Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

12. Phát huy tâm thức giác ngộ

04 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 8729)
12. Phát huy tâm thức giác ngộ


Đức Đạt Lai Lạt Ma
TU TU
Bản tiếng Anh:Practicing Wisdom - Nhà xuất bản Wisdom
Bản tiếng Pháp: Pratique de la Sagesse - Nhà xuất bản Presses du Châtelet
Bản dịch Việt ngữ: Hoang Phong - Nhà xuất bản Phương Đông TP. Hồ Chí Minh 2008

12
Phát huy tâm thức giác ngộ

Yêu thương kẻ khác là một sự lợi ích

 Tịch Thiên xác nhận rằng hạnh phúchân hoan thoát ra từ ý chí của ta mong muốn đem đến sự tốt đẹp cho tất cả những sinh linh có giác cảm khác, trong khi đó, những khó khăn, những thảm trạngtai họahậu quả của sự kiện ta chỉ biết lo nghĩ đến chính ta.Tịch Thiên tự hỏi tại sao ta lại phải đề cập đến việc ấy : chỉ cần nhìn vào những phẩm tính của Phật, Ngài ước mong đem đến những gì tốt đẹp cho tất cả chúng sinh và số phận của chúng ta, tức thể dạng thường ngày mà chúng ta đang gánh chịu ? Chúng ta sẽ dẽ dàng nhận thấy luận cứ ấy là đúng khi so sánh giữa thử thách của những con người bình thường với những đức tính giác²ngộ và trí tuệ của chư Phật, điều ấy còn giúp ta so sánh giữa những xứng đáng và lợi ích về lòng ước vọng thiết tha đem đến sự tốt lành cho những chúng sinh có giác cảm và những tệ hại và bất lợi của thái độ ích kỷ, chỉ biết hướng về sự tốt lành của chính ta. 

Tịch Thiên tự hỏi tại sao trong khi mà tất cả chúng sinh, cũng như chính ta, đều có cùng một ước vọng đạt được hạnh phúc và loại trừ khổ đau, ta lại chỉ biết tìm cách phục vụ cho quyền lợi của chính ta, làm tổn hại đến quyền lợi của kẻ khác – đến độ không còn biết nghĩ gì đến kẻ khác ? Câu hỏi này nêu lên một sự thật lớn lao.Cũng giống như chính ta, tất cả những chúng sinh khác đều mong mỏi được hạnh phúc và loại trừ khổ đau ; mỗi người trong chúng ta đều hiểu rằng tiếp theo sau những cảm nhận về hân hoanhạnh phúc là những gì bất toại nguyện sẽ xảy ra. Cũng như chính tôi đây, với tư cách là một cá nhân, nếu đương nhiên tôi có quyền thực hiện ước vọng đạt được hạnh phúc và loại trừ khổ đau, thì tất cả những chúng sinh khác cũng có cái quyền ấy. Công nhận sự công bằng cơ bản nàytrên đây là một điều thật hết sức quan trọng.

Vậy sự khác biệt giữa những kẻ khác và ta là gì ? Dù rằng tất cả kẻ khác thật vô cùng quan trọng và quý giá, nhưng ta chỉ biết nghĩ đến quyền lợi riêng cho một người. Mặc cho sự đau đớn của kẻ khác có dữ dội đến đâu đi nữa, ta chỉ quan tâm đến sự sự an vui của chính ta mà thôi. Thế mà, mỗi khi nói đến sự an vui của những sinh linh có giác cảm khác, ta có hiểu được chăng chữ khác chỉ định vô số chúng sinh. Dù cho sự đớn đau của môt chúng sinh khác đối với ta quá nhỏ nhoi đi nữa, nhưng những đớn đau của những chúng sinh khác khi cộng lại thì thật là vô biên. Vì thế, theo quan điểm dựa trên lượng chất, sự an vui của kẻ khác trở nên quan trọng hơn sự an vui của riêng ta rất nhiều.

Mặc dù ta chỉ nghĩ đến quyền lợi của chính ta, nhưng khi những kẻ khác được hài lònghạnh phúc, ta cũng được hửng lây. Trái lại, nếu những kẻ khác luôn luôn đang btrong tình trạng đớn đau triền miên, chính ta cũng sẽ rơi vào một số phận như thế. Thật hết sức rõ ràng quyền lợi của kẻ khác liên hệ chặt chẻ với quyền lợi của chính ta. Hơn nữa, ta đã thấy rõ qua kinh nghiệm cá nhân của ta, nếu ta càng bám níu vào « cái tôi » – tức càng chăm lo quyền lợi của riêng ta – thì những vấn đề tâm lý và xúc cảm của ta lại càng trở nên trầm trọng hơn.

Nhất định, quan tâm đến chính ta là một điều hết sức quan trọng. Nhưng muốn thực hiện điều đó phảỉ biết chọn môột thái độ thực tế hơn, có nghĩa là không nên xem quyền lợi của ta quan trọng quá đáng và hãy nghĩ đến sự an vui của kẻ khác nhiều hơn. Hãy tỏ ra thương người nhiều hơn và quan tâm đến sự an vui của kẻ khác thực rathái độ rất lành mạnh dù chỉ để thỏa mãn quyền lợi của riêng ta. Khi ta biết hành động như thế, ta sẽ nhận ra một sự thay đổi quan trọng trong ta, đó là một thứ cảm tính an bình. Ta sẽ không hành động một cách ngược ngạo xem những việc nhỏ mọn trở thành to lớn giống như cả sinh mạng ta liên hệ vào đấy, và cả danh thơm của ta, cả cá tính của ta và cả kiếp sống của ta cũng bị hăm dọa. Nếu ta chỉ biết thường xuyên nghĩ đến quyền lợi của riêng ta – và hoàn toàn quên đi sự an vui cũa kẻ khác – thì một biến cố nhỏ nhoi nhất cũng có thể gây cho ta những bấn loạn mãnh liệt hay những vết thương trong nội tâm của ta. Kinh nghiệm cá nhân chứng minh cho ta những điều đó.

Tóm lại, thái độ thương người đó thật lợi ích vừa cho kẻ khác lại vừa cho ta nữa. Đặt tâm thức ta dưới sự nô lệ của ích kỷ sẽ kéo dài vô tận những cảm tính bất toại nguyện, thiếu thốnbất hạnh mang tính cách nhất thời hay lâu dài. Ta phung phí cơ duyên tuyệt vời mà ta đang có – tức cơ duyên được làm thân con người, được thừa hưởng những khả năng tuyệt mỹ, như trí thông minh có thể giúp ta đặt được những mục tiêu cao cả nhất. Vì vậy thật hết sức quan trọng phải biết ước lượng những hậu quả do những hành vi của ta gây ra trong nhất thời và trong lâu dài. Có phương cách nào hơn để đem đến cho cuộc sống làm người của ta một ý nghĩa, nếu không phải đó là phương cách suy tư về bồ-đề tâm, tức ước vọng thương người mong đạt cho được giác ngộ vì sư an vui của tất cả những sinh linh có giác cảm ?

Làm phát sinh tâm thức giác ngộ

 Về phần riêng tôi, tôi không dám nghĩ rằng đã đạt được tâm thức giác ngộ – hay Bồ-đề tâm – dù tôi hết sức mến phục những điều đó, nhưng tôi cảm thấy cảm tính mến phục ấy đã đem đến sự phong phú cho tôi và nguồn can đảm cho tôi, và đó cũng là nền móng xây dựng hạnh phúc của tôi ; chính nhờ nó, tôi mới đủ khả năng giúp kẻ khác được hạnh phúc, và tôi đã cảm nhận được sự hài lònghoan hỉ. Tôi hoàn toàn hy sinh cho lý tưởng thương người đó và tôi sẽ luôn luôn trung thành với lý tưởng đó – dù cho tôi ốm đau hay khoẻ mạnh, trong suốt tuổi già của tôi hay trong khi chết – và đối với nó, tôi tin chắc rằng tôi sẽ luôn luôn giữ được lòng mến phục sâu xa. Hỡi các bạn hữu của tôi, tôi mong muốn xin các bạn hãy tập làm quen nhiều chừng nào hay chừng ấy với Bồ-đề tâm. Nếu có thể được, các bạn hãy dốc hết nổ lực để làm phát sinh trong lòng các bạn thái độ thương người và lòng từ bi. 

1-10- Tư duy ấy đã biến thân xác ô uế này thành một hình ảnh vàng ngọc và vô giá : ấy là Phật. Hãy nắm thật chặt vị thuốc mầu nhiệm này, tên gọi của vị thuốc là Tư duy của Giác ngộ !

 Khi ta suy tư hời hợt về Bồ-đề tâm, ta thấy nó tương đối khá đơn giản ; nó tỏ ra không đến đỗi quá hấp dẫn như thế. Các cách thiền định tan-tra xem nó như cơ bản của mạn-đà-la (môt khái niệm quan trông của Phật giáo Tây tạng, dưới hình thức một tranh vẽ, tượng trưng cho vũ trụ và những sức mạnh của vũ trụ giúp cho việc thiền định) và của các thần linh, điều này có thể tỏ ra vô cùng huyền bí cho ta, và cũng vì thế nên nó cũng trở nên hấp dẫn hơn. Tuy nhiên, khi ta bước vào tu tập, Bồ-đề tâm sẽ trở thành vô tận. Với nó ta sẽ không gặp bất cứ một bất ngờ nào làm cho ta vỡ mộng hay thối chí, trong khi đó những cách thiền định dựa vào thần linh, tụng kinh man-tra, cũng như các cách tu tập khác, đôi khi đưa đến thất vọng, bởi vì ta đặt vào đó những tham vọng quá lớn. Sau nhiều năm tu tập, ta có thể thốt lên : « Mặc dù tôi đã có tu tập thiền định dựa vào một thần linh và tôi cũng có tụng tất cả các kinh sách man-tra, nhưng tôi chẳng thấy một tiến bộ nào cả ; tôi chẳng cảm nhận được một kinh nghiệm thần bí nào cả » Tu tập về Bồ-đề tâm không đưa đến sự thất vọng đại loại như kiểu đó. Việc tu tập Bồ-đề tâm đòi hỏi một thời gian lâu dài, thật hết sức quan trọng khi ta bắt đầu đạt được một chút kinh nghiệm, hãy bộc lộ sự quyết tâm đó bằng những lời nguyện cầu dưới sự chứng kiến của một vị đạo sư hay trước một vị đại diện cho Phật. Hành vi này sẽ làm gia tăng thêm sức mạnh về Bồ-đề tạm của ta. Tu tập về Bồ-đề tâm là một nghi lễ đặc biệt, trong dịp này và trước mặt một vị thầy, ta phát nguyện cầu xin đạt được giác ngộ vì an vui của tất cả chúng sinh.

Phần đầu trong nghi lễ này là sự phát hiện ước vọng về Bồ-đề tâm. Làm phát sinh ước vọng thương người để đạt được Bồ-đề tâm vì sự an vui của tất cả chúng sinh tức là ta tự cam kết không từ bỏ và không làm suy thoái lòng nhiệt tâm đó, không những trong kiếp sống này, mà trong cả những kiếp sống về sau nữa. Muốn thực hiện lời cam kết đó phải noi theo một số giới luật. Phần thứ hai của nghi lễphát nguyện của người Bồ-tát ; người phát nguyện phải thực hiện xong phần thứ nhất của nghi lễ.

Sau khi đã phát nguyện, dù muốn hay không, dù đièu ấy có đem đến thích thú hay không, ta phải xem những lời phát nguyện ấy quý giá hơn mạng sống của chính ta. Sự quyết tâm giữ vững những lời phát nguyện đó phải vững chắc như một quả núi ; ta hứa từ giờ phút này phải noi theo những giới luật của người Bồ-tát và chọn một cuộc sống phù hợp với sự tu tập giúp đạt đến giác ngộ.

Nhất định một số những người đọc quyển sách này không phải là những người tu tập Phật giáo. Một số những người Phật giáo có thể cũng cảm thấy không mong muốn phát nguyện Bồ-đề tâm, và đặc biệt bước vào phần thứ hai của nghi lễ. Nếu ta cảm thấy thiếu khả năng tuân theo giới luật của người Bồ-tát, ta không nên phát nguyên ; nhưng điều này cũng không cấm cản ta làm nảy sinh lòng thương người trong ta, và cầu xin hạnh phúc sẽ đến với tất cả những sinh linh có giác cảm, để ta có đủ khả năng đạt được giác ngộ toàn vẹn vì an vui của kể khác. Làm được như thế cũng đủ : ta sẽ rút tỉa được những điều xứng đáng qua hành vi phát lộ Bồ-đề tâm, nhưng không cần phải tuân theo giới luật. Nếu không phát nguyện, ta chỉ phát huy được lòng ước vọng về Bồ-đề tâm mà thôi. Tùy vào sự phán đoán của quý vị về việc này.

Khích lệ bởi lòng ước mong giải thoát cho mọi chúng sinh
Tôi xin nhất quyết 
Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng,
Cho đến khi nào đạt được giác ngộ toàn vẹn.

Thúc đẩy bởi trí tuệlòng từ bi,
Hôm nay đây trước mặt Phật,
Tôi xin được phát khởi tâm thức Giác ngộ,
Vì sự an vui của tất cả chúng sinh.

Khi nào không gian còn tiếp tục,
Khi nào chúng sinh còn hiện hữu,
Tôi van xin vẫn còn đây
Để làm tan biến tất cả khổ đau của thế giới này.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11481)
Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng...
(Xem: 12651)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12266)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11044)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10921)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13373)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11794)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13673)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11914)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11185)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12209)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12414)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20607)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12439)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12467)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11730)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11604)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22442)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13587)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29701)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11553)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16758)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12018)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16854)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12084)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17938)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12654)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13180)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14772)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22638)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10595)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14056)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13879)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13729)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13879)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13950)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14842)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13864)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18429)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22813)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15406)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17333)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22426)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14274)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12595)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11180)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17778)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13219)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13116)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18809)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17188)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13522)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12928)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14707)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14665)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15883)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13527)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27449)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13256)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16737)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant