức thì tâm trạng cảm thấy khó chịu, bực bội, dễ sinh ra nóng giận và hờn mát. Khi tâm chúng ta buồn phiền, lo lắng quá mức thì cơ thể uể oải, mệt mỏi, ăn không ngon, ngủ không yên.

Thông thường người ta hay dùng từ “khổ đau” để chỉ chung cho nỗi khổ niềm đau qua thân vật chấttinh thần. Tuy nhiên chúng ta có thể biết rõ đau nhức là những gì khó chịu nơi thân và nỗi khổ tâm là ray rức, bực bội, tức tối và buồn phiền.

Người ta vẫn thường hay nói nghèo là khổ, chứ ít ai nói giàu khổ cả. Thực ra người nghèo có nỗi khổ của người nghèo, mà người giàu cũng có nỗi khổ của người giàu. Người nghèo vì không chấp nhận cái nghèo, oán ghét cái nghèo, muốn giàu mà không được cho nên họ khổ. Người giàu muốn giàu thêm do lòng tham lam, nhưng khi giàu có rồi lo sợ đủ thứ, sợ mất mát, sợ hao hụt, sợ trộm cắp, sợ bị phá sản, sợ người khác lợi dụng nên khổ. So ra, người giàu có nhiều nỗi khổ hơn vì phải tìm cách gìn giữ và phát triển thêm.

Nhiều người so đo rằng sao tôi cực khổ quá vậy, họ gộp chung cực với khổ trở lại thành một. Trong khi bản thân của sự cực nhọc chưa chắc đã là khổ. Chỉ vì ta phân biệt tính toán quá nhiều, rồi ta kháng cự lại nó, ta muốn mình không phải vất vả nhiều nhưng vẫn có đầy đủ mọi thứ như những người giàu có, nên ta khổ.

Có những người làm công tác cứu hộ, họ biết lao vào lửa dữ, chui xuống lòng đất hay đi ngang qua lằn tên mũi đạn sẽ rất nguy hiểm đến tính mạng, nhưng vì trách nhiệm, vì tình thương mà họ không hề xem đó là nỗi khổ niềm đau chỉ mong làm sao cứu người. Và điều mà ta thường than thở với nhau nhiều nhất đó là đau khổ, hễ đau là phải khổ, như là một sự thật không thể thay đổi được từ xưa cho đến nay.

Cho nên thay vì than van “khổ quá” thì chúng ta hãy nên tìm ra nguyên nhân vì sao chúng ta đau khổ. Chúng ta đừng bao giờ quên rằng ta không phải là một cá thể tồn tại biệt lập, mà ta phải luôn chịu sự tác động tương quan của chung quanh, từ bạn bè, gia đình đến xã hội và cả thế giới với muôn loài vật.

Đối với những mất mát quá lớn tất nhiên ta phải cần có thời gian mới chấp nhận và điều hòa trở lại bình thường được. Có nhiều người hay than vãn trời mưa cũng khổ, nắng quá lại than nóng khó chịu, kẹt xe cũng khổ, bị lỗi hẹn cũng khổ, thức ăn không vừa miệng cũng khổ, được nhiều người thương cũng khổ… Chúng ta hay đổ thừa hoàn cảnh. Không ai có thể làm cho ta khổ được nếu ta biết được nguyên nhân của nó bằng hiểu biết đúng đắn.

Ngoài ra, chúng ta hãy nên thường xuyên luyện tập cho mình cách đối mặt với khó khăn, không trốn tránh cuộc sống và cũng đừng quá cầu mong sự an toàn, để rèn luyện sức kham nhẫn của ta. Những đứa trẻ lớn lên trong môi trường được gia đình, người thân bảo bọc quá đầy đủ, muốn gì được nấy, sẽ dễ dàng vấp ngã trước biến động của cuộc đời.

Đúng, khổ đau là một thực tại không ai có thể chối cãi được, nhưng tính chất của nó vốn không cố định. Suy cho cùng, ta cần phải biết ơn khổ đau. Bởi khổ đau vừa giúp ta ý thức được cái gì là hạnh phúc, vừa giúp khả năng chịu đựng trong ta lớn mạnh để ta có thể phát huy hết khả năng sẳn có nơi chính mình.

Nếu chúng ta không bị lạc đường trong đêm tối vô minh, ta sẽ khó biết mình sợ hãi đến mức nào, nếu không bị người khác xúc phạm ta sẽ khó biết mình nóng giận nhiều ai ít. Thông qua những chướng duyên nghịch cảnh của sự sống, ta mới thấy rõ những nỗi khổ niềm đau đã tìm ẩn sẵn bên ta bởi do cố chấp thân tâm này làm ngã.

Có rất nhiều loại nỗi khổ niềm đau, nhưng chúng xuất hiệntồn tại lâu hay mau là do sự tham áichấp ngã mà ra. Càng chấp ngã nặng nề thì càng tham áibám víu vào đó mà có nhiều nỗi khổ niềm đau. Nhất là những người có nhan sắc xinh đẹp, dễ thương họ sẽ luyến ái bám chấp vào vẻ đẹp của thân thể, chính vì thế họ sẽ đau khổ gấp nhiều lần so với người bình thường.

Ai tham lam luyến ái nhiều thì sẽ rất sợ chết, họ lo lắng sợ hãi mỗi khi bị bệnh tật hoặc tai nạn. Người Phật tử chân chính thấm nhuần lời Phật dạy hiểu rõ thân tâmhoàn cảnh mọi thứ đều duyên sinh, vô ngã, vô thường, không gì bền chắc và lâu dài, nên vui vẻ không tiếc nuối khi mình lâm trọng bệnh hoặc lúc sắp từ giã cõi đời.   

Nỗi khổ niềm đau cũng dễ bị khuếch đại, làm gia tăng thêm bởi do sự “tưởng tượng quá mức” của con người. Tưởng tượng nhớ lại hình dung về những gì mình đã thấy nghe. Như một người bệnh không đến nỗi nào, nhưng vì sợ chết nên ngày đêm lo sợ, khiến cho người đó ăn không ngon, ngủ không yên, tinh thần mệt mỏi, bệnh tật càng trở nên trầm trọng hơn. Tất cả đều do sự “tưởng tượng” của con người mà ra.

Nỗi khổ do thiếu thốn về vật chất, hoặc sự vất vả nhọc nhằn thì ít, mà nỗi khổ niềm đau càng lớn là do tâm so sánh phân biệt, bởi nhận thức sai lầm, do chấp ngã thân tâm này là thật, do tưởng tượng như vậy ta càng thêm khổ não, bất an.          

Chúng ta sống ở hoàn cảnh nào thì phải nương theo hoàn cảnh đó, người muốn ít biết đủ không tham cầu quá đáng sẽ chẳng phải lo sợ gì cả. Khi ta có xe đạp thì đi xe đạp, có xe máy thì đi xe máy, nếu không có xe thì đi bộ, cũng chẳng sao.

Chúng ta hay tiếc nuối tưởng nhớ về quá khứ, chúng ta hay mong cầu mơ tưởng đến tương lai, mà không biết bằng lòng với những gì đã có trong hiện tại. Vì quá khứ đã đi qua, còn tương lai thì chưa đến vậy mà ta cứ tiếc nuối và hy vọng cho nên khổ. Sướng khổ nhiều hay ít là do tâm, tức là sự khổ về tinh thần.

a-Khổ khổ 

Nghĩa là khổ vì làm việc nhọc nhằn vất vả, khổ vì đói khát lạnh nóng, khổ vì bệnh tật, tai nạn, khổ vì chiến tranh, thiên tai, lũ lụt…. Đây là mức độ khổ thông thường mà ai cũng có thể cảm nhận được.

Khổ là chữ nói tắt, nói đầy đủ là chữ khổ đế, do dịch nghĩa chữ Dukkha mà ra. Nghĩa là khó chịu đựng, khó kham nhẫn. Nói rộng là những cái gì làm cho mình khó chịu, mình đau đớn như: ốm đau, đói khát, buồn rầu, lo lắng, sợ hãi v.v.. Đế là một sự thật vững chắc, đúng đắn

Khổ đế, là sự thật đúng đắn vững chắc, sự thật nầy nó rõ ràng, minh bạch không ai có thể chối cãi được. Sau đây, chúng ta hãy nghe đức Phật giải bày một cách tường tận, sâu sắc, tỉ mỉ về sự khổ đau của con người.

Theo lời Phật dạy sự khổ ở thế gian, thì vô cùng tận, có thể phân loại ra làm ba thứ khổ hay tám thứ khổ.

Cái khổ này chồng chất lên cái khổ kia, bản thân đã là đau khổ, mà hoàn cảnh chung quanh ta lại còn vô số các sự khổ khác cứ đè nặng trên đôi vai của con người gọi là "Khổ khổ". Đã là chúng sinh tức loài có tình thức, thì đương nhiên phải chịu nhiều khổ ải trong cuộc sống. Hơn nữa, cái thân ấy cũng không bền chắc lâu dài, mà trái lại rất mong manh, vì thở ra mà không thở vào coi như mạng sống đã chấm dứt. Chúng ta khát nước năm bảy ngày, ngạt thở độ năm phút, đứt một mạch máu, bị tai nạn bất đắc kỳ tử là chuyển sang đời khác.

Đã là chúng sinh tất nhiên còn nhiều cái khổ khác chất chồng lên chúng ta, không sao tránh khỏi được như: bệnh tật, đói khát, bão lụt, hỏa hoạn, chiến tranh, áp bức, sưu cao thuế nặng v.v... Chính vì thế nên gọi là "khổ khổ".

b-Hoại khổ

Tất cả mọi hiện tượng từ con người cho đến muôn loài vật trong bầu vũ vũ bao la này đều bị vô thường chi phối, con người thì sinh già bệnh chết không thể tồn tại mãi được cho nên khổ.

Con người dù có sức mạnh bao nhiêu, quyền thế địa vị cao cả, giàu có sang trọng thậm chí một số người luyện trường sanh bất tử nhưng cuối cùng rồi ai cũng phải chết.

c-Hành khổ

Nghĩa là khổ vì duyên sinh, tức trạng thái khổ ở kiếp này mà còn là nền tảng cho đau khổ trong kiếp sau. Cái khổ này nối tiếp nhau kéo từ đời này sang đời khác không có ngày thôi dứt bởi do con người ngu si, mê muội chấp thân tâm này làm ngã nên mới chiếm hữubám víu.

Về phương diện vật chất, ta bị ngoại cảnh, thời gian chi phối, biến hoại và hủy diệt còn về phương diện tinh thần, ta cũng không hề làm chủ bản thân, tự do tự tại được. Tâm tư ta thường bị vẫn đục bởi những dục vọng tham muốn thấp hèn dằn luôn lôi kéo và chi phối trong từng phút giây.

Tư tưởng ta luôn thay đổi biến chuyển hết nghĩ cái này đến suy tính cái kia nó cứ lăng xăng từ chuyện này sang chuyện khác, như khỉ vượn chuyền cành, không bao giờ dừng nghỉ.

Nếu xét sâu xa hơn nữa, ta thấy trong mỗi ý nghĩ, cử chỉ hành động của chúng ta. Ta giận, ta thương, ta ghét, ta muốn thứ này, ta thích thứ kia, phần nhiều do thói quen chấp trước cho rằng cái hay suy tư nghĩ tưởng là ta. Tóm lại, ta không được tự do, ta bị chi phối bởi những ý tưởng, dục vọng, và sự tham muốn quá đáng đó là "Hành khổ".

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 30883)
Tăng đoàn bắt đầu hoạt động rộng rãi và có ảnh hưởng kể từ khi Phật niết bàn... Thích Nữ Trí Nguyệt dịch
(Xem: 21951)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 8053)
Thiều Chửu và Đoàn Trung Còn đều không giải thích được lý do tại sao chữ VẠN quay theo chiều này thì cát tường, quay theo chiều ngược lại thì nguy hại... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 7732)
Một trong những nền tảng quan trọng của đạo đức Phật giáotuân theo tinh thần bất bạo động... Tác giả: Charles K. Fink; Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 8845)
Đức Phật đã thuyết giảng như thế nào về sự đau đớn? Ngài bảo rằng sự bất an của chúng ta gồm có hai thể dạng khác nhau... Ajahn Brahmavamso, Hoang Phong dịch
(Xem: 7145)
Không là một khái niệm xuất hiện khá sớm trong thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy, trải dài đến Phật giáo Đại thừa... Thích Nữ Nhuận Bình
(Xem: 9353)
Tác phẩm “Tuệ Sanh Định” là một trong số ít tác phẩm được viết bởi Bậc Thầy Maha Boowa (Bhikkhu Ñanasampanno)... Nhất Như dịch Việt
(Xem: 8791)
Nguyên tác tiếng Anh của Darwinism, Buddhism and Christanity được đăng trong tạp chí The Maha Bodhi, Sri Lanka, Tập 82 Dec 1974 Thích Nữ Liên Hòa dịch
(Xem: 10244)
Trong Kinh Duy-Ma-Cật, khi Phật bảo Ngài Duy-Ma-Cật thị hiện cõi nước Diệu-Hỷ có Vô-Động Như-Lai, các Bồ-Tát, và đại chúng nước ấy cho đại chúng xem... Toàn Không
(Xem: 8231)
Chân Nguyên kết luận: “Đức Phật Thích Ca đã tự chính mình đem thánh hiệu mà dạy cho hai người già, điều đó không còn có thể nghi ngờ gì nữa”... Thích Phước An
(Xem: 9554)
Một sự kết hợp thú vị giữa đạo đức chính trực, sự phục tùng, lòng khoan dung, cầu nguyện, khả năng tự lực, tự thanh lọc và tình yêu... Mai Thục
(Xem: 6974)
Mũi tên biểu trưng cho một sự đau đớn trên thân xác, nhưng cũng có thể là nguyên nhân gây ra một sự hoảng sợ trong tâm thần... Hoang Phong
(Xem: 8029)
Yết-ma, được phiên âm từ karmam[1] của tiếng Phạn. Hán dịch là “biện sự tác pháp”, được định nghĩa: “Vạn sự do tư thành biện cố”... Thích Minh Cảnh
(Xem: 8378)
Quảng bản kinh được Pháp Nguyệt dịch năm 732, rồi đến Bát NhãLợi Ngôn tái dịch năm 790. Cho đến Thi Hộ đời nhà Tống dịch lần chót là có tất cả 7 bản... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 8649)
Bồ tát hành đạo bắt đầu từ giữa lòng xã hội nên sự tiếp cận với mọi thống khổ nhân sinh là lẽ tất nhiên... Thích Tuệ Sỹ
(Xem: 8412)
Thiền sư Vĩnh Bình Đạo Nguyên, hoặc Đạo Nguyên Hy Huyền (1200-1253), là vị tổ sáng lập ra dòng Tào ĐộngNhật Bản... Ngọc Bảo dịch
(Xem: 8527)
Một cách vắn tắt, đó là vị trí của nữ giới trong Phật Giáo. Người phụ nữ xứng đáng có một chỗ đứng danh dự ngang hàng với nam giới... Piyadassi Mahathera; Dịch giả: Phạm Kim Khánh
(Xem: 11259)
Người vợ cần quán chiếu tâm mình thật cẩn thận trong một thời gian và từ đó đi đến quyết định đúng cho cuộc đời của mình... Mithra Wettimuny; Diệu Liên Lý Thu Linh chuyển ngữ
(Xem: 8571)
Đức Thế Tôn là người đầu tiên đòi quyền lợi cho giới nữ, đưa vị trí giới nữ ngang bằng nam giới... Thích Hạnh Bình
(Xem: 10701)
Hội Phật giáo Trung Quốc ước tính rằng hiện có khoảng 180,000 tăng niTrung Quốc... Nguyên tác: Tịnh Nhân; Thích Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 9474)
Ngài đã gọi dứt khoát, rõ ràng “tự phá thai mình” là một tội, phải chịu quả báo hết sức nặng nề và kéo dài... Chân Minh
(Xem: 9268)
Làm thế nào để những cha mẹ Phật tử có thể dạy tốt lời dạy của Phật giáo cho con em của họ?... Helmuth Kalr; Thích Minh Diệu
(Xem: 9577)
Rồi lần lượt không bao lâu, khi Ðức Phật đúng 80 tuổi đời, 45 tuổi đạo, Ngài cũng giã từ Tứ chúng để an hưởng quả vị Vô Dư Niết-bàn... Thích Thiện Minh
(Xem: 10350)
Con người không bao giờ ngưng tìm kiếm trong thiên nhiên để mong thâu thập được nhiều thứ hơn nữa nhằm chất đầy cái nhà kho mãi mãi thiếu thốn của mình... Tuệ Sỹ
(Xem: 16238)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19203)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 8695)
Long Thọ (Nagarjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán mà ngài còn được coi là vị Phật thứ hai sau đức Thế Tôn trong lịch sử phát triển Phật giáo.... Vũ Thế Ngọc
(Xem: 8039)
Như thế giải thoát cho vô số vô biên chúng sinh, nhưng thực ra không có chúng sinh nào được giải thoát... Vũ Thế Ngọc
(Xem: 24159)
Cúng dườngbố thí vốn cùng một nghĩa "cho". Cái gì của mình mà có thể đem ra "cho" người khác, thì gọi là "cho"... TT Thích Nhất Chân
(Xem: 9419)
Lịch Sử Văn Học Phật Giáo Tiếng Sanskrit (Literary History of Sanskrit Buddhism - Nguyên tác: J. K. Nariman; Thích Nhuận Châu dịch Việt
(Xem: 7650)
Yết-ma là phiên âm từ karman của tiếng Phạn. Hán dịch là «biện sự tác pháp», và thường được các luật sư Trung quốc giải thích rằng «Vạn sự do tư thành biện cố.»... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 10577)
Chúng ta có thể thấy được đức tính của những khóm tre cây trúc, của những dòng sông, của cây mai, của đất, của áng mây... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17739)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 6966)
Giáo dục Phật giáo – nền giáo dục minh triết, vốn ở cao, ở trên triết học... Minh Đức Triều Tâm Ảnh
(Xem: 8911)
Đọc công trình của Francois Jullien những độc giả "Tây giả" (Á và Âu) có thể thấy được rằng người bà con nghèo của triết học có những sở đắc... Nguyên Ngọc dịch
(Xem: 12397)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 7717)
Chúng ta thường nghĩ là mình đã hiểu nhưng thật ra có lẽ ta chưa hiểu rõ thế nào là quy y Tam Bảo... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 14634)
Tăng đoànhình ảnh của Đức Phật, mang trọng trách thừa Như Lai sứ, hành Như Lai sự... Thích Phước Sơn
(Xem: 8275)
Ðại Tạng Kinh là một công trình tập thành tâm huyết của bao nhiêu thế hệ Tổ Sư, cổ đức Ấn Ðộ, Trung Hoa, Nhật Bản, Cao Ly... Liên Hương kính ghi
(Xem: 7806)
Trong Phật giáo đại thừa nói rất rõ: Phiền não tức bồ đề, Niết bànsinh tử. Niết bànsinh tử là một cặp bài trùng, không có cái này thì không có cái kia...
(Xem: 8862)
Có thể nói “tâm” là cơ sở và động lực giải nghiệp, giải hạn khổ ách đối với con người trong mọi không giannăng lực chuyển nghiệp.
(Xem: 14833)
Tổ tiên ta đã Phật hóa gia đình, giáo dục con cháu phải biết chia sẻ hạnh phúc, ban rải tình thương đến mọi người, mọi loài... TT Thích Lệ Trang
(Xem: 9286)
"Khi cúng dường tứ sự đến cho một vị tỳ-khưu, hai vị tỳ-khưu, cận sự nam nữ đừng nghĩ đến cá nhân vị ấy mà cứ khởi tâm cúng dường Tăng..." Tâm Tịnh
(Xem: 12341)
Từ Trạch Pháp này rất quen thuộc trong Phật Giáo, nhưng đã có mấy người Phật tử chịu tìm hiểu tận tường... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 8512)
Theo Phật giáo, con người sinh ra từ vô thủy (thỉ) đến giờ đã trải qua vô lượng đời, và sẽ còn tiếp nối vô số đời nữa ở tương lai cho đến vô chung... Toàn Không
(Xem: 14527)
Hoa dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền-Trang; Việt dịch: HT Thích Trí-Quang; Anh dịch: Buddhist Text Translation Society
(Xem: 12507)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 8427)
Chúng tôi xin bàn về một số điểm liên hệ, nhất là làm rõ về niên đại Hán dịch của tác phẩm, từ đó chúng tôi xin ghi nhận một số từ ngữ, thuật ngữ Phật học đã được Hán dịch vào thời ấy... Đào Nguyên
(Xem: 10167)
Dù tâm mộ đạo, nhưng Phật tử còn theo nghi lễ xa xưa và kinh điển cổ ngữ, nên việc tu tập không còn phù hợp với nhu cầu của thời đại mới... Johan Galtung, Đỗ Kim Thêm
(Xem: 7770)
Trong việc quảng bá sự hiểu biết, vai trò của người Thầy thật hết sức cần thiết, thế nhưng người Thầy thì cũng phải có đầy đủ khả năng... Hoang Phong
(Xem: 16043)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý. ... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 8224)
Nói đến văn hóa tức là nói đến tổ chức đời sống của một dân tộc, trong đó bao gồm các mặt kinh tế, xã hội, luật lệ, văn chương, mỹ thuật, tôn giáo, v.v... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 8289)
Chân: chân thật, không hư vọng. Như: như thường, không biến đổi, không sai chạy. Chân Như tức là Phật Tánh, cái tánh chân thật, không biến đổi, như nhiên, không thiện, không ác, không sanh không diệt... Lâm Như Tạng
(Xem: 7877)
Thủy Giác: mới tỉnh giác. Cái bổn tánh của hết thảy chúng sanh sẳn có lòng thanh tịnh tự tánh, đủ cái đức vốn chiếu sáng tự thuở nay, đó kêu là Bổn Giác... Lâm Như Tạng
(Xem: 11197)
“Bản Giác : Tâm thể của chúng sinh tự tánh thanh tịnh, lìa mọi vọng tưởng, sáng tỏ vằng vặc, có đức giác tri. Đó chẳng phải do tu thành mà như thế, mà chính là tính đức tự nhiên bản hửu, nên gọi là Bản Giác... Lâm Như Tạng
(Xem: 9143)
Thượng tọa Thích Thuyền Ấn trình bày tại Viện Đại Học Vạn Hạnh vào ngày 9-4-1967. Sau đó, bài diễn thuyết này được in trong tập Diễn Đàn Vạn Hạnh, số 1, do Ban Tu thư Đại Học Vạn Hạnh ấn hành năm 1967.
(Xem: 9281)
Bản Chất Của Tâm Thức - Tác giả: His Holiness the Fourteenth Dalai Lama, Anh dịch: Alexander Berzin, Tuệ Uyển chuyển ngữ
(Xem: 8408)
Niết bàn, nirvana (S), nibbana (P), trong Sanskrit và Pali có nghĩa bóng là, một "thể trạng dập tắt". Hình ảnh của một ngọn lửa đã bị dập tắt qua việc không còn nhiên liệu nữa... Tác giả Alexander Berzin; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 7563)
Long Thọ nói, giáo pháp của Chư Phật y trên hai chân lý, tương đối hay thế tục đế, và tuyệt đối hay thắng nghĩa đế. Những ai không phân biệt được hai chân lý này, không thể hiểu thấu giáo pháp thâm sâu... Thích Tuệ Sỹ
(Xem: 8014)
Kinh Hoa nghiêm, nói một cách đơn giản, là bộ kinh nghiên cứu về Pháp giới và cách phát khởi trí tuệ để thể nhập Pháp giới. Trong Pháp giớilý sự vô ngạisự sự vô ngại... Hồng Dương
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant