Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Từ Ngũ Cú Thuyết (五句說) Trong Kinh Trung A- Hàm Đến Năm Thể Tài Trong Kinh Điển Bà-la-môn.

06 Tháng Mười 201905:11(Xem: 4678)
Từ Ngũ Cú Thuyết (五句說) Trong Kinh Trung A- Hàm Đến Năm Thể Tài Trong Kinh Điển Bà-la-môn.

TỪ NGŨ CÚ THUYẾT (五句說) TRONG KINH TRUNG A- HÀM
ĐẾN NĂM THỂ TÀI TRONG KINH ĐIỂN BÀ-LA-MÔN.

Chúc Phú

Từ Ngũ Cú Thuyết
 

Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện. Theo Cao Tăng truyện quyển thứ nhất, bản kinh Trung A-Hàm đầu tiên do ngài Tăng-già-bạt-trừng (僧伽跋澄) tuyên đọc Phạn văn, ngài Đàm-ma-nan-đề (曇摩難提) viết ra chữ Phạn[1].

 Vào năm sau (384), Thái thú Vũ Oai Triệu Chánh (武威太守趙正) lại cầu thỉnh ngài Đàm-ma-nan-đề dịch Trung A-Hàm. Bản dịch Trung A-Hàm này phần lớn đã thất lạc và chỉ còn vài phiến đoạn trong Đại tạng kinh chữ Hán. Do vì bản dịch đầu tiên này còn nhiều điều cần bổ chính, nên hơn mười năm sau, vào niên hiệu Long An thứ hai (398) [2], bản kinh Trung A-Hàm lại được trùng dịch. Lúc này, ngài Tăng-già-đề-bà (僧伽提婆) tự mình tuyên đọc Phạn văn rồi dịch sang chữ Hán[3]. Đây là bản 61 quyển hiện được thu lục vào Đại tạng kinh Đại chánh tân tu mang số hiệu T0026, là để bản của bản dịch Tiếng Việt kinh Trung A-Hàm.

Dẫn xuất như vậy để thấy rằng, để bản Trung A-Hàm được kế thừa từ những nguồn khác nhau, chúng vừa được giữ gìn theo trí nhớ, vừa được ghi lại từ trí nhớ và tổng hợp cả hai yếu tố nêu trên. Và do vậy, trong toàn bộ nội dung kinh Trung A-Hàm, đã xuất hiện nhiều cú ngữ đặc thù, cô động đến mức khó có thể lý giải trọn vẹn. Ngũ cú thuyết (五句說) là một trường hợp như vậy.
1.    Ngũ cú thuyết trong kinh Trung A-Hàm.

Thành cú Ngũ cú thuyết (五句說) có nguyên tác như sau:

Nhân, duyên, chánh, văn và hí, gọi là Ngũ cú thuyết. (因, 緣, 正, 文,戲).

Trong kinh Trung A-Hàm, Ngũ cú thuyết xuất hiện trong một số bản kinh sau:

-        Kinh Tỳ-bà-lăng-kỳ (鞞婆陵耆), số 63.
-        Kinh Phạm-chí A-nhiếp-hòa (梵志阿攝惒), số 151.
-        Kinh Đầu-na (頭那) số 158.
-        Kinh A-lan-na (阿蘭那), số 160.
-        Kinh Phạm-ma (梵摩), số 161.

Tuy chỉ xuất hiện ở năm bản kinh trong toàn bộ 222 kinh Trung A-Hàm, thế nhưng nếu như chỉ căn cứ vào nghĩa của từng chữ thì không thể lý giải đầy đủ nghĩa của Ngũ cú thuyết này. Do vậy, nhằm góp phần giải mã tồn nghi nêu trên, chúng tôi sẽ lần lượt tham chiếu Ngũ cú thuyết hoặc tên gọi tương đương trong hai nguồn kinh điển chủ yếu, từ Hán tạng cho đến Nikāya.
2.    Ngũ cú thuyết trong kinh văn Hán tạng.

Có hai nguồn thư tịch quan trong trong kinh văn Hán tạng đề cập đến Ngũ cú thuyết nhưng được định danh với tên gọi khác nhau.

Thứ nhất, theo kinh Tạp A-Hàm, số 886, gọi là Ngũ chủng ký (五種記). Kinh ghi:

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Bà-la-môn:

-Thế nào gọi là ba minh của Bà-la-môn?

Bà-la-môn bạch Phật rằng:

-Thưa Cù-đàm, cha mẹ Bà-la-môn đều thuần chủng, không có các tì vết, cha mẹ bảy đời truyền nối mà không bị người chê bai, cha truyền con nối, luôn làm sư trưởng, biện tài đầy đủ; đọc tụng các kinh điển, định danh tự vạn vật, tính sai khác của vạn vật; phép tắc chữ nghĩalịch sử xưa nay, năm pháp thức này đều phải thông đạt và dung sắc đoan chánh. Thưa Cù-đàm, đó gọi là ba minh của Bà-la-môn.

Nguyên tác:

爾時,世尊告婆羅門言:云何名為婆羅門三明?

婆羅門白佛言:‘瞿曇!婆羅門父母具相,無諸瑕穢,父母七世相承,無諸譏論,世世相承,常為師長,辯才具足;誦諸經典、物類名字、萬物差品、字類分合、歷世本末,此,悉皆通達,容色端正。是名,瞿曇!婆羅門三明.[4]

Như vậy, Ngũ chủng ký (五種記) theo kinh Tạp A-Hàm là một trong những tiêu chuẩn quan trọng để hợp thành ba minh của Bà-la-môn. Ở đây, năm pháp thức đó là: đọc tụng các kinh điển, định danh tự vạn vật, tính sai khác của vạn vật; phép tắc của chữ nghĩalịch sử xưa nay.

Thứ hai, theo kinh Phật thuyết Bạch y kim tràng nhị Bà-la-môn duyên khởi (白衣金幢二婆羅門緣起經) gọi là Ngũ chủng ký luận (五種記論). Kinh ghi:

Lúc ấy Thế Tôn bảo hai vị Bà-la-môn Bạch yKim tràng:

-Các ông nên biết! Những Bà-la-môn tự cho rằng mình thông đạt ba minh nên xưng là chủng tộc tối thượng, dòng họ thanh tịnh, giữ lửa thờ trời, được sanh trong dòng tộc ưu thắng, cha mẹ đều thanh tịnh, dòng dõi thuần lương cho đến bảy đời, cha mẹ thanh cao, tôn quý; chủng tộc thù thắng, không tạo tội lỗi, không bị phỉ báng. Được như vậy đều nhờ chủng tộc thanh tịnh. Hơn nữa, phải thông suốt tường tận năm loại ký luận, bao gồm:

1. Các lý luận căn bản[5] và pháp rốt ráo của ba bộ Vệ-đà[6].
2. Định danh các vật
3. Cai-tra-bà-na (該吒婆那)
4. Văn tự, câu cú và chương tiết.
5. Ngôn ngữ kỳ diệu của hý tiếu.

Nguyên tác

爾時,世尊告白衣金幢二婆羅門言: ‘汝等當知,諸婆羅門,自謂了達三明,名稱上族,種姓清淨,從事火天勝族中生,父淨母淨,善生善種,乃至七世,父母尊高,種族殊勝,無罪無謗,是等皆因種姓淨故.又謂洞達明了五種記論,一本母法等究竟三明,二諸物定名,三該吒婆那,四文字章句,[7].

Trong Ngũ chủng ký luận (五種記論) của bản kinh này có cụm từ Cai-tra-bà-na (該吒婆那) được phiên âm từ chữ Phạn nên không hiểu đó là gì. Điều này, sau khi tham chiếu các nguồn thư tịch ở Nikāya, chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này.
3.    Ngũ cú thuyết trong kinh tạng Nikāya.

Trong kinh tạng Nikāya, Ngũ cú thuyết được gọi là Năm thể tài (pañcamānaṃ). Cú ngữ này xuất hiện rải rác trong cả ba bộ Nikāya. Để tiện theo dõi, chúng tôi lần lượt dẫn lại kinh văn, các đoạn trích dịch sau đều do HT. Thích Minh Châu dịch.
1.     Kinh Trường Bộ, kinh Chủng Đức (D.4)

Lại Tôn giả Sonadanda là nhà phúng tụng, nhà trì chú, thông hiểu ba tập Vedà với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giảilịch sử truyền thống là thứ năm, thông hiểu ngữ pháp và văn phạm, biện tài về Thuận thế (tự nhiên học) và tướng của vị đại nhân.
2.     Kinh Trung Bộ, kinh Brahmāyu (M.91)

 Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn du hành ở Videha, cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị.

Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Brahmayu trú tại Mithila (Di-tát-la) già yếu, niên cao, lạp lớn, đã đến tuổi trưởng thượng, đã gần mãn cuộc đời, tuổi đã đến một trăm hai mươi, một vị đọc tụng Thánh điển, chấp trì chú thuật, tinh thông ba tập Veda, với tự vựng, lễ nghi, ngữ nguyên và thứ năm là các cổ truyện, thông hiểu từ ngữvăn phạm, thâm hiểu Thuận thế luận và Đại nhân tướng.
3.     Kinh Tăng Chi Bộ.

Ở đây, thưa Tôn giả Gotama, vị Bà-la-môn thiện sanh cả từ mẫu và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một vết nhơ nào, không bị một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh, nhà phúng tụng, nhà trì chú, thông hiểu ba tập Veda với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải và các cổ truyện là thứ năm, thông hiểu ngữ pháp và văn phạm, biện tài về thuận thế (tự nhiên học) và tướng của các vị đại nhân. Như vậy, thưa Tôn giả Gotama, các vị Bà-la-môn diễn tả ba minh các vị Bà-la-môn. (A.3.58).

Thưa Tôn giả Gotama, nếu có ai nói một cách chân chánh, vị ấy phải nói rằng: "Vị Bà-la-môn thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không một vết nhơ nào, một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh; là nhà phúng tụng, nhà trì chú, thông hiểu ba tập Vedà với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giảilịch sử truyền thống là thứ năm, thông hiểu ngữ pháp và văn phạm, biện tài về thuận thế (tự nhiên học) và tướng của vị Đại nhân. (A.5. 192)
4.     Nguyên tác của Năm thể tài (pañcamānaṃ).

Như vậy, trong ba bộ Nikāya vừa dẫn ở trên, Năm thể tài (pañcamānaṃ) trong bản dịch Việt gần như giống nhau tuyệt đối, chỉ khác biệt ở một vài từ đồng nghĩa. Cơ sở của sự giống nhau đó dựa trên cú ngữ Pāli:

sanighaṇḍukeṭubhānaṃ sākkharappabhedānaṃ itihāsapañcamānaṃ

Ở đây:

sanighaṇḍu: từ vựng, ngữ vựng.
keṭubhānaṃ: nghi quỹ, nghi thức.
sākkhara: âm vị học, ngữ nguyên.
pabhedāna: phân tích ngữ âm, chú giải.
itihāsa: cổ truyện, sử truyện.

Năm thể tài này được áp dụng nhuần nhuyễn trên ba bộ Vệ-đà (tiṇṇaṃ vedānaṃ pāragū). Nói cách khác, muốn tiếp cận nghiên cứu, tụng đọc và giảng thuyết ba bộ Vệ-đà theo quan điểm của Bà-la-môn là phải am tường Năm thể tài (pañcamānaṃ) cơ bản này.

Đây là cơ sở tham chiếu quan trọng để lý giải một vài trường hợp chưa rõ nghĩa trong một số bản kinh chữ Hán, mà cụ thể ở đây là Ngũ cú thuyết (五句說) trong kinh Trung A-Hàm.
5.     Đối chiếu Năm thể tài (pañcamānaṃ) trong Nikāya và các cú ngữ tương đương trong kinh văn Hán tạng.
     1.   Kinh Tạp A-Hàm

Theo kinh Tạp A-Hàm, Ngũ chủng ký (五種記)  bao gồm:

Đọc tụng các kinh điển, định danh tự vạn vật, phẩm tính sai khác của vạn vật; phép tắc chữ nghĩalịch sử xưa nay.

(誦諸經典、物類名字、萬物差品、字類分合、歷世本末,此).

So sánh:
1. Đọc tụng các kinh điển, (誦諸經典), tương đồng với từ vựng, ngữ vựng (sanighaṇḍu), cần phải thông thuộc trong ba bộ Vệ-đà (tiṇṇaṃ vedānaṃ pāragū).
2. Định danh tự vạn vật (物類名字), tương đồng với nghi quỹ, nghi thức (keṭubhānaṃ).
3. Phẩm tính sai khác của vạn vật (萬物差品), tương đồng với âm vị học, ngữ nguyên (sākkhara).
4. Phép tắc chữ nghĩa (字類分合) tương đồng với phân tích ngữ âm, chú giải (pabhedāna).
5. Lịch sử xưa nay (歷世本末) tương đồng với cổ truyện, sử truyện (itihāsa).
     2.   Kinh Phật thuyết Bạch y kim tràng nhị Bà-la-môn duyên khởi (白衣金幢二婆羅門緣起經).

Trong bản kinh này, gọi là Ngũ chủng lý luận (五種記論), bao gồm:

1. Các lý luận căn bản và pháp rốt ráo của ba bộ Vệ-đà.
2. Định danh các vật
3. Cai-tra-bà-na (該吒婆那)
4. Văn tự, câu cú và chương tiết.
5. Ngôn ngữ kỳ diệu của hý tiếu.

So sánh
1. Các lý luận căn bản và pháp rốt ráo của ba bộ Vệ-đà (一本母法等究竟三明) tương đồng với từ vựng, ngữ vựng (sanighaṇḍu), cần phải thông thuộc trong ba bộ Vệ-đà (tiṇṇaṃ vedānaṃ pāragū)

2. Định danh các vật (諸物定名) tương đồng với âm vị học, ngữ nguyên (sākkhara).
3. Cai-tra-bà-na (該吒婆那). Cụm từ này là được phiên âm từ Phạn ngữ. Theo chúng tôi, đó là sự phiên âm từ chữ keṭubhānaṃ, tức là nghi quỹ, nghi thức.
4. Văn tự, câu cú và chương tiết (文字章句) tương  đương với phân tích ngữ âm, chú giải (pabhedāna).
5. Ngôn ngữ kỳ diệu của hý tiếu (). Cần lưu ý rằng, lịch sử của Ấn Độ cổ đại nói chung được thể hiện dưới dạng trường ca, tán ca. Trường ca là một thể loại văn chương gắn liền với hý khúc. Do vậy, yếu tố thứ năm này tương đồng với cổ truyện, sử truyện (itihāsa).

     3. Kinh Trung A Hàm

Trong kinh Trung A-Hàm, thành cú Ngũ cú thuyết (五句說), gồm:

Nhân, duyên, chánh, văn và hí. (因, 緣, 正, 文,戲).

So sánh
1. Nhân (因): là căn nguyên, là những lý luận căn bản của kinh điển Vệ-đà. Tương tự như cụm từ bổn mẫu pháp (本母法)của kinh Phật thuyết Bạch y kim tràng nhị Bà-la-môn duyên khởi vừa dẫn ở trên. Như vậy, Nhân (因) tương đương với từ vựng, ngữ vựng (sanighaṇḍu), cần phải thông thuộc trong ba bộ Vệ-đà (tiṇṇaṃ vedānaṃ pāragū).

2. Duyên (緣): theo từ nguyên, là yếu tố phụ nhưng có tác dụng bổ trợ hoặc làm cho đẹp thêm, khác biệt thêm. Đơn cử như câu: áo thuần lụa trắng, quần không viền lai ( 常衣大練,裙不加緣)[8]. Cụ thể hơn, trong Đại đường Tây-vức-ký, ngài Huyền Tráng ghi: Về quy cách ba y, bộ phái vâng giữ không đồng, hoặc đường biên rộng, hẹp; hoặc đường viền, nhỏ, to. (三衣裁製,部埶不同,或緣有寬狹,或葉有小大)[9]. Như vậy, duyên (緣) ở đây mang nghĩa phân tích, chú giải (pabhedāna).
3. Chánh (正): Ngoài những nghĩa thông thường, chữ chánh (正) ở đây còn mang nghĩa là tiêu chuẩn, chuẩn tắc (標准,准則). Ở nghĩa này sẽ tương đống với chữ keṭubhānaṃ, tức là nghi quỹ, nghi thức.
4. Văn (文): có nghĩa câu, chữ văn chương (文辭,詞句). Ở nghĩa này, Văn (文) hoàn toàn tương đồng với sākkhara, tức ngữ nguyên.
5. Hí (戲): tức hí kịch (戲劇), nghĩa là diễn lại sự tích cũ, gọi là vở kịch, vở tuồng. Ở nghĩa này, Hí (戲) tương đồng với chữ itihāsa, nghĩa là cổ truyện, s truyện.
6. Nhận địnhđề xuất.
Như vậy, Ngũ cú thuyết (五句說) trong kinh Trung A-Hàm là năm thể tài (pañcamānaṃ) mà một vị Bà-la-môn cần phải tinh thông mới được gọi là Bà-la-môn thông đạt tam minh. Do ảnh hưởng từ nhiều yếu tố, thế nên khi dịch sang Hán ngữ thì năm thể tài này được diễn đạt khác nhau, tùy theo từng bộ kinh, tùy theo kiến thức, quan điểm của từng nhà phiên dịch.

Ở đây, từ những đối chiếu và phân tích ở trên, thành cú Ngũ cú thuyết (五句說) trong kinh Trung A-Hàm bao gồm: nhân, duyên, chánh, văn và hí. (因,緣,正,文,戲), chúng tôi kính đề nghị chuyển dịch là:

Căn nguyên, chú giải, nghi quỹ, văn chươngcổ sử.

 



[1] 大正新脩大藏經第 50 冊 No. 2059《高僧傳》, 卷第一. Nguyên văn:跋[14]證口誦經本。T50n2059_p0328b08║外國沙門曇摩難提筆受為梵文

[2] 大正新脩大藏經第 55 冊 No. 2145《出三藏記集》, 卷第二.

[3] 大正新脩大藏經第 50 冊 No. 2059《高僧傳》, 卷第一. Nguyên văn: 提婆乃於般若臺。T50n2059_p0329a12║手執梵文口宣晉語

[4] 大正新脩大藏經第 2 冊 No. 99. 雜阿含經, 卷第三十一.[1]

[5] 大正新脩大藏經第 54 冊 No. 2131 翻譯名義集, : 梵語摩怛理迦。此云. 能生妙T54n2131_p1110c23║慧. 妙慧因論而生. 故展轉翻為論也. Tham chiếu, Hiển dương Thánh giáo, quyển 12: hết thảy sách vở, toán thuật, văn thơ và luận lý đều xuất phát từ bổn mẫu (世間一切書算詩論皆有T31n1602_p0538c24║).

[6] Nguyên tác tam minh (三明). Một cách gọi khác chỉ cho ba bộ Vệ-đà.

[7] 大正新脩大藏經第 1 冊 No. 10, 白衣金幢二婆羅門緣起經, 卷上.

[8] 後漢書,皇后紀上, 明德馬皇后.

[9] 大正新脩大藏經第 51 冊 No. 2087 大唐西域記, 卷第二

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9322)
Học Phật Nên Biết - Tác Giả: Pháp Sư Thánh Nghiêm, Pháp Sư Ấn Thuận, Pháp Sư Kim Minh và Phương Khắc Minh; Dịch Việt: Thích Nguyên Thành
(Xem: 11482)
Kinh PHÁP CÚ là một bộ Kinh rất xưa, được xem là kinh Lời Vàng cho những ai có chí nguyện tu tâm, dưỡng tánh để tiến thân trên lộ trình hành đạo giải thoát... Thích Nữ Nguyệt Chiếu
(Xem: 7578)
Lâu nay nói đến các trường Phật họcNam Bộ, người ta thường nghĩ đến Phật học đường Nam Việt, Sài Gòn... Thích Minh Cảnh
(Xem: 12305)
Tự học tiếng Tây Tạng - Tạng Ngữ Hiện Đại - Losang Thonden, Việt dịch: Konchog Kunzang Tobgyal
(Xem: 143689)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 6970)
Với tinh thần đó, trong khi chuyển ngữ ra tiếng Việt thời nay, việc gỡ bỏ ba chữ đó là hoàn toàn hợp lẽ... Hoằng Quảng
(Xem: 11892)
Nội dung tu học Phật pháp nước ta đại bộ phận đều phát xuất từ các kinh điển Hán dịch... HT Thích Phước Sơn
(Xem: 8634)
Thế giới này là một chuỗi dài nhân duyên nương tựa vào nhau mới bảo tồn sự sống... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 19976)
Tu Tâm, Dưỡng Tánh, Nhân quả, Tứ diệu đế, Từ bi, Chữ Hòa, Yếu tố hòa bình... HT Thích Thiện Hoa
(Xem: 9294)
Một bản ngã khi muốn có được cái gì từ người khác thường thích đóng vai một nhân vật nào đó để làm cho nhu cầu của nó được đáp ứng... Eckhart Tolle
(Xem: 10837)
Sắc Tức Là Không, Không Tức Là Sắc - Nguyên tác: Cư sĩ Lý Nhất Quang, HT Thích Thắng Hoan dịch Việt ngữ
(Xem: 13595)
Biểu tượng quốc gia của các nước như Thái Lan, Indonesia, và thủ đô Ulan Bator (Mông Cổ) là hình tượng chim thần Garuda... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 11454)
La Sát là từ được phiên âm của Rakshasa/ Raksha (Sanskrit) là một sinh vật thần thoạihình dáng, tính cách của loài người hoặc quỷ thần bất thiện trong Hindu giáo và Phật giáo... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 9369)
Ở xứ ta, sinh vật thần thoại Khẩn Na La, trong kinh văn Phật giáo là một trong “bát bộ chúng”. Trong mỹ thuật cổ, sinh vật thần thoại Kinnara này được giới nghiên cứu gọi là “Tiên nữ đầu người mình chim”... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 14481)
Muốn sáng lại ánh sáng sẵn có, muốn sống lại lẽ sống như thực, Thái-Hư Đại-Sư thâu tóm tinh-hoa Phật-học thành cuốn sách nhỏ nầy... HT Thích Tâm Châu
(Xem: 7280)
Lâu nay mỗi chúng ta theo đạo Phật nhưng có nhiều điểm nghi ngờ, thấy đạo Phật hình như tiêu cực, đa số chùa chiền đều ở trên núi, cách xa thành thị... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 32511)
Vào ngày trăng tròn tháng năm năm 623 trước Tây lịch, một hoàng tử thuộc bộ tộc Thích Ca (1) của Ấn Ðô, tên là Tất Ðạt Ða (Siddhattha) họ Cồ Ðàm (Gotama) đã ra đời... HT Thích Trí Chơn
(Xem: 13146)
Đạo Phật đã chung sống với người dân Việt gần hai mươi thế kỷ, sợi dây liên lạc đã thắt chặt đạo Phật với dân tộc Việt Nam thành một khối bất khả phân ly... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 21019)
Phật giáo Huế là cái nôi của sự giữ gìn truyền thống thống nhất Phật giáo trong cả nước... Thích Hải Ấn
(Xem: 39166)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 7143)
Trích dịch từ nguyên tác “A Complete Guide to the Buddhist Path” by Khenchen Konchog Gyaltshen, edited by Khenmo Trinlay Chödrön, Thanh Liên dịch sang Việt ngữ
(Xem: 8984)
Một cơn đau đớn cực độ cũng có thể đưa đến một thể dạng giác ngộ nào đó giúp mình mở rộng tâm thức và con tim hướng vào kẻ khác.
(Xem: 6762)
Tờ nhật báo uy tín Le Monde của Pháp ngày 18/9/2013 đã nêu lên các mưu đồ và tham vọng quốc tế nhằm khai thác thánh địa Phật Giáo Lâm-tì-ni ... Hoang Phong
(Xem: 9783)
Bất nhị là không phải hai hay nhiều, cũng không phải một, mà là vô lượng hay không có số lượng. Số lượng là số đếm chỉ có trong thế giới tương đối, nhị nguyên... Truyền Bình
(Xem: 9494)
Thầy Tuệ Sỹ viết: “Bởi vì con cá dưới lòng sông không làm sao hiểu nổi chuyện kể đầy tính hoang đường của con rùa sau những chuyến du hành trên đất liền..." Đặng Công Hanh
(Xem: 8059)
Cứ một ngàn dải Ngân hà được tính là một tiểu thiên thế giới, một ngàn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới, một ngàn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới... Nhụy Nguyên
(Xem: 11811)
Các khoa học gia đã tìm thấy Thiền tập đều đặn có thể thay đổi cơ cấu hoạt độnghệ thống kinh mạch bên trong não bộ... Nguyên tác: Marc Kaufman; Trần Như Mai dịch
(Xem: 16182)
Phật giáo được truyền đến Sri Lanka từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Và phần lớn thời gian trong suốt hơn 2.000 năm, Phật giáo được xem quốc giáo tại đảo quốc này... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 9634)
Chúng tôi hi vọng tập sách nhỏ này sẽ giúp ích phần nào cho sự tu học của đại chúng. Chúng tôi cũng mong mỏi được các bậc cao minh tôn túc chỉ bảo cho những điều sai sót mà chúng tôi biết chắc chắn là không thể nào tránh khỏi được.
(Xem: 12257)
Theo kinh điển, hai truyền thống Nam truyền và Bắc Truyền đều thừa nhận Đức Phật có đầy đủ 32 tướng quý... Thụy Nguyên
(Xem: 8824)
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đưa người ta đến một sự chuyển hóa toàn triệt và toàn diện cuộc đời sanh tử khổ đau manh mún bởi chia cắt, phân biệt, oán ghét và xung đột của mình bằng cái thấy biết chân thật của Phật... Đương Đạo
(Xem: 15590)
Giáo Khoa Phật Học (3 Tập) Nguyên tác Hán ngữ của PHƯƠNG LUÂN cư sĩ, Cư sĩ HẠNH CƠ dịch và biên soạn bổ túc
(Xem: 8036)
Trong khi xem kinh, nên có con mắt trạch pháp để nhận định những lời nào Phật quyền thuyết, những lời nào Phật thật thuyết, những lời nào là chính yếu, những lời nào là phụ yếu...
(Xem: 17873)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 8684)
Lương Vũ Đế, tự Tiêu Diễn, lên ngôi vào năm 37 tuổi, tại vị 49 năm, thọ 86 tuổi. Là vị vua sáng lập nên triều đại nhà Lương (502-556) trong giai đoạn Nam Bắc triều (420-589) của Trung Hoa.
(Xem: 8335)
“Nghiệp” là một danh từ triết học Ấn Độ có trước khi Đức Thích Ca xuất hiện. Ý nghĩa cơ bản của nó là “hành động” hoặc “thói quen”... Nguyễn Xuân Chiến
(Xem: 10543)
Nguyệt San Phật Giáo Việt Nam - Do Tổng hội Phật Giáo Việt Nam xuất bản năm 1956
(Xem: 15866)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 17539)
Danh từ tên gọi của Thủ Lư theo sách Trung Hoa Phật Quang Văn Hóa Thiên Phật Giáo Dụng Ngữ chép: "Thủ lư là lư hương cầm ở trên tay, còn gọi là Bỉnh hương lư, Thủ lư, Đề lư... Thích Tâm Mãn
(Xem: 7952)
Đại chúng bộbộ phái được xem là tiền thân của Phật giáo Đại thừa hoặc là bộ phái đóng góp nhiều trong lịch sử phát triển Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 13034)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 8061)
Phật dạy 20 điều khó không mang một sắc thái bi quan hay chán chường, mà nhằm chỉ dạy chúng ta phải ý thức rằng sự sống này phải nương nhờ lẫn nhau mới bảo tồn mạng sống trên nền tảng của nhân quả... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 8626)
Đạo Phậtcon đường dẫn đến an vui giải thoát. Đức Phật là bậc đạo sư, là người dẫn đường chứ không phải là vị thần linh có quyền ban phước giáng họa cho ai... Hoàng Nguyên
(Xem: 9794)
Tam Nguyệt San Hải Triều Âm - Cơ quan phát khởi nền quốc học, Phật học, và Văn hóa Việt Nam do Tổng Vụ Văn Hóa GHPGVNTN chủ trương từ 1973 đến 1975
(Xem: 10371)
Mục đích duy nhấtcuối cùng của con đường học Phật, tu Phật chính là thoát khỏi sinh tử. Trên đường đi tới điểm đích ấy, nền tảng chủ yếu hướng dẫn người tu Phật xuất gia lẫn tại gia không bị lạc lối được xem là sự nghiệp trí tuệ... Đoàn Ánh Loan
(Xem: 23308)
Giới luậtsinh mệnh, là sự sống của Phật tử, nhất là của hàng Tỳ kheo thừa Như lai sứ, hành Như lai sự... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 19397)
Ba học Giới, Định, Tuệ là những nhân tố then chốt nhất của người học Phật, như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một tất không thể đứng vững. Nhưng giới học, hay là giới luật học, lại là căn bản nhất... HT Thích Thanh Kiểm
(Xem: 10076)
Tuần San Đuốc Tuệ 1965 - Cơ Quan Phát huy tinh thần Phật Giáo, Khai triển văn hóa dân tộc - Miền Vĩnh Nghiêm trong GHPGVNTN 1965
(Xem: 8284)
Đặc San Hoằng Pháp Dharmaduta - Cơ Quan Truyền Bá Chánh Pháp Của GHPGVNTN 1973
(Xem: 24224)
Từ Điển Pháp Số Tam Tạng - Nguyên tác: Pháp sư Thích Nhất Như, Cư sĩ Lê Hồng Sơn dịch
(Xem: 8872)
Thế Thân, tác giả của bộ luận này vốn là một khai sĩ có quá nhiều truyền thuyết và ít nhiều sương khói trùm lên tiểu sử của ngài, đến nỗi cho đến nay, các học giả cũng chưa xác định được Thế Thân là ai.
(Xem: 8477)
Có thể nói rằng quan điểm bình đẳng về khả năng giải thoát tâm linh do Đức Phật đưa ra có một ý nghĩa cách mạng xã hội đáng kể...
(Xem: 8020)
Những hố thẳm triết lý mà Phạm Công Thiện nhắc tới là những hố thẳm tuyệt vọng của triết lý Tây Phương khi chưa tìm ra ngỏ thoát... Quán Như
(Xem: 17784)
Đức Phật nêu lên tánh không như là một thể dạng tối thượng của tâm thức không có gì vượt hơn được và xem đấy như là một phương tiện mang lại sự giải thoát... Hoang Phong dịch
(Xem: 9526)
Hãy hướng tâm vào bên trong và cố gắng tìm niềm vui ở bên trong. Chỉ khi tâm đã được kiềm chế và dẫn dắt đúng hướng thì nó mới có ích cho chủ của nó và xã hội.
(Xem: 8221)
Lôgic học Phật giáo được hình thành trước logic học Aristote gần hai trăm năm. Hệ thống lôgic của Phật giáo "thực tế" hơn và mang một chủ đích hay ứng dụng rõ rệt hơn... Hoang Phong
(Xem: 24396)
Lược Sử Phật Giáo Trung Quốc (Từ thế kỷ thứ I sau CN đến thế kỷ thứ X) - Tác giả Viên Trí
(Xem: 24730)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 8423)
Triết học Trung quán kêu gọi sự chú ý của chúng ta, như một hệ thống đã tạo nên cuộc cách mạng trong đạo Phật và qua đó, toàn lĩnh vực triết học Ấn Độ.
(Xem: 8263)
Giới Thiệu Tóm Tắt Về Bộ Trung Quán Trong Tạng Luận Theo Đại Tạng Kinh Đại Chánh Tân Tu ... Đào Nguyên
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant